← Quay lại trang sách

Chương 27 Làm Quen Với Ủy Viên Công Tố Quận

Tòa nhà Văn phòng của hạt, mang cái danh xưng tầm thường ấy từ năm 1935, trước đây được gọi là Nhà thương điên Bumblebee – thành lập năm 1899 nhờ sự hào phóng (và sự mất trí tạm thời, như những người thừa kế bị gạt bỏ vẫn tranh cãi vô ích) của một người Anh cùng tên chuyển tới đây sống, ngài George Bumblebee. Công trình gạch đỏ u ám này, ngấm bồ hóng qua cả thế kỷ, xuất hiện lù lù trên quảng trường thị trấn. Nó cách tổng bộ cảnh sát bang gần hai cây số và cũng mất 1 tiếng 15 phút lái xe từ Walnut Crossing.

Nội thất của tòa nhà thậm chí còn kém hấp dẫn hơn mặt tiền, vì lý do ngược lại. Vào những năm 1960 nội thất bị phá hủy và hiện đại hóa. Giàn đèn bám đầy bụi trên trần và ván lót chân tường gỗ sồi được thay bằng giàn đèn huỳnh quang sáng chói và tấm thạch cao trắng bong. Gurney chợt nghĩ có lẽ mục đích của ánh đèn hiện đại chói lóa ấy là để xua đuổi hồn ma của những bệnh nhân tâm thần đã từng ở đây – một suy nghĩ lạ lùng của một người đang trên đường đi thương lượng điều khoản một hợp đồng lao động, nên anh tập trung nhớ lại lời Madeleine nói vào lúc sáng trước lúc anh lên đường: “Anh ta cần anh hơn anh cần anh ta.” Anh trầm ngâm câu nói ấy trong khi chờ đi qua một thiết bị an ninh tính vi ở đại sảnh. Qua được rào cản, anh men theo một loạt mũi tên đến một cánh cửa có ô cửa lắp kính mờ trên đó mang hàng chữ màu đen trang nhã ỦY VIÊN CÔNG TỐ QUẬN.

Bên trong, một phụ nữ ngồi bàn tiếp tân bắt gặp ánh mắt của anh khi anh bước vào. Gurney để ý thấy đàn ông thường chọn nữ trợ lý dựa trên năng lực, tình dục, hoặc uy tín. Người phụ nữ ngồi ở bàn dường như có đủ cả ba tiêu chuẩn. Dù có lẽ đã ngoài 50 nhưng mái tóc, làn da, kiểu cách trang điểm, y phục và dáng người của cô ta được chăm chút kỹ lưỡng, cho thấy cô ta chú trọng đến những điểm trên thân thể có tác dụng kích thích. Cái nhìn dò xét trong mắt cô ta vừa lạnh lùng vừa đầy nhục cảm. Một tấm biển chữ nhật nhỏ làm bằng đồng thau đỏ trên bàn tuyên bố tên cô ta là Ellen Rackoff.

Chưa ai kịp lên tiếng thì một cánh cửa bên phải bàn tiếp tân mở ra và Sheridan Kline bước vào phòng. Y tươi cười ra vẻ nồng hậu,

“9 giờ không sai một giây! Tôi chẳng lạ gì. Anh làm tôi ấn tượng, đã nói gì là làm đúng y như vậy.”

“Chỉ là dễ dàng hơn lựa chọn kia thôi mà.”

“Sao cơ? Ờ, phải, phải, tất nhiên.” Nụ cười tươi hơn, nhưng ít nồng hậu hơn. “Anh thích uống cà phê hay trà?”

“Cà phê.”

“Tôi cũng vậy. Tôi chẳng bao giờ hiểu nổi trà. Anh thích chó hay mèo?”

“Chắc là chó.”

“Anh có bao giờ để ý ai thích chó thường ưa cà phê hơn không, còn trà thì dành cho ai thích mèo?”

Gurney nghĩ chuyện đó chẳng đáng bận tâm. Kline ra hiệu cho anh theo y vào văn phòng, xòe tay chỉ về phía một chiếc xô pha bằng da thuộc kiểu đương đại, ngồi vào một chiếc ghế bành cùng kiểu ở bên kia chiếc bàn thủy tinh thấp tè, rồi thay nụ cười tươi tắn bằng vẻ mặt nghiêm chỉnh đến là buồn cười.

“Dave, tôi thật sự rất vui khi anh chịu giúp chúng tôi.”

“Miễn là có một vai trò thích hợp cho tôi.”

Kline chớp mắt.

“Địa bàn là một vấn đề dễ đụng chạm mà,” Gurney nói.

“Hoàn toàn đồng ý. Cho phép tôi thẳng thắn nhé – nói thẳng đuột như ruột ngựa, như người ta thường nói ấy.”

Gurney giấu vẻ mặt nhăn nhó bên dưới một nụ cười nhã nhặn.

“Những người tôi quen ở Sở Cảnh sát New York kể cho tôi nghe nhiều thứ ấn tượng về anh lắm. Anh từng chỉ đạo điều tra nhiều vụ án lớn, là điều tra viên chính, người khớp mọi thứ lại với nhau nhưng đến lúc khen thưởng lại luôn nhường công trạng cho người khác. Người ta nói ở Sở Cảnh sát tài năng của anh là lớn nhất còn cái tôi thì nhỏ nhất.”

Gurney mỉm cười, không cười vì lời tâng bốc anh biết đã được chuẩn bị từ trước, mà cười vì vẻ mặt sửng sốt của Kline trước cái khái niệm miễn cưỡng nhận công trạng.

“Tôi thích công việc. Tôi không thích làm trung tâm của sự chú ý.”

Kline nhìn một chập lâu như người đang tìm một hương vị khó thấy trong thức ăn rồi lại bỏ dở giữa chừng.

Y nghiêng người về phía trước. “Tôi muốn biết theo anh, anh sẽ muốn đóng vai trò như thế nào đối với vụ án này.”

Đây là câu hỏi quyết định. Để liệu trước phải trả lời câu hỏi này như thế nào, Gurney đã tốn nhiều thời gian suy nghĩ trong suốt quá trình lái xe từ Walnut Crossing đến đây.

“Trong vai trò một cố vấn phân tích.”

“Vậy nghĩa là sao?”

“Tổ điều tra ở BCI chịu trách nhiệm thu thập, xem xét, bảo toàn chứng cứ, thẩm vấn nhân chứng, lần theo đầu mối, xác minh chứng cứ ngoại phạm, và cuối cùng là lập ra giả thuyết tạm thời về nhân thân, hướng hành động, động cơ của hung thủ. Yếu tố cuối cùng đóng vai trò then chốt, và đó là yếu tố tôi tin có thể góp sức.”

“Bằng cách nào?”

“Xem xét các dữ kiện trong một tình huống phức tạp và lập ra một kịch bản hợp lý là phần công việc mà tôi cho rằng mình giỏi nhất.”

“Tôi không nghĩ vậy.”

“Những người khác thì giỏi thẩm vấn nghi phạm, giỏi phát hiện chứng cứ ở hiện trường…”

“Chẳng hạn như phát hiện ra viên đạn mà không ai khác biết tìm ở đâu ư?”

“Cái đó chỉ là đoán may thôi. Thường thì luôn có người giỏi hơn tôi một mặt nào đó trong quá trình điều tra. Nhưng nói đến việc khớp các mảnh ghép lại với nhau, thấy được vấn đề nào là trọng tâm, vấn đề nào không phải, thì tôi làm được. Trong công việc không phải lúc nào tôi cũng đúng, nhưng thường thì tôi đúng vừa đủ để tạo nên khác biệt.”

“Vậy rốt cuộc anh cũng có cái tôi rồi.”

“Nếu muốn anh có thể gọi vậy. Tôi biết hạn chế của mình và ưu điểm của mình.”

Sau nhiều năm thẩm vấn, anh cũng biết những cá tính nhất định sẽ đáp lại như thế nào với những thái độ nhất định, và anh không nhìn sai Kline. Ánh mắt cho thấy y đã thoải mái hơn vì hiểu được cái hương vị ngoại lai mà y đang cố đặt tên.

“Ta bàn chuyện thù lao nào,” Kline nói. “Tôi đang nghĩ sẽ trả anh mức thù lao theo giờ mà trước đây chúng tôi đã thiết lập cho những nhóm việc cố vấn nhất định. Tôi trả anh 70 đô-la một giờ, kèm phụ cấp cho những chi phí hợp lý – bắt đầu ngay bây giờ “

“Ổn rồi.”

Kline chìa bàn tay chính trị gia của mình ra. “Tôi rất mong được hợp tác với anh. Ellen đã soạn xong một bộ biểu mẫu, giấy nhượng quyền, chứng từ tuyên thệ, hợp đồng thỏa thuận về bảo mật. Có thể mất ít thời gian nếu anh muốn đọc những gì mình ký. Cô ta sẽ cho anh một văn phòng để sử dụng. Có nhiều chi tiết chúng ta hợp tác đến đâu sẽ làm rõ đến đó. Về phần tôi, tôi sẽ cập nhật cho anh biết tin tức mới nhất từ BCI hay từ lính của tôi, và tôi sẽ mời anh họp giao ban tổng quát như hôm qua. Nếu cần nói chuyện với đội ngũ điều tra ở đây thì sắp xếp gặp họ qua văn phòng của tôi. Để nói chuyện với nhân chứng, nghi phạm, những người có liên quan – cũng vậy, thông qua văn phòng của tôi. Tiện cho anh không?”

“Tiện.”

“Anh không phí lời. Tôi cũng vậy. Chúng ta đang hợp tác với nhau nên cho tôi hỏi anh một chuyện.” Kline ngả lưng ra sau ghế rồi chụm ngón tay lại thành hình tháp để làm câu hỏi tăng thêm phần quan trọng. “Vì lý gì mà anh lại bắn ai đó trước, rồi mới đâm 14 nhát?”

“Số nhát nhiều như vậy thường cho thấy hung thủ ra tay trong cơn thịnh nộ hoặc là cố sức tỏ vẻ thịnh nộ bằng một hành động máu lạnh. Số nhát chính xác có lẽ không có ý nghĩa gì đâu.”

“Nhưng bắn ông ta trước…”

“Điều đó cho thấy mục đích đâm không chỉ là để giết người.”

“Tôi không hiểu ý anh,” Kline nghiêng đầu nói như một chú chim tò mò.

“Mellery bị bắn ở cự ly rất gần. Viên đạn cắt đứt động mạch cảnh. Không có dấu vết nào trong tuyết cho thấy súng bị rơi hay ném xuống đất. Do đó, tên hung thủ chắc hẳn đã bỏ thời gian gỡ đi vật liệu hãm thanh mà hắn đã bọc quanh súng rồi bỏ súng lại vào túi hay bao trước khi chuyển sang dùng chai vỡ và vào vị trí để đâm nạn nhân đang nằm bất tỉnh trên tuyết. Vết thương ở động mạch vào thời điểm ấy có lẽ đã phun máu rất nhiều rồi. Vậy tại sao còn mất công đâm thêm? Đâm không phải để giết nạn nhân vì trên thực tế nạn nhân đã chết rồi. Mục đích của hung phạm nhất định là phi tang vết tích của đạn…”

“Tại sao chứ?” Kline vừa hỏi vừa rướn người trong ghế.

“Tôi không biết. Đây chỉ là một khả năng thôi. Nhưng khả năng này có thể xảy ra, vì nếu xét đến nội dung các bức thư nhận được trước vụ tấn công và bao phiền phức mà hắn bỏ ra để mang theo cái chai vỡ, thì hành động đâm có ý nghĩa về mặt nghi thức.”

“Nghi thức sùng bái quỷ Satan ư?” Nét mặt hãi hùng thường tình của Kline không giấu được vẻ hồ hởi của y trước tiềm lực truyền thông của một động cơ gây án như thế.

“Tôi không nghĩ vậy. Mấy bức thư đọc có vẻ rất điên rồ nhưng tôi thấy cũng không điên theo kiểu đó. Tôi nói ‘nghi thức’ ý là giết người theo kiểu cách nào đó đối với hắn là việc rất quan trọng.”

“Một cách trả thù tưởng tượng ư?”

“Có thể,” Gurney nói. “Hắn không phải là tên giết người đầu tiên bỏ ra nhiều tháng nhiều năm hình dung ra cách trả đũa ai đó.”

Kline trông ngơ ngác. “Nếu phần mấu chốt của vụ tấn công là đâm, thì tại sao lại mất công dùng súng?”

“Làm tàn phế tức thời. Hắn muốn chắc chắn nạn nhân phải bị như vậy, nên dùng súng sẽ làm nạn nhân tàn phế ngay, chắc chắn hơn là dùng chai vỡ. Dày công tính toán đường đi nước bước cho vụ này nên hắn không muốn có gì sơ suất cả.”

Kline gật đầu rồi nhảy sang một mảnh ghép khác của câu đố.

“Rodriguez khăng khăng hung thủ nằm trong số khách.”

Gurney mỉm cười “Người nào mới được?”

“Anh ta chưa biết chắc, nhưng anh ta cược như vậy, anh không đồng ý ư?”

“Ý tưởng ấy không hoàn toàn điên rồ đâu. Khách nghỉ trong trang viên, tức là tất cả bọn họ nếu không ở ngay hiện trường thì ít ra cũng gần hiện trường, rất tiện để ra tay. Chắc một điều rằng bọn họ là một nhóm ô hợp – kẻ sặc mùi ma túy, người tâm trạng thất thường, ít nhất có một gã có quan hệ với những tay tội phạm lớn.”

“Nhưng?”

“Nhưng lại có nhiều vấn đề thực tế.”

“Chẳng hạn như?”

“Trước hết là dấu chân và chứng cứ ngoại phạm. Mọi người đều đồng ý rằng tuyết bắt đầu rơi cỡ hoàng hôn và tiếp tục rơi cho đến quá nửa đêm. Trong khi đó, tuyết đã ngừng rơi hoàn toàn thì dấu chân của hung thủ mới từ đường lộ đi vào trang viên.”

“Sao anh chắc như vậy?”

“Dấu chân in trên tuyết nhưng không có tuyết mới đè lên. Nếu ai trong số khách muốn để lại dấu chân như vậy thì người đó nhất định phải rời căn nhà chính trước khi tuyết rơi, bởi vì không có dấu chân nào trên tuyết từ nhà đi ra cả.”

“Nói cách khác…”

“Nói cách khác, phải có ai đó mất tích từ lúc chạng vạng cho đến nửa đêm. Nhưng chẳng có ai mất tích cả.”

“Làm sao anh biết được là không?”

“Chính thức thì tôi không biết. Tôi chỉ nghe lời đồn từ Jack Hardwick thôi. Theo bán tóm tắt thẩm vấn nhân chứng, mỗi người bị ít nhất 6 người khác thấy ở nhiều thời điểm khác nhau chiều hôm đó. Nên ai cũng đủ mặt cả, trừ phi tất cả đều nói dối.”

Kline trông miễn cưỡng không muốn gạt bỏ khả năng tất cả đều nói dối.

“Có thể ai đó trong nhà có đồng lõa chăng,” y nói.

“Ý anh là có thể có người trong nhà mướn sát thủ ư?”

“Đại loại như vậy.”

“Vậy thì tại sao lại ở đó chứ?”

“Tôi không hiểu ý anh.”

“Lý do duy nhất mà nhóm khách hiện tại bị nghi ngờ chính là họ có mặt gần nơi xảy ra án mạng. Nếu anh mướn người ngoài đến gây án thì tại sao ngay lúc đầu lại đặt mình ở nơi gần với chỗ gây án như thế?”

“Vì hào hứng chăng?”

“Chắc vậy,” Gurney vừa nói vừa tỏ rỡ sự thiếu nhiệt tình.

“Được rồi, ta tạm quên đám khách đi,” Kline nói. “Nếu có người khác ngoài số khách đó mướn sát thủ thì sao?”

“Đó là giả thuyết dự phòng của Rodriguez ư?”

“Anh ta nghĩ có khả năng đó. Nhìn vẻ mặt của anh, tôi thấy anh không nghĩ vậy.”

“Tôi không thấy khả năng đó logic chỗ nào cả. Tôi nghĩ nếu Patty Cakes không tình cờ nằm trong số khách thì chẳng ai nghĩ đến khả năng đó cả. Thứ nhất, hiện tại ta chẳng biết được điều gì về Mark Mellery để kết luận ông ta là mục tiêu của tay anh chị nào cả…”

“Chờ một chút. Giả sử bậc thầy về thuyết phục ấy khiến một người trong số khách – như Patty Cakes chẳng hạn – thú tội gì đó với ông ta, anh biết đó, để đạt được sự hài hòa bên trong hay sự an lạc về tâm linh hay thứ vớ vẩn gì đó mà Mellery đang bán cho đám người này.”

“Rồi sao?”

“Rồi có thể sau đó, về nhà rồi thì tên xấu xa đó mới bắt đầu thấy mình thành thật, cởi mở như vậy có lẽ hơi hấp tấp. Hòa hợp với vũ trụ có thể tuyệt thật đấy, nhưng chắc không đáng so với cái nguy cơ ai đó sử dụng thông tin của anh để gây ra vấn đề nghiêm trọng cho anh. Có thể sau khi hắn tránh xa sức hút của tay bậc thầy ấy, tên xấu xa mới trở lại lối tư duy thực dụng ban đầu. Có thể hắn thuê người loại bỏ cái nguy cơ làm hắn lo âu.”

“Giả thuyết hay đấy.”

“Nhưng?”

“Nhưng chẳng có tay giết thuê nào trên đời lại quan tâm đến thứ trò chơi tâm lý trong vụ giết người này cả. Những tay giết thuê vì tiền đời nào lại treo ủng trên cây và đề thơ trên xác chứ.”

Kline trông như có thể tranh cãi vấn đề này, nhưng y ngừng nói khi cửa mở ra sau một tiếng gõ chiếu lệ. Con người sành điệu từ bàn tiếp tân ấy đi vào cùng một chiếc khay bóng loáng, trên có hai tách sứ kèm đĩa, một ấm trà có vòi tao nhã, một chén đường và kem tinh tế, và một đĩa hiệu Wedgwood có đặt bốn chiếc bánh quy. Cô ta đặt khay lên bàn trà.

“Rodriguez gọi,” cô vừa nói vừa liếc nhìn Kline, rồi nói thêm, như đang trả lời một câu hỏi nhận được qua thần giao cách cảm, “Ông ta đang trên đường đến, nói là vài phút nữa sẽ có mặt ở đây.”

Kline nhìn Gurney như đang cố gắng đọc phản ứng của anh. “Rod gọi cho tôi khi nãy,” y giải thích. “Anh ta dường như rất háo hức muốn bày tỏ ý kiến về vụ án này. Tôi đã đề nghị anh ta tạt qua trong khi anh còn đây. Tôi muốn ai cũng biết mọi chuyện cùng một lúc. Tất cả chúng ta càng biết nhiều thì càng tốt. Chẳng có gì phải bí mật cả.”

“Ý kiến hay,” Gurney nói nhưng trong lòng ngờ vực. Có lẽ điều khiến Kline sắp xếp cho anh và Rodriguez có mặt ở đây cùng lúc chẳng liên quan gì đến tinh thần cởi mở cả mà chỉ cốt để phục vụ sở thích quản lý bằng xung đột và đối mặt của Kline.

Trợ lý của Kline rời phòng, ngay khi Gurney bắt gặp nụ cười Mona Lisa đắc ý trên mặt cô ta. Nụ cười ấy đã xác nhận quan điểm của anh về tình huống hiện tại.

Kline rót cà phê vào hai tách. Tách sứ trông cổ xưa và đắt tiền, nhưng y cầm lên mà chẳng thấy chút tự hào hay quan tâm, điều đó càng củng cố ấn tượng của Gurney rằng tay công tố viên thần đồng này bẩm sinh quý phái, và công việc chấp pháp này là một bước để y có thứ gì đó phù hợp hơn với dòng dõi quý tộc của mình. Hardwick đã thì thầm gì với anh trong cuộc họp hôm qua nhỉ? Cái gì đó liên quan đến khao khát được trở thành thống đốc thì phải? Có lẽ ông bạn già Hardwick yếm thế lại đúng một lần nữa. Hoặc có lẽ Gurney đã suy nghĩ quá nhiều về cách một người đàn ông cầm tách.

“À,” Kline nói, ngả người tựa vào lưng ghế, “viên đạn trong tường, viên mà người ta tưởng là loại 0.375 ấy – thật ra không phải loại ấy. Đó chỉ là suy đoán dựa trên kích thước lỗ đạn trên tường trước khi moi đạn ra. Phòng đạn đạo nói nòng thực sự là 0.38 loại đặc biệt.”

“Lạ thật.”

“Thật ra cũng khá thông dụng mà. Loại súng phòng hộ chuẩn trong hầu hết các sở cảnh sát đến tận những năm 1980.”

“Loại nòng thì thông dụng, nhưng chọn loại nòng này thì rất lạ.”

“Tôi không hiểu.”

“Hung thủ bỏ công sức ra để giảm thanh súng, làm tiếng súng càng nhỏ càng tốt. Nếu tiếng ồn là thứ hắn quan tâm nhất thì chọn súng 0.38 loại đặc biệt làm hung khí là rất lạ. Chọn súng lục 0.22 sẽ hợp lý hơn nhiều.”

“Có thể đây là vũ khí duy nhất hắn có.”

“Có thể.”

“Nhưng anh không nghĩ vậy sao?”

“Hắn là một tay cầu toàn. Hắn phải bảo đảm tuyệt đối là mình sử dụng đúng loại súng chứ.”

Kline ném cho Gurney một cái nhìn của thẩm vấn viên. “Anh đang mâu thuẫn với chính mình đấy. Đầu tiên anh nói chứng cớ cho thấy hắn muốn tiếng súng càng nhỏ càng tốt. Sau đó anh nói hắn chọn nhầm súng. Bây giờ anh lại nói hắn không phải loại người chọn nhầm súng.”

“Đúng là việc giảm thanh cho tiếng súng rất quan trọng. Nhưng có lẽ còn thứ gì khác quan trọng hơn.”

“Chẳng hạn như?”

“Nếu có khía cạnh nghi thức trong chuyện này thì việc chọn súng có thể là một phần trong nghi thức đó. Điều mà hắn bị ám ảnh, khiến hắn phải thực hiện vụ giết người theo một cách nhất định có thể được ưu tiên hơn vấn đề tiếng súng. Hắn cảm thấy bị xui khiến như thế nào thì sẽ ra tay như thế đó và đối phó với tiếng ồn bằng hết sức có thể.”

“Khi anh nói ‘nghi thức’, tôi lại hiểu là ‘kẻ tâm thần’. Anh nghĩ gã này điên tới cỡ nào?”

“Điên không phải là một từ mà tôi thấy hữu dụng ở đây,” Gurney nói. “Jeffrey Dahmer bị phán là không điên về mặt luật pháp, nhưng hắn lại ăn nạn nhân của mình. David Berkowitz bị phán là không điên về mặt luật pháp, nhưng hắn lại giết người vì bị một con chó quái quỷ xui khiến.”

“Có phải anh nghĩ ta đang đối phó với tình huống tương tự ở đây không?”

“Không hẳn. Hung thủ của chúng ta tuy mang đầy thù hận và bị ám ảnh đến độ loạn trí, nhưng chắc chưa đến độ ăn bộ phận người hay thi hành lệnh của một con chó. Hiển nhiên hắn rất bệnh hoạn, nhưng không có thứ gì trong thư hội đủ các tiêu chuẩn bị tâm thần theo như DSM[12] cả.”

Có tiếng gõ cửa.

Kline chau mày trầm tư, bĩu môi, trông như đang xem xét lý luận của Gurney – hoặc có thể y đang cố tỏ vẻ không dễ gì bị một tiếng gõ cửa làm phân tâm.

“Vào đi,” cuối cùng y trả lời lớn tiếng.

Cửa mở, và Rodriguez vào. Y không che đậy hoàn toàn được ác cảm khi thấy Gurney.

“Rod!” Kline ồ lên. “Anh đến đây thì thật tốt quá. Mời ngồi.

Có ý tránh chỗ ghế xô pha Gurney đang ngồi, y chọn chiếc ghế bành đối diện Kline.

Tay công tố viên cười sang sảng. Gurney đoán cái viễn cảnh phải chứng kiến các quan điểm đối lập nhau đang đến.

“Rod muốn tạt qua để chia sẻ quan điểm hiện tại của mình về vụ án.” Kline nói như thể mình là trọng tài đang giới thiệu hai đấu thủ với nhau.

“Tôi mong được nghe quan điểm của anh,” Gurney nói một cách ôn hòa.

Nhưng không đủ ôn hòa để Rodriguez không coi nó như một sự khiêu khích đã được khéo léo ngụy trang. Y không cần ai khác giục y chia sẻ quan điểm.

“Mọi người cứ mãi tập trung vào cây…” y nói to đến nỗi kể cả trong căn phòng lớn hơn văn phòng của Kline thì ai cũng có thể nghe được. “… mà quên mất rừng.”

“Rừng là…?” Kline hỏi.

“Rừng chính là yếu tố cơ hội, một vấn đề rất quan trọng. Mọi người cứ bị rối rắm trong chuyện suy đoán động cơ và những thứ tiểu tiết điên rồ về phương thức gây án. Chúng ta bị đánh lạc hướng nên không để ý đến vấn đề số một – một trang viên chứa đầy những kẻ nghiện ma túy và những tên tội phạm khốn kiếp khác vốn đều dễ dàng tiếp cận nạn nhân.”

Gurney tự hỏi liệu phản ứng này có phải là kết quả của việc tay đại úy cảm thấy quyền kiểm soát vụ án của y đang bị đe dọa hay còn điều gì khác.

“Theo anh thì ta nên làm gì?” Kline hỏi.

“Tôi đang cho người thẩm vấn lại số khách, và kiểm tra lý lịch kỹ hơn. Chúng ta sẽ lật vài viên đá trong đời của mấy thằng nghiện này. Tôi nói cho các anh biết – một người trong số chúng làm đấy, còn tìm ra người nào thì chỉ là vấn đề thời gian thôi.”

“Anh nghĩ sao, Dave?” Giọng Kline gần như quá sỗ sàng, như thể y đang cố che đậy sự hả hê có được từ việc kích động chiến tranh.

“Thẩm vấn lại và kiểm tra lý lịch cũng tốt,” Gurney hững hờ nói.

“Tốt nhưng không cần thiết?”

“Đợi làm xong chúng ta mới biết được. Ta cũng nên xem xét câu hỏi về yếu tố cơ hội, hay vấn đề tiếp cận nạn nhân, trong một bối cảnh rộng hơn – chẳng hạn như, nhà trọ lân cận cũng có thể là nơi thuận tiện như nhà khách ở viện vậy.”

“Tôi dám cá chính là một tên trong đám khách ở đây,” Rodriguez nói. “Khi một người đang bơi tự nhiên biến mất trong vùng biển đầy rẫy cá mập, thì nguyên nhân chắc chắn không thể là do y bị một kẻ lướt ván đi ngang qua bắt cóc được.” Y quắc mắt nhìn Gurney, xem nụ cười của anh là một lời thách thức. “Mọi người hãy thực tế đi nào!”

“Hiện tại chúng ta có khám xét mấy nhà trọ đó không Rod?” Kline hỏi.

“Mọi thứ chúng ta đều khám xét cả.”

“Tốt lắm. Dave, còn thứ nào khác nằm trong danh sách ưu tiên của anh không?”

“Không còn. Tất cả đều được tiến hành rồi. Giám định mẫu máu; giám định sợi lạ trên xác và quanh xác; đôi ủng hiệu gì, mua ở đâu, còn đặc thù gì khác không; kết quả đạn đạo khớp với viên đạn như thế nào; phân tích đoạn ghi âm cuộc gọi giữa hung thủ và Mellery kèm cải thiện âm thanh nền, và ID của trạm phát sóng nếu là gọi di động; lịch sử cuộc gọi điện thoại cố định và điện thoại di động của số khách hiện tại; phân tích chữ viết trên thư, giấy và mực; bệnh án tâm thần dựa trên thư từ, điện thoại và kết luận của bác sĩ khám nghiệm; kiểm tra chéo cơ sở dữ liệu thư đe dọa của FBI. Tôi nghĩ như vậy cũng đầy đủ rồi. Tôi còn quên thứ gì không, đại úy?”

Rodriguez chưa kịp đáp lại, điều mà y dường như chẳng vội vàng gì, thì trợ lý của Kline mở cửa bước vào phòng. “Xin lỗi ông,” cô ta nói bằng một sự kính cẩn dường như được thiết kế để trưng ra cho công chúng thấy. “Có cô trung sĩ Wigg nào đó đến đây gặp đại úy.”

Rodriguez chau mày.

“Cho cô ta vào,” Kline nói, cái khao khát thấy người ta đối mặt nhau của y dường như vô hạn.

Cô tóc đỏ từ cuộc họp tại tổng bộ BCI đi vào, cũng bộ com lê màu lam giản dị và chiếc laptop ấy.

“Cô muốn gì hả Wigg?” Rodriguez hỏi, bực dọc hơn là tò mò.

“Thưa sếp, chúng tôi phát hiện ra một thứ quan trọng, tôi nghĩ sếp nên xem.”

“Gì nào?”

“Đôi ủng, thưa sếp.”

“Đôi ủng?”

“Đôi ủng trên cây, thưa sếp.”

“Đôi ủng thì sao?”

“Cho tôi để cái này lên bàn trà đã nhé?” Wigg vừa hỏi vừa chỉ chiếc laptop.

Rodriguez nhìn Kline. Kline gật đầu.

Sau ba mươi giây và một vài cú gõ phím, ba người đàn ông nhìn vào một cặp ảnh được chia ra hai màn hình, trên ảnh là hai chiếc ủng thoạt nhìn có vẻ giống hệt nhau.

“Ủng bên trái là ảnh in từ hiện trường, ủng bên phải là ảnh in chúng tôi tạo ra trên tuyết bằng ủng tìm thấy trên cây.”

“Vậy đôi ủng tạo ra dấu vết là đôi chúng ta tìm thấy cuối đường mòn. Cô không cần phải đến tận đây để nói với chúng tôi điều này.”

Gurney không thể cưỡng lại, đành phải xen vào. “Tôi nghĩ trung sĩ Wigg đến đây để nói cho chúng ta biết điều ngược lại.”

“Cô muốn nói đôi ủng trên cây không phải là đôi mà hung thủ mang ư?” Kline hỏi.

“Không hợp lý chút nào,” Rodriguez nói.

“Rất ít thứ có lý trong vụ này,” Kline nói. “Cô nói tiếp đi trung sĩ.”

“Hai đôi ủng này cùng hiệu, cùng kiểu, cùng kích cỡ. Cả hai đôi đều mới tinh. Nhưng hai đôi này nhất định là riêng biệt. Tuyết là một môi trường rất tốt để ghi lại chi tiết, nhất là tuyết ở nhiệt độ xê xích quanh điểm đông âm 12 độ c. Chi tiết liên quan trong trường hợp này là vết dị dạng nhỏ xíu trong phần đế ở đây.” Cô ta dùng bút chì nhọn chỉ vào một đốm nổi gần như vô hình trên gót chiếc ủng bên phải, chiếc lấy từ trên cây. “Vết dị dạng này có lẽ xuất hiện trong quá trình sản xuất, có trên mọi dấu ủng do chúng tôi tạo ra nhưng lại không xuất hiện trên dấu ủng tìm được ở hiện trường. Cách giải thích hợp lý duy nhất chính là dấu chân ở hiện trường là do đôi ủng khác để lại.”

“Chắc chắn còn cách giải thích khác chứ,” Rodriguez nói.

“Sếp có nghĩ ra được gì không?”

“Tôi chỉ muốn chỉ ra khả năng chúng ta đã bỏ sót thứ gì đó thôi.”

Kline hắng giọng. “Để tiện tranh luận, ta hãy giả định là trung sĩ Wigg nói đúng và chúng ta đang xem xét hai đôi – đôi hung thủ mang và đôi treo trên cây cuối đường mòn. Vậy thì có nghĩa gì nào? Điều đó cho ta biết gì nào?”

Rodriguez bực bội nhìn chăm chăm vào màn hình máy tính. “Chẳng có thông tin khốn nạn nào có ích để bắt được hung thủ cả.”

“Còn anh thì sao Dave?”

“Nó cho tôi biết một điều tương tự với nội dung bức thư để lại trên xác. Chẳng qua là một kiểu thư khác thôi. Thư này ghi, ‘Có giỏi thì bắt tao này, nhưng không bắt được đâu, vì tao cao tay hơn bọn bay.’”

“Làm thế quái nào mà đôi ủng thứ hai lại cho anh biết như vậy?” Có sự giận dữ trong giọng của Rodriguez.

Gurney đáp lại bằng một sự bình thản đến mức gà gật – phản ứng đặc trưng của anh bấy lâu nay đối với sự giận dữ. “Nếu để riêng lẻ thì đôi ủng đó không cho tôi biết điều gì cả. Nhưng thêm vào những chi tiết kỳ dị khác thì bức tranh toàn cảnh càng lúc càng giống một trò chơi phức tạp.”

“Nếu đúng là trò chơi thì mục đích của nó là đánh lạc hướng chúng ta, thành công rồi còn gì,” Rodriguez châm chọc.

Thấy Gurney không đáp lại, Kline huých. “Trông anh như không đồng ý hoàn toàn.”

“Tôi nghĩ trò chơi này không chỉ nhằm đánh lạc hướng đâu. Tôi nghĩ nó là toàn bộ vấn đề.”

Rodriguez nhổm dậy khỏi ghế, vẻ ghê tởm. “Sheridan, nếu anh không cần tôi chuyện gì nữa thì tôi phải trở lại văn phòng đây.”

Sau khi cho Kline một cái bắt tay ảm đạm, y rời phòng, một chập sau Wigg cũng rời theo. Kline che đậy tất cả các phản ứng của mình trước sự ra đi đó.

“Nói tôi nghe nào,” một chốc sau y nói, người nghiêng về phía Gurney, “lẽ ra ta phải làm những gì mà ta chưa làm? Rõ ràng anh không nhìn sự việc như Rod.”

Gurney nhún vai. “Xem xét kỹ số khách ấy cũng chẳng hại ai. Sớm muộn gì ta cũng phải làm vậy. Nhưng đại úy lại có nhiều hy vọng hơn tôi khi cho rằng làm vậy sẽ bắt được hung thủ.”

“Anh muốn nói làm vậy thực sự chỉ là phí thời gian thôi ư?

“Đó là cách loại trừ cần thiết. Tôi chỉ không nghĩ hung thủ nằm trong số khách. Đại úy luôn miệng nhấn mạnh tầm quan trọng của yếu tố cơ hội – sự tiện lợi của tên hung thủ khi ở trong trang viên. Nhưng tôi lại thấy đó là điều bất tiện cho hắn – xác suất bị phát hiện khi đi ra rồi về phòng rất lớn, quá nhiều thứ như vậy làm sao che giấu được. Hắn sẽ cất cái ghế sân vườn, đôi ủng, cái chai và khẩu súng ở đâu? Rủi ro và phức tạp như vậy đối với hạng người này mà nói là không thể chấp nhận được.”

Kline nhíu mày tò mò, rồi Gurney nói tiếp.

“Trên trục tính cách từ ‘vô tổ chức’ đến ‘có tổ chức’ thì gã này vượt ra khỏi đầu mút ‘có tổ chức’. Sự tỉ mỉ chi li của hắn cực kỳ phi thường.”

“Giống như dệt lại mặt đai chiếc ghế sân vườn cho nó trắng hết một màu để khó thấy hơn trong tuyết ư?”

“Phải. Hắn cũng rất bình tĩnh trước áp lực. Hắn không chạy khỏi hiện trường mà đi bộ cơ. Dấu chân từ chỗ sân hiên đến khu rừng trông thủng thẳng đến nỗi anh sẽ nghĩ hắn ra ngoài để tản bộ.”

“Nhưng đâm nạn nhân điên cuồng bằng chai rượu uýt ki đập vỡ, tôi thấy chẳng có gì là bình tĩnh cả.”

“Nếu vụ việc xảy ra trong quán rượu thì anh nói đúng. Nhưng nhớ rằng cái chai đã được chuẩn bị kỹ từ trước, thậm chí là được rửa và lau sạch dấu vân tay nữa kia. Theo tôi thì việc tạo ra bề ngoài như thể nạn nhân bị đâm điên cuồng cũng được sắp đặt như mọi thứ khác.”

“Được rồi,” Kline chậm rãi tán thành. “Bình tĩnh, điềm đạm, có tổ chức. Còn gì nữa?”

“Còn là một kẻ cầu toàn về cách thức giao thiệp. Thông thạo sách vở – thích ngôn ngữ và vần luật. Nói riêng với anh thôi nhé, tôi dám liều mà nói rằng những bài thơ ấy có cái gì đó trang trọng khác thường mà tôi cảm thấy rất giống với phong cách quý phái màu mè đôi khi thấy ở thế hệ đầu tiên vừa được phong tước.”

“Anh đang nói cái quái gì thế?”

“Đứa con được ăn học của cha mẹ không ăn học, rất muốn tách rời khỏi thế hệ trước. Nhưng như tôi đã nói, tôi không chắc – hoàn toàn không có chứng cứ cụ thể.”

“Còn gì nữa?”

“Nhã nhặn bên ngoài, đầy hận thù bên trong.”

“Và anh nghĩ hắn không nằm trong số khách?”

“Đúng vậy. Theo quan điểm của hắn thì lợi thế tiếp cận không thể át được bất lợi do sự liều lĩnh đem lại.”

“Anh là một người có đầu óc rất logic, thám tử Gurney ạ. Anh có nghĩ tên hung thủ cũng logic đến vậy không?”

“Ồ có chứ. Hắn bệnh hoạn bao nhiêu thì logic bấy nhiêu. Bệnh hoạn và logic đều vượt mức bình thường..”