Chương 34 Một Ngày Đen Đủi
Chuyến lái xe kéo dài 3 giờ đồng hồ là một cuộc hành trình đi vào tột cùng của tồi tệ, một cảm giác được khuếch đại bởi cơn mưa phùn lạnh lẽo luôn khiến anh phải liên tục điều chỉnh tốc độ lúc nhanh lúc chậm của cần gạt nước. Gurney thấy chán chường và cáu kỉnh, phần vì thời tiết và phần vì anh ngờ rằng giấc mơ đã để lại trong anh một quan điểm rát nhói, nhạy cảm quá mức.
Anh ghét quận Bronx. Anh ghét tất cả những thứ liên quan đến Bronx, từ mặt đường gồ ghề cho đến xác những chiếc ô tô bị đánh cắp cháy trơ khung. Anh ghét những tấm bảng quảng cáo lòe loẹt dụ khị người ta bỏ trốn 4 ngày 3 đêm đến Las Vegas. Anh ghét cái mùi ở đây – cái mùi chướng khí luôn thay hình đổi dạng của khói diesel, của mốc meo, của hắc ín và cá chết, cùng cái cảm giác tiềm ẩn của thứ gì đó như kim loại. Hơn cả những gì anh thấy, anh ghét cái ký ức thời thơ ấu luôn xâm chiếm trí óc anh mỗi khi anh có mặt ở quận Bronx – những con sam gớm ghiếc có vỏ giáp thời tiền sử với những chiếc đuôi nhọn như giáo, lấp ló trong những bãi sình ở vịnh Eastchester.
Trải qua nửa giờ bò lê qua ‘con đường cao tốc’ tắc nghẽn để đến nút rẽ cuối cùng, anh nhẹ nhõm vượt qua vài giao lộ nội thành nữa để đến điểm hẹn đã thỏa thuận là bãi xe của nhà thờ Holy Saints. Vây quanh bãi đậu là một hàng rào thép có biển báo lưu ý rằng bãi xe chỉ dành riêng cho những ai cần làm việc với nhà thờ. Bãi xe trống trơn ngoại trừ một chiếc xe Chevrolet xoàng xĩnh, bên cạnh là một cậu thanh niên đầu đinh vuốt gel sành điệu đang nói vào điện thoại di động. Khi Gurney đậu xe sát bên kia chiếc Chevrolet, cậu thanh niên nọ kết thúc cuộc gọi và ghim điện thoại vào thắt lưng.
Con mưa phùn sáng hôm ấy còn che phủ phần lớn đoạn đường lái xe thì giờ đây chỉ còn là một màn sương mịn khó thấy, nhưng ngay khi Gurney bước ra khỏi xe, anh cảm nhận được những vết kim lạnh buốt đâm vào trán. Có lẽ cậu thanh niên cũng cảm thấy như vậy; có lẽ như vậy mới giải thích được vẻ mặt khó chịu vì nôn nóng của cậu ta.
“Thanh tra Gurney phải không?”
“Tôi là Dave,” Gurney vừa nói vừa chìa tay ra.
“Tôi là Randy Clamm. Cảm ơn anh đã đến đây. Hy vọng không phí thời gian của anh. Chúng tôi chỉ muốn xét đến tất cả các khả năng thôi. Và chúng tôi có vụ án điên rồ này mà phương thức gây án nghe giống như vụ mà các anh đang điều tra. Có thể chẳng liên quan đâu – ý tôi là, cùng một hung thủ mà giết một bậc thầy thành đạt ở phía Bắc New York và một tay gác đêm thất nghiệp ở quận Bronx nghe chẳng hợp lý lắm – nhưng mấy vết đâm ở cổ họng ấy, tôi không tài nào bỏ qua cho xong được. Đụng chuyện như thế này anh thường có cảm giác gì đó – anh nghĩ, ‘Chúa ơi, mình mà bỏ qua cho xong thì cuối cùng hai vụ này lại cùng một tên hung thủ cho xem’, anh hiểu ý tôi không?”
Gurney tự hỏi liệu nhịp độ nhanh nhảu trong lời nói của Clamm là do caffeine, cocaine, do áp lực công việc thúc đẩy, hay do dây cót trong người cậu ta vốn đã được vặn như vậy.
“Ý tôi là, một chục vết đâm ở cổ như vậy chẳng phải chuyện thường. Có thể còn có nhiều mối liên hệ khác nữa giữa hai vụ này. Đúng ra chúng ta có thể báo cáo qua lại giữa Bronx và chỗ anh cũng được, nhưng tôi nghĩ có lẽ nếu anh có mặt ở hiện trường nói chuyện với vợ nạn nhân thì biết đâu anh sẽ thấy được điều gì đó hay hỏi được điều gì đó mà có thể mình không nghĩ ra nếu không có mặt ở đây. Tôi hy vọng như vậy đó. Ý tôi là, tôi hy vọng có thứ gì đó trong vụ án này. Tôi hy vọng không phí thời gian của anh.”
“Chậm rãi nào, cậu em. Tôi nói cậu nghe nhé. Tôi lái xe đến đây hôm nay vì thấy đây là chuyện hợp lý phải làm. Cậu muốn xem xét mọi khả năng chứ gì. Tôi cũng vậy thôi. Kịch bản xấu nhất ở đây chính là ta loại trừ một trong những khả năng đó, nhưng loại trừ khả năng không phải là phí thời gian, mà nằm trong quá trình xem xét các khả năng. Nên đừng lo lắng gì về thời gian của tôi cả.”
“Cảm ơn anh. Tôi chỉ muốn nói… ờ, tôi biết anh lái xe lâu lắm mới tới đây. Tôi cảm kích lắm.” Giọng nói và kiểu cách của Clamm đã xuống một hai nấc. Cậu ta vẫn còn vẻ mặt lo lắng, gấp gáp nhưng ít ra cũng không thái quá.
“Nhắc tới thời gian mới nhớ,” Gurney nói, “bây giờ có phải là lúc thích hợp để đưa tôi đến hiện trường chưa?”
“Bây giờ là thích hợp rồi. Anh để xe ở đây, đi xe tôi được rồi. Nhà nạn nhân ở một nơi rất chật hẹp – vài con đường chỉ rộng đủ cho một xe thôi, mỗi bên xe chỉ dư có 5 phân.”
“Nghe như Flounder Beach vậy.”
“Anh biết Flounder Beach à?”
Gurney gật đầu. Thời niên thiếu anh có đến đó một lần dự sinh nhật một cô bạn – là bạn của một cô bạn mà anh đang hẹn hò lúc đó.
“Sao anh biết Flounder Beach thế?” Clamm hỏi khi cậu đưa xe ra khỏi bãi xe theo hướng ngược với đại lộ chính.
“Tôi sinh trưởng gần đây mà – ngoại thành City Island.”
“Trời ạ. Tôi cứ nghĩ anh là dân phía Bắc New York chứ.”
“Hiện tại thì đúng vậy,” Gurney nói. Anh cảm nhận rõ cái chất tạm bợ trong cụm từ mình đã chọn và nhận ra nếu có Madeleine trước mặt anh đã không nói vậy.
“Ôi, vẫn là cái khu nhà một tầng nhỏ xíu thấy gớm đó mà. Lúc thủy triều lên cao, trời trong xanh thì anh sẽ nghĩ mình đang ở biển thật sự. Đến lúc thủy triều rút xuống, bùn hôi ra thì anh lại nhớ ra đây là quận Bronx.”
“Ừm,” Gurney nói.
Năm phút sau, họ chạy chậm lại rồi dừng hẳn trên một con đường nhánh đầy bụi đối diện một lối đi nằm trong một hàng rào thép giống hàng rào bao quanh bãi xe ở nhà thờ trước đó. Một tấm biển kim loại trên hàng rào thông báo đây là CÂU LẠC BỘ FLOUNDER BEACH và bãi xe chỉ dành cho xe có giấy phép đậu xe. Một hàng lỗ đạn đã cắt tấm biển ra làm hai phần xấp xỉ bằng nhau.
Hình ảnh bữa tiệc cách đây ba mươi năm hiện lên trong tâm trí Gurney. Anh tự hỏi liệu đó có phải chính là cái lối vào ấy ba mươi năm trước không. Anh hình dung được gương mặt của cô bạn tổ chức tiệc sinh nhật – một cô gái béo tròn có tóc bím và niềng răng.
“Đậu ở đây thì hơn,” Clamm vừa nói vừa bình phẩm một lần nữa về những con đường không tưởng trong khu dân cư bẩn thỉu. “Hy vọng anh không ngại đi bộ.”
“Chúa ạ, nhìn tôi bao nhiêu tuổi hả?”
Clamm đáp lại bằng một cái cười ngượng nghịu và một câu hỏi chuyển hướng khi hai người ra khỏi xe. “Anh công tác được bao lâu rồi?”
Không hứng thú bàn chuyện nghỉ hưu và có công việc tạm thời, anh chỉ nói, “25 năm rồi.”
“Vụ án này lạ lắm,” Clamm nói, như thể lời nhận xét này tiếp nối câu nói của Gurney là hợp lý. “Không chỉ là vết dao đâm. Còn hơn vậy nữa.”
“Cậu chắc là vết dao đâm chứ?”
“Sao anh hỏi vậy?”
“Trong vụ án của chúng tôi, hung khí là một cái chai vỡ – một chai uýt ki vỡ. Cậu tìm thấy hung khí chưa?”
“Chưa. Nhân viên phòng giám định nói ‘có lẽ là vết dao đâm’ – nhưng là loại dao hai lưỡi như dao găm. Chắc một mảnh chai nhọn có thể tạo ra vết cắt như vậy. Họ cũng đang bế tắc. Chúng tôi chưa có báo cáo khám nghiệm tử thi. Nhưng như tôi nói lúc nãy, còn hơn vậy nữa. Bà vợ… tôi chẳng biết nữa, vợ nạn nhân có cái gì đó lạ lắm.”
“Lạ như thế nào?”
“Lạ nhiều mặt. Thứ nhất, bả thuộc loại sùng đạo hết cỡ. Thật ra, đó chính là chứng cứ ngoại phạm của bả. Khi vụ án xảy ra, bả đang trong một buổi lễ cầu nguyện ca ngợi Chúa gì đó.”
Gurney nhún vai. “Còn gì nữa?”
“Bả đang dùng thuốc cỏ nặng. Phải dùng mấy viên thuốc to đùng mới nhớ được đây là hành tinh bản địa của mình.”
“Hy vọng bà ta còn tiếp tục dùng thuốc. Bà ta còn điều gì khác khiến cậu băn khoăn không?”
“Còn chứ,” Clamm nói, chân dừng bước ngay giữa con đường hẹp như hẻm mà họ đang đi dọc theo. “Bả đang nói dối chuyện gì đó.” Trông cậu ta như đang đau ở mắt. “Có chuyện gì đó bả không muốn kể cho chúng tôi nghe. Hoặc là chuyện mà bả kể có chỗ nào đó nhảm nhí. Chắc cả hai. Ngôi nhà kìa.” Clamm chỉ vào ngôi nhà một tầng thấp lùn nằm trước mặt bên trái, cách con đường hẹp khoảng hơn ba trăm mét. Lớp sơn bong tróc lợp quanh nhà có màu xanh lá cây nhợt nhạt. Cánh cửa màu nâu đỏ làm Gurney nghĩ đến máu khô. Giăng quanh căn nhà nhỏ tiêu điều này là dây băng vàng cách ly hiện trường gắn trên những cái cọc di động. Gurney nghĩ chỉ cần một cái nơ trước mặt tiền nữa thôi là căn nhà sẽ trở thành một món quà từ địa ngục.
Clamm gõ cửa. “À, còn nữa,” cậu ta nói, “bả bự lắm.”
“Bự?”
“Rồi anh sẽ thấy.”
Lời cảnh báo ấy không hoàn toàn chuẩn bị tinh thần cho Gurney gặp người phụ nữ ra mở cửa. Với trọng lượng hơn 150 ki-lô-gam, cánh tay như cặp đùi, bà ta trông lạc lõng giữa ngôi nhà bé nhỏ. Lạc lõng hơn nữa chính là khuôn mặt của một đứa trẻ nằm trên thân hình to bè này – một đứa trẻ thuộc loại đờ đẫn, mất thăng bằng. Mái tóc ngắn màu đen được rẽ ngôi và chải chuốt như tóc một cậu bé.
“Tôi giúp được gì cho hai anh?” bà ta hỏi, vẻ mặt như muốn nói giúp đỡ là điều chẳng bao giờ mình còn làm được.
“Chào bà Rudden. Tôi là thám tử Clamm. Còn nhớ tôi chứ?”
“Chào anh.” Bà ta nói mà như đang đọc ra từ một cuốn sổ tay đàm thoại ngoại văn.
“Hôm qua tôi có đến đây.”
“Tôi nhớ mà.”
“Chúng tôi cần hỏi bà một vài câu nữa.”
“Các anh muốn biết thêm về Albert à?”
“Phần nào thôi. Chúng tôi vào nhà được không?”
Không trả lời, bà ta xoay lưng đi ngang qua một căn phòng khách nhỏ rồi ngồi xuống một chiếc xô pha – chiếc xô pha trông như đang co rút dưới sức nặng của bà ta.
“Mời ngồi,” bà ta nói.
Hai người nhìn quanh. Chẳng có cái ghế nào. Vật dụng khác duy nhất trong phòng là một chiếc bàn trà trang trí hoa mỹ đến buồn cười cùng một bình hoa rẻ tiền cắm những bông hoa nhựa màu hồng đặt giữa bàn, một tủ sách trống trơn, và một chiếc ti vi đủ lớn để có thể đặt trong phòng khiêu vũ. Sàn nhà trơ trụi lót gỗ dán, trên sàn sạch bóng dấu vết ngoại trừ một vài sợi tổng hợp nằm rải rác – cho thấy, theo Gurney, tấm thảm nơi phát hiện cái xác đã được mang đến phòng giám định pháp y.
“Chúng tôi không cần ngồi,” Clamm nói. “Chúng tôi nán lại không lâu đâu.”
“Albert thích thể thao lắm,” bà Rudden nói, miệng mỉm cười thẫn thờ nhìn chiếc ti vi khổng lồ.
Một lối đi có mái vòm bên trái phòng khách nhỏ nhắn dẫn đến 3 cánh cửa. Sau một cánh cửa nghe có âm thanh của một trò chơi điện tử thể loại đấu võ.
“Jonah đấy. Jonah là con trai tôi. Phòng ngủ nó ở đó.”
Gurney hỏi tuổi cậu bé.
“12 tuổi. Cái tuổi vừa già dặn, vừa non nớt,” bà ta nói như thể đây là lần đầu tiên nhận ra điều này.
“Lúc ấy nó có ở cùng với bà không?” Gurney hỏi.
“Anh nói nó có ở cùng với tôi không là sao?” bà ta hỏi bằng giọng đầy hàm ý kỳ quái làm Gurney thấy ớn lạnh.
“Ý tôi là,” Gurney cố không để cảm giác của mình xen vào giọng nói, “nó có đi chung với bà đến buổi lễ cầu nguyện vào đêm chồng bà bị giết không?”
“Nó đã chấp nhận Chúa Giêsu làm Đức Chúa và Đấng Cứu Thế của nó.”
“Nói vậy có nghĩa hôm đó nó có đi chung với bà?”
“Phải. Tôi nói với anh cảnh sát kia rồi mà.”
Gurney mỉm cười thông cảm. “Nhiều khi hỏi lại những chuyện như thế này sẽ giúp ích cho chúng tôi.”
Bà ta gật đầu vẻ tán thành, rồi lặp lại. “Nó đã chấp nhận Chúa Giêsu.”
“Chồng bà có chấp nhận Chúa Giêsu không?”
“Hình như là có.”
“Bà không chắc ư?”
Bà ta nhắm chặt mắt lại như đang tìm kiếm câu trả lời từ trong mí mắt. Bà nói, “Quỷ Satan rất quyền lực và quỷ quyệt.”
“Đúng là quỷ quyệt lắm, bà Rudden ạ,” Gurney nói. Anh kéo bàn trà có hoa nhựa màu hồng ở trên ra xa xô pha một chút, đi vòng quanh, rồi ngồi lên mép bàn đối diện bà ta. Anh đã học được một điều là cách tốt nhất để nói chuyện với người có kiểu nói chuyện như vậy là nói chuyện giống họ, dẫu anh chẳng biết cuộc nói chuyện sẽ đi về đâu.
“Ranh ma và khủng khiếp,” anh vừa nói vừa quan sát kỹ bà ta.
“Đức Chúa là Đấng chăn dắt tôi,” bà ta nói. “Tôi chẳng cần gì khác.”
“Amen.”
Clamm hắng giọng rồi chuyển chân.
“Nói cho tôi biết nào,” Gurney nói, “Satan đã tiếp cận Albert bằng cách quỷ quyệt nào thế?”
“Satan chỉ theo đuổi người lương thiện thôi!” bà ta bỗng hét lớn, giọng nhấn mạnh đột ngột. “Bởi những kẻ xấu đã thuộc quyền điều khiển của y rồi.”
“Trong khi Albert là người lương thiện phải không?”
“Jonah!” bà ta hét to hơn, vừa hét vừa bật dậy khỏi xô pha và đi nhanh đến mức đáng kinh ngạc qua lối đi có mái vòm bên trái vào một trong những cánh cửa cuối lối đi. Bà ta đập tay lên cửa. “Mở cửa! Nhanh lên! Mở cửa!”
“Cái chó chết gì…?” Clamm nói.
“Tao nói mở ra ngay, Jonah!”
Có tiếng khóa lách cách và cửa mở ra phân nửa, để lộ một thằng bé béo phì to con gần bằng bà mẹ mà nó giống đến mức đáng sợ – giống đến cả cái thái độ vô cảm lạ lẫm trong đôi mắt, khiến Gurney tự hỏi liệu đó là do di truyền, do thuốc hay do cả hai. Cái đầu húi cua của nó nhuộm trắng một màu.
“Tao đã bảo có tao ở nhà thì không được khóa cửa kia mà. Vặn nhỏ tiếng lại đi. Nghe như có người đang bị giết trong đó vậy.” Chẳng biết mẹ con họ có ai cảm thấy ngượng ngùng trước tình huống hiện tại không, nhưng rõ ràng không ai thể hiện như vậy cả. Thằng bé hờ hững nhìn Gurney và Clamm. Không còn nghi ngờ gì nữa, Gurney trầm ngâm, đây là một trong những gia đình đã quá quen với sự can thiệp của cơ quan phúc lợi xã hội đến nỗi những người lạ trông như quan chức trong phòng khách chẳng gây bất kỳ sự chú ý nào. Thằng bé quay lại nhìn mẹ.
“Cho con ăn kem que bây giờ được không?”
“Mày biết lúc này không được mà. Vặn tiếng nhỏ lại đi, nếu không đừng hòng có kem ăn.”
“Trước sau cũng có thôi mà,” nó nói lạnh tanh rồi đóng cửa lại ngay trước mặt bà ta.
Bà ta quay trở lại phòng khách rồi ngồi xuống xô pha. “Cái chết của Albert làm nó sốc lắm.”
“Bà Rudden,” Clamm nói theo cái cách ‘ta tiếp tục nào’ của cậu ta. “Thanh tra Gurney đây cần hỏi bà một số câu.”
“Trùng hợp đến buồn cười không kia chứ? Tôi có bà dì cũng tên Bemie đấy. Tôi mới nghĩ đến dì sáng nay thôi.”
“Gurney, không phải Bemie,” Clamm nói.
“Nhưng cũng na ná nhau thôi mà, phải không?” Mắt bà ta như rực lên trước sự tương đồng đáng kể như vậy.
“Bà Rudden,” Gurney nói, “tháng trước chồng bà có nói cho bà nghe chuyện gì khiến ông ấy lo lắng không?”
“Albert chẳng bao giờ lo lắng cả.”
“Bà thấy ông ấy có gì khác thường không?”
“Albert lúc nào cũng như lúc nào mà.”
Gurney ngờ rằng những gì bà ta nhận thức được lúc này có thể là do Albert lúc nào cũng kiên định như bà ta nói, hoặc do hiệu ứng xoa dịu và làm mụ mẫm của thuốc men.’
“Ông ấy có bao giờ nhận được lá thư nào có địa chỉ viết tay hoặc có chữ viết bằng mực đỏ không?”
“Thư chỉ toàn là hóa đơn và quảng cáo thôi. Tôi chẳng bao giờ coi thư từ cả.”
“Albert lo toàn bộ số thư à?”
“Chỉ toàn là hóa đơn và quảng cáo thôi.”
“Bà có biết ông ấy có trả hóa đơn đặc biệt nào gần đây hay viết tấm séc nào bất thường không?”
Bà ta lắc đầu nguầy nguậy, khiến gương mặt non nớt của bà ta trông trẻ con một cách đáng sửng sốt.
“Một câu cuối nữa thôi. Sau khi tìm thấy thi thể chồng bà, bà có thay đổi hay di dời vật gì trong phòng trước khi cảnh sát đến không?”
Một lần nữa bà ta lại lắc đầu. Có lẽ chỉ là trí tưởng tượng của anh, nhưng anh nghĩ anh thoáng thấy thứ gì đó mới mẻ trong vẻ mặt bà ta. Trong cái nhìn ngây dại đó phải chẳng có một sự hoảng sợ lan tỏa? Anh quyết định chớp lấy cơ hội.
“Đức Chúa có nói chuyện với bà không?” anh hỏi.
Trên nét mặt của bà ta giờ đây hiển hiện một vẻ gì khác, biện minh hơn là hoảng sợ.
“Vâng, Ngài có nói.”
Biện minh và kiêu hãnh, Gurney nghĩ.
“Đức Chúa có nói chuyện với bà khi bà tìm thấy Albert không?”
“Đức Chúa là Đấng chăn dắt tôi’,” bà ta lên tiếng – đoạn đọc lại toàn bộ bài Thánh ca số 23. Những cái nháy giật sốt ruột lan khắp khuôn mặt Clamm hiển hiện rõ cả trong tầm nhìn ngoại biên của Gurney.
“Đức Chúa có hướng dẫn cụ thể cho bà không?”
“Tôi không nghe thấy giọng nói nào cả,” bà ta nói, vẻ mặt hoảng sợ lại xuất hiện chập chờn.
“Không, không phải giọng nói gì đâu. Nhưng Đức Chúa có nói với bà, để giúp đỡ bà phải không?”
“Chúng ta có mặt tại đây trên trái đất này để làm những gì Ngài muốn chúng ta làm.”
Gurney nghiêng người về phía bà ta từ chỗ ngồi trên mép bàn trà. “Rồi bà làm theo chỉ dẫn của Đức Chúa?”
“Tôi làm theo chỉ dẫn của Ngài.”
“Khi tìm thấy Albert, có thứ gì cần phải thay đổi, có thứ gì không đúng với bản chất của nó, có thứ gì Đức Chúa muốn bà làm không?”
Đôi mắt lớn của người đàn bà to con ngấn đầy lệ. Nước mắt chảy xuống gò má tròn lẳn thiếu nữ của bà. “Tôi phải giữ nó lại.”
“Giữ nó lại?”
“Nếu không cảnh sát đã lấy nó đi rồi.”
“Lấy cái gì đi cơ?”
“Họ lấy hết mấy thứ khác rồi – áo quần ông ấy đang mặc, đồng hồ, ví, báo ông ấy đang đọc, ghế ông ấy đang ngồi, tấm thảm, mắt kính, ly ông ấy đang uống… Ý tôi là, họ lấy đi tất cả mọi thứ.”
“Chưa hẳn tất cả mọi thứ đâu – phải không bà Rudden? Họ có lấy được thứ mà bà đang giữ đâu nào.”
“Tôi không thể để họ lấy được. Đó là một món quà. Món quà cuối cùng Albert tặng tôi.”
“Tôi có thể xem món quà đó không?”
“Anh xem rồi còn gì. Kia kìa – sau lưng anh đấy.”
Gurney xoay người quanh phòng và lần theo ánh mắt chăm chú của bà ta vào cái bình cắm hoa nhựa màu hồng ở giữa bàn. Quan sát kỹ hơn, hóa ra bình chỉ cắm một bông hoa nhựa màu hồng nhưng nở xòe lòe loẹt nên mới nhìn vào rất dễ có cảm giác đang ngắm một bó hoa.
“Albert tặng bà bông hoa ấy à?”
“Ông ấy định vậy,” bà ta nói sau một chút ngập ngừng.
“Ông ấy chưa tận tay tặng cho bà sao?”
“Ông ấy đâu còn tặng được nữa, đúng không?”
“Ý bà là do ông nhà đã bị giết ư?”
“Tôi biết ông ấy mua để tặng tôi mà.”
“Chuyện này có thể hệ trọng lắm, bà Rudden ạ,” Gurney nói nhẹ nhàng. “Xin nói cho tôi biết cụ thể bà đã tìm thấy gì và đã làm gì.”
“Khi tôi và Jonah từ Phòng Thiên Khải về nhà, hai mẹ con nghe tiếng ti vi, và tôi thì không muốn quấy rầy Albert. Ông ấy thích xem ti vi lắm. Ông ấy không thích đang xem ti vi mà có người bước ngang trước mặt. Cho nên Jonah và tôi đi vòng ra cửa sau vào nhà bếp thay vì đi cửa trước để khỏi phải bước ngang qua mặt ông ấy. Mẹ con tôi ngồi trong bếp, Jonah ăn cây kem trước giờ ngủ của nó.”
“Hai người ở trong bếp bao lâu?”
“Tôi không nhớ nữa. Hai mẹ con ngồi nói chuyện. Jonah sâu sắc lắm.”
“Nói chuyện gì thế?”
“Nói đề tài ưa thích của Jonah – khổ nạn Thời Mạt Thế. Trong Kinh Thánh có nói, trong Thời Mạt Thế sẽ có khổ nạn. Jonah lúc nào cũng hỏi tôi có tin không, nếu có thì sẽ có bao nhiêu khổ nạn và là khổ nạn gì. Mẹ con tôi nói chuyện đó nhiều lắm.”
“Vậy là hai mẹ con nói về khổ nạn, còn Jonah thì ăn kem?”
“Như mọi khi.”
“Rồi sao nữa?”
“Rồi đến giờ Jonah đi ngủ.”
“Và rồi?”
“Rồi nó đi qua cửa bếp, vào phòng khách để đến phòng ngủ, nhưng chưa đầy 5 giây sau, nó trở lại bếp, vừa đi lùi vừa chỉ vào phòng khách. Tôi bảo nó nói, nhưng nó cứ chỉ trỏ. Thấy vậy tôi mới vào đó. Ý tôi là, tôi vào đây này,” bà ta vừa nói vừa đảo mắt quanh phòng.
“Rồi bà nhìn thấy gì?”
“Thấy Albert.”
Gurney đợi bà ta nói tiếp. Thấy bà ta không nói tiếp, anh nhắc, “Thấy Albert đã chết rồi ư?”
“Có nhiều máu lắm.”
“Còn bông hoa?”
“Bông hoa nằm trên sàn cạnh ông ấy. Anh thấy đấy, nhất định ông ấy đã giữ cái bông hoa đó trong tay. Nhất định ông ấy muốn tặng tôi khi tôi về nhà.”
“Rồi khi đó bà làm gì?”
“Khi đó ư? Ồ, tôi sang nhà hàng xóm kế bên. Nhà tôi không có điện thoại. Hình như họ báo cảnh sát thì phải. Trước khi cảnh sát đến, tôi nhặt bông hoa lên. Hoa này tặng tôi mà,” bà ta nói bằng cái vẻ khăng khăng hồn nhiên bột phát của một đứa trẻ. “Đây là quà cơ mà. Tôi cắm hoa vào cái bình đẹp nhất.”