← Quay lại trang sách

Chương 26 Một Tấm Séc Không

Gurney lái xe qua dãy núi Catskills đến trang trại nhà nằm ngoài Walnut Crossing, sự kiệt quệ đã trùm khắp người anh một lớp sương mù của cảm xúc, trộn lẫn vào nhau là bao đói khát, buồn bực, ngờ vực về bản thân. Tháng Mười một càng tiến dần đến mùa đông, thời gian trong ngày càng bị rút ngắn đến u uất – nhất là trong vùng thung lũng, nơi những ngọn núi bao quanh góp phần làm hoàng hôn buông xuống sớm hơn. Xe của Madeleine đã biến mất khỏi chỗ đậu thường lệ nằm sát kho thóc ngoài vườn. Một phần tuyết tan chảy trong nắng trưa và đóng băng trở lại trong cơn lạnh chiều tà, lạo xạo dưới chân.

Căn nhà im ắng một vẻ chết chóc. Gurney bật sáng dàn đèn treo trên chiếc bàn xắt thịt ở giữa căn bếp. Anh nhớ Madeleine sáng hôm ấy có nói phong thanh chuyện tiệc tối theo kế hoạch của họ bị hủy vì có một cuộc họp nào đó mà tất cả chị em phụ nữ đều muốn tham dự, nhưng anh không nhớ chi tiết. Vậy rốt cuộc không cần mua mấy hạt hồ đào khốn kiếp nữa rồi. Anh bỏ một gói trà túi lọc Darjeeling vào tách, rót đầy nước vòi, rồi đặt trong lò vi ba. Thói quen đưa đẩy, anh đi tới chiếc ghế bành của mình ở bên kia căn bếp đồng quê. Anh ngả lưng xuống ghế, chân gác lên chiếc ghế đẩu gỗ. Hai phút sau, tiếng bíp của lò vi ba bị hút vào cảnh vật của một giấc mộng mông lung.

Anh thức giấc khi nghe tiếng chân của Madeleine.

Có lẽ anh nhạy cảm quá chăng, nhưng rõ ràng tiếng chân có cái gì đó nghe như đang giận dữ. Hướng đi và khoảng cách của tiếng chân dường như cho thấy chắc hẳn cô đã thấy anh ngồi trong ghế nhưng lại không muốn nói chuyện với anh.

Anh mở mắt ra kịp lúc thấy cô đang ra khỏi bếp đi về phía phòng ngủ. Anh vươn vai, đẩy mình ra khỏi độ sâu của chiếc ghế, đi đến tủ búp phê lấy một tờ giấy ăn để hỉ mủi. Anh nghe tiếng cửa phòng vệ sinh đóng lại, hơi quả quyết một chút, rồi một phút sau cô quay trở lại bếp. Cô đã thay chiếc áo lụa kiểu bằng một chiếc áo len trùm mông.

“Anh dậy rồi à,” cô nói.

Anh nghe như đó là lời chỉ trích anh đã ngủ.

Cô bật lên một dãy đèn phía trên mặt bếp chính rồi mở tủ lạnh. “Anh ăn chưa?” Nghe như một lời trách móc.

“Chưa, hôm nay mệt mỏi quá, về nhà anh chỉ pha một ly – ôi, khỉ thật, anh quên mất.” Anh đến chỗ lò vi ba, lấy ra một tách trà lạnh ngắt, đen sẫm, rồi đổ hết xuống chậu rửa, cả túi lẫn trà.

Madeleine đến chỗ chậu rửa, nhặt gói trà túi lọc lên thả vào thùng rác, cố ý cho anh thấy.

“Em cũng mệt lắm đây.” Cô im lặng lắc đầu một chập. “Em chẳng hiểu tại sao mấy kẻ ngốc ở đây lại tin là nên xây giữa cái tỉnh xinh đẹp nhất bang này một nhà tù gớm ghiếc có rào thép gai xung quanh kia chứ.”

Giờ thì anh đã nhớ ra. Sáng hôm ấy cô bảo anh rằng cô định sẽ dự một cuộc họp trong thị trấn, nơi người ta sẽ thảo luận một lần nữa cái đề xuất gây tranh cãi ấy. Câu hỏi gây tranh cãi là thị trấn này có nên ganh đua để trở thành địa điểm xây một cơ sở mà nhóm phản đối gọi là nhà tù và nhóm ủng hộ gọi là trung tâm điều trị hay không. Cuộc chiến về danh pháp phát sinh từ thứ ngôn ngữ quan liêu rất mơ hồ trong văn bản cho phép thực hiện dự án xây thí điểm một loại viện mới. Viện sẽ được biết đến với cái tên SCATE – Môi trường Trị liệu và Cải tạo của Bang – phục vụ hai mục đích là tống giam và cải tạo trọng phạm ma túy. Thực sự thì thứ ngôn ngữ quan liêu đó rất khó hiểu, dẫn đến nhiều cách lý giải và lập luận khác nhau.

Đây là vấn đề nhạy cảm giữa hai người – không phải vì anh không chia sẻ với cô mong muốn để viện SCATE nằm ngoài Walnut Crossing, mà vì anh chưa tham gia vào cuộc chiến này nhanh nhạy như cô tưởng. “Chắc chỉ có chưa được chục người hưởng lợi thôi,” cô nói một cách nghiêm nghị, “còn những ai trong thung lũng – và những ai phải lái qua thung lũng – sẽ bị một cái gai trong mắt hành hạ khổ sở trong suốt quãng đời còn lại. Mà vì cái gì cơ chứ? Vì cái gọi là cải tạo một lũ khốn buôn ma túy ư? Cho em xin đi!”

“Những thị trấn khác đang ganh đua nhau để được như vậy. Nếu may mắn thì sẽ có thị trấn thắng.”

Cô cười một cách ảm đạm. “Nhất định rồi, nếu mấy ông quản trị ở các thị trấn khác tha hóa hơn mấy ông ở đây.”

Cảm thấy sự căm phẫn sôi sục trong cô là một dạng áp lực đối với anh, anh quyết định thử đổi đề tài.

“Để anh làm trứng ốp lết nhé?” Anh quan sát cơn đói của cô đang thoáng ganh đua với cơn giận còn đọng lại. Cơn đói thắng cuộc.

“Đừng bỏ ớt xanh,” cô báo trước. “Em không thích ớt xanh.”

“Vậy sao em mua?”

“Em không biết. Mua đâu phải để làm ốp lết.”’

“Em ăn hành không?”

“Không hành.”

Cô dọn bàn trong khi anh đánh trứng và làm nóng chảo.

“Em muốn uống gì không?” anh hỏi.

Cô lắc đầu. Anh biết cô không bao giờ uống thứ gì kèm bữa ăn, nhưng anh vẫn hỏi. Một thói quen lạ lùng nho nhỏ, anh nghĩ, khi lúc nào cũng cứ hỏi câu ấy.

Hai người chỉ nói một vài từ cho tới tận khi ăn xong và cùng làm nghi thức đẩy nhẹ chiếc đĩa sạch bóng thức ăn ra giữa bàn.

“Kể em nghe về ngày hôm nay của anh nào,” cô nói.

“Ngày của anh? Ý em là cuộc họp của anh với nhóm điều tra án mạng cừ khôi ư?”

“Anh không ấn tượng gì ư?”

“Ồ, có ấn tượng chứ. Nếu em muốn viết sách về cơ chế vận hành đồng đội sai lệch, do tay ‘đại úy quái thai’ điều hành, thì em có thể đặt máy ghi âm ở đó để ghi lại chính xác từng từ một.”

“Tệ hơn công việc lúc anh chưa về hưu sao?”

Anh chần chừ một lúc mới trả lời, không phải do anh không chắc chắn, mà do anh nhận ra cái ngữ điệu căng thẳng trong từ ‘về hưu’. Anh quyết định đáp lại lời chứ không đáp lại giọng.

“Trong thành phố có một số người khó tính thật, nhưng mức độ ngạo mạn và thiếu tự tin của tay ‘đại úy quái thai’ này thì hoàn toàn khác. Y lúc nào cũng chăm chăm gây ấn tượng với tay ủy viên công tố, không tôn trọng thuộc cấp, không thật sự hứng thú với vụ án. Hỏi gì, bình phẩm bất kỳ điều gì thì không hằn học cũng lạc đề, mà thường là cả hai ấy chứ.”

Cô nhìn anh một cách dò xét. “Em chẳng lấy làm lạ.”

“Ý em là sao?”

Cô khẽ nhún vai. Trông như cô đang cố gắng tạo vẻ mặt để truyền đạt càng ít càng tốt. “Em chẳng lấy làm lạ thôi. Em nghĩ nếu anh về nhà rồi nói mình đã làm việc cả ngày với đội điều tra án mạng cừ khôi nhất mình từng gặp thì em mới ngạc nhiên. Chỉ vậy thôi.”

Anh biết quá rõ không chỉ có vậy. Nhưng anh đủ thông minh để biết Madeleine thông minh hơn anh và chẳng đời nào anh có thể gạ cô nói chuyện cô không có hứng thú nói.

“Ừ thì,” anh nói, “thật sự rất mệt mỏi và chán nản. Giờ anh chỉ muốn gạt chuyện đó ra khỏi đầu và làm cái gì đó hoàn toàn khác.”

Anh chỉ buột miệng nói thế, nên ngay sau đó đầu óc anh trống rỗng. Chuyển sang một thứ hoàn toàn khác nghe có vẻ dễ nhưng lại không phải vậy. Những khó khăn trong ngày tiếp tục cuộn xoáy trước mặt anh, cùng với phản ứng kỳ bí của Madeleine. Ngay thời khắc đó, cái lựa chọn mà trong tuần vừa qua vẫn luôn kéo giật giới hạn kháng cự của anh, cái lựa chọn anh muốn khuất mắt nhưng lại không hoàn toàn muốn rũ ra khỏi đầu, một lần nữa lại xen vào. Lần này, một cách bất ngờ, đến cùng với nó là một sự cương quyết bộc phát giục anh phải thực hiện cái hành động mà anh đã né tránh bấy lâu.

“Cái hộp,” anh nói, cổ họng anh thắt lại, giọng anh khàn đục, khi anh cố ép cái đề tài ấy ra ngoài trước lúc nỗi sợ hãi kịp giam hãm anh trở lại, trước lúc anh kịp nghĩ phải kết thúc câu như thế nào.

Cô đưa mắt khỏi chiếc đĩa đã sạch thức ăn, ngước lên nhìn anh – điềm đạm, tò mò, chăm chú – chờ anh nói tiếp.

“Mấy bức vẽ của nó… Em… Ý anh là tại sao…?” Anh cố moi từ trong đống mâu thuẫn và hỗn độn tìm một câu hỏi hợp lý.

Nỗ lực ấy không cần thiết. Madeleine có khả năng hiểu thấu suy nghĩ của anh qua đôi mắt, hơn hẳn khả năng nói thành lời của anh.

“Chúng ta phải nói lời tạm biệt.” Giọng cô nhẹ nhàng, thư thái.

Anh nhìn trân trân xuống bàn. Không gì trong tâm trí anh có thể tạo nên lời.

“Chuyện đã lâu rồi mà,” cô nói. “Danny ra đi rồi mà chúng ta chưa bao giờ từ biệt con.”

Anh gật đầu, một cái gật gần như vô hình. Cảm nhận của anh về thời gian đang tan biến, tâm trí anh trống rỗng đến mức lạ kỳ.

Khi điện thoại đổ chuông, anh cảm thấy như đang bị đánh thức, bị kéo trở lại thế giới hiện tại – một thế giới của những vấn đề quen thuộc, mô tả được, đo đạc được. Madeleine vẫn ngồi ở bàn cùng anh, nhưng anh không rõ hai người đã ngồi đó được bao lâu.

“Anh muốn em trả lời điện thoại không?” cô hỏi.

“Không sao. Để anh bắt máy cho.” Anh ngần ngại, như chiếc máy tính đang nạp lại dữ liệu, rồi đứng lên, hơi chao đảo, đi tới phòng làm việc.

“Gurney đây.” Trả lời điện thoại bằng cách ấy – cái cách anh vẫn luôn đeo bám trong nhiều năm điều tra án mạng – là một thói quen anh cảm thấy khó có thể bỏ.

Giọng chào trên điện thoại rất rạng rỡ, hùng hổ, nồng hậu giả tạo. Nó làm anh nghĩ ngay đến nguyên tắc cũ rích trong nghệ thuật bán hàng: luôn mỉm cười khi nói chuyện qua điện thoại, vì như vậy nghe sẽ thân thiện hơn.

“Dave, mừng quá, anh có ở đó! Sheridan Kline đây. Hy vọng không làm gián đoạn bữa tối của anh.”

“Tôi làm gì được cho anh?”

“Tôi sẽ vào ngay vấn đề. Tôi tin anh thuộc loại người có thể thoải mái nói chuyện thẳng thắn. Tôi biết tiếng tăm của anh. Trưa nay tôi cũng lờ mờ hiểu ra tại sao anh lại được tiếng tăm đó. Tôi ấn tượng lắm. Hy vọng tôi không làm anh ngượng.”

Gurney đang thắc mắc chuyện này sẽ dẫn đến đâu. “Anh tử tế thật đấy.”

“Không phải tử tế mà là chân thật. Tôi gọi cho anh vì vụ án này đòi hỏi một người có năng lực như anh, và tôi muốn tìm cách tận dụng tài năng đó.”

“Anh biết tôi đã nghỉ hưu rồi mà, đúng không?”

“Ừ, tôi nghe người ta nói vậy. Và tôi đoan chắc anh chẳng bao giờ muốn trở lại những thứ thường nhật ngày xưa cả, nên tôi không đề nghị thứ gì như thế đâu. Tôi có cảm giác vụ án này sẽ là một vụ lớn, và tôi muốn biết suy nghĩ của anh.”

“Tôi không hiểu anh muốn tôi làm gì.”

“Hay nhất là,” Kline nói, “tôi muốn anh tìm ra hung thủ giết Mark Mellery.”

“Đó chẳng phải là trách nhiệm của tổ trọng án BCI sao?”

“Đúng vậy. Và nếu may mắn thì cuối cùng họ sẽ phá được án.”

“Tuy nhiên?”

“Tuy nhiên tôi muốn cải thiện xác suất thắng của mình. Vụ án này hết sức quan trọng nên không thể để mặc cho nó theo quy trình thông thường được. Tôi muốn sử dụng con át chủ bài của mình.”

“Tôi không thấy vai trò của tôi ở đâu cả.”

“Anh không thấy vai trò của anh trong BCI ư? Đừng lo. Tôi nhận thấy Rod không phải là loại người mà anh thích hợp tác. Đừng lo, anh sẽ báo cáo trực tiếp với tôi. Chúng tôi có thể cho anh một vai trò kiểu như trợ tá điều tra hay cố vấn viên cho văn phòng của tôi, cái nào thích hợp cho anh thì làm.”

“Anh cần tôi trong bao lâu?”

“Chuyện đó tùy anh.” Thấy Gurney không đáp lại, y nói tiếp, “Mark Mellery chắc hẳn rất thán phục và tin tưởng anh. Ông ấy nhờ anh giúp mình đối phó với một tên ác thú. Tôi muốn nhờ anh giúp tôi đối phó với chính tên ác thú ấy. Anh làm được gì cho tôi thì làm, tôi sẽ rất cảm kích.”

Tay này khá đấy, Gurney nghĩ. Y quá thuần thục cái cách nói chuyện chân thành này. Anh nói, “Để tôi bàn với vợ đã. Sáng tôi sẽ gọi lại cho anh. Cho tôi một số để liên lạc.”

Nụ cười trong giọng y rất phấn khởi. “Tôi cho anh số điện thoại nhà. Tôi có cảm giác anh cũng dậy sớm như tôi. Cứ gọi bất cứ lúc nào sau 6 giờ sáng.”

Khi anh trở lại bếp, Madeleine đang ngồi ở bàn, nhưng tâm trạng cô đã thay đổi. Cô đang đọc tờ Times. Anh ngồi đối diện cô, vuông góc với mặt bàn, quay về hướng chiếc bếp lò Franklin cũ kỹ. Anh nhìn về phía lò mà hầu như không thấy nó, tay bắt đầu xoa trán như thể quyết định trước mắt là một phần cơ căng cần được xoa bóp.

“Quyết định có khó gì, đúng không?” Madeleine nói mà không đưa mắt ra khỏi tờ báo.

“Gì cơ?”

“Chuyện anh đang nghĩ ngợi đấy.”

“Tay ủy viên công tố có lẽ mong anh giúp lắm.”

“Không mong mới là lạ.”

“Thường thì chẳng ai lôi một kẻ ngoài cuộc vào những chuyện như thế này cả.”

“Nhưng anh không phải là kẻ ngoài cuộc bình thường, đúng không nào?”

“Anh nghĩ mối quan hệ giữa anh và Mellery là điểm khác biệt.”

Cô nghiêng đầu, chăm chú nhìn anh bằng thị giác X quang của mình.

“Hắn ta nịnh nọt lắm,” Gurney cố gắng làm giọng nghe không có vẻ gì là thích lời nịnh hót.

“Chắc chỉ mô tả chính xác tài năng của anh thôi.”

“So với tay đại úy Rodriguez thì ai trông cũng được việc cả thôi.”

Cô mỉm cười trước sự nhún nhường ngượng nghịu của anh. “Anh ta trả công anh thứ gì?”

“Một tấm séc khống, thật tình là vậy. Anh sẽ làm việc thông qua văn phòng anh ta. Dù sao cũng phải thận trọng không được lấn sân. Anh nói với anh ta là sáng mai sẽ quyết định.”

“Quyết định gì cơ?”

“Quyết định xem có muốn làm không.”

“Anh đùa đấy à?”

“Em nghĩ không nên ư?”

“Ý em là, anh đùa cái chuyện chưa biết quyết định ra sao đấy à?

“Có nhiều thứ phải cân nhắc mà.”

“Nhiều hơn anh tưởng đấy, nhưng nhìn cũng biết là anh sẽ làm rồi.”

Cô trở lại tờ báo.

“Em nói ‘nhiều hơn anh tưởng’ là sao?” anh hỏi sau một phút lâu.

“Có nhiều chọn lựa gây ra hậu quả mà ta không lường được.”

“Chẳng hạn như?”

Cái nhìn trân trân buồn bã của cô nói cho anh biết đó là một câu hỏi ngu xuẩn.

Sau một khoảng lặng, anh nói, “Anh cảm thấy mình mắc nợ Mark.”

Một ánh mắt mỉa mai thêm vào cái nhìn trân trân ấy.

“Sao em nhìn anh lạ vậy?”

“Lần đầu tiên em nghe anh gọi anh ta bằng tên.”