Chương 35 Chợt Thấy Ánh Sáng
Mặc dù hai người rời nhà Rudden vào giờ trưa nhưng Gurney không có tâm trạng ăn uống. Không phải anh không thấy đói, cùng không phải Clamm không đề nghị dùng bữa trưa ở một nơi thuận tiện. Chẳng qua anh quá chán nản với bản thân mình là nhiều, nên chẳng buồn đồng ý chuyện gì. Khi Clamm lái xe đưa anh trở lại bãi xe ở nhà thờ nơi anh để xe, hai người hờ hững đối chiếu lần cuối dữ kiện hai vụ án để xem thử có thứ gì đó nối kết chúng lại với nhau không. Nỗ lực đó chẳng dẫn đến đâu.
“Chậc,” Clamm nói, ra sức hiểu bài tập này một cách lạc quan, “ít ra cho đến giờ chưa có bằng chứng nào cho thấy giữa chúng không có mối liên hệ nào. Người chồng có thể đã nhận thư mà người vợ không hề thấy, mà gia đình đó không có vẻ vợ chồng thường xuyên chia sẻ với nhau, nên có lẽ ổng cũng chẳng kể cho bả nghe chuyện gì đâu. Và bả có dùng cái thuốc khỉ gì đi nữa thì tự thân bả cũng khó để ý được chút xíu thay đổi nào về mặt cảm xúc của ổng. Có lẽ mình nên nói chuyện lần nữa với thằng nhỏ. Tôi biết nó cũng say thuốc như mẹ nó, nhưng lỡ nó nhớ ra được chuyện gì thì sao.”
“Ừm,” Gurney nói mà chẳng có chút quả quyết. “Và cậu có lẽ cũng nên điều tra xem Albert có tài khoản vãng lai không và có cuống séc nào gửi đến ai tên Charybdis, Arybdis, Scylla không. Cũng khó có chuyện đó lắm, nhưng vào thời điểm này thì làm vậy có chết ai đâu.”
Trên đường về nhà, thời tiết trở xấu như muốn cảm thông theo cách không lành mạnh với tâm thái của Gurney. Cơn mưa phùn sáng hôm ấy đã chuyển thành cơn mưa đều hạt, càng củng cố thêm quan điểm tồi tệ của anh về chuyến đi. Dù thật sự có mối liên hệ nào giữa hai vụ án Mark Mellery và Albert Rudden, ngoài số lượng và vị trí của rất nhiều vết đâm, thì mối liên hệ đó vẫn chưa rõ ràng. Những điểm đặc thù trong vụ án ở Peony không hề có trong vụ án ở Flounder Beach – không có mấy dấu chân kỳ quái, không có chiếc ghế sân vườn, không có vỏ chai uýt ki vỡ, không có mấy bài thơ – không có bất kỳ biểu hiện đánh đố nào. Hai nạn nhân dường như không có chung đặc điểm nào. Nói rằng hung thủ muốn chọn cặp mục tiêu là Mark Mellery và Albert Rudden thì lại không hợp lý.
Những suy nghĩ này, cùng với sự khó chịu phải lái xe trong cơn mưa càng lúc càng nặng hạt, đã góp phần vào vẻ mặt căng thẳng của anh khi mình mẩy ướt sũng đi qua cửa bếp vào gia trang cũ kỹ của mình.
“Anh gặp chuyện gì vậy?” Madeleine ngước lên nhìn anh từ mớ hành đang xắt vuông.
“Em hỏi vậy nghĩa là sao?”
Cô nhún vai rồi xắt thêm một lát hành.
Sự bực dọc trong câu trả lời của anh lơ lửng giữa không trung. Sau đó, anh lầm bầm vẻ biết lỗi. “Hôm nay mệt rã rời, sáu tiếng đồng hồ đi rồi về trong mưa.”
“Rồi sao?”
“Rồi sao ư? Rồi toàn bộ mọi chuyện chết tiệt chắc là ngõ cụt luôn chứ sao.”
“Rồi sao nữa?”
“Vậy vẫn chưa đủ à?”
Cô bắn cho anh một nụ cười mỉm đầy hoài nghi.
“Ly kỳ hơn nữa, đó là quận Bronx,” anh nói thêm vào một cách rầu rĩ. “Có trải nghiệm nào ở quận Bronx mà không thể bị làm cho tồi tệ thêm đâu cơ chứ.”
Cô bắt đầu xắt nhuyễn hành. Cô nói như đang nói với tấm thớt. “Anh có hai lời nhắn trong điện thoại – bạn anh ở Ithaca và con trai anh.”
“Nhắn cụ thể hay chỉ yêu cầu anh gọi lại?”
“Em đâu có để ý đến mức đó.”
“Em nói ‘bạn anh ở Ithaca’ có phải muốn nói Sonya Reynolds không?”
“Còn bạn nào ở đó nữa sao?”
“Bạn gì cơ?”
“Mấy người bạn khác của anh ở Ithaca mà anh chưa nói ra đó.”
“Anh chẳng có ‘bạn bè’ nào ở Ithaca cả. Sonya Reynolds là đối tác làm ăn thôi – mà cũng chẳng phải là đối tác gì sất. Mà cô ấy muốn gì mới được?”
“Em nói rồi mà, lời nhắn trên điện thoại kìa.” Dao trên tay Madeleine trước giờ vẫn lơ lửng trên đống hành nhuyễn bỗng xẻ phập xuống.
“Chúa ạ, coi chừng ngón tay đó!” Anh tuôn những lời này vì giận dữ hơn là vì quan tâm.
Với lưỡi dao sắc nhọn vẫn cắm vào thớt, cô nhìn anh tò mò. “Vậy hôm nay thật sự đã xảy ra chuyện gì?” cô hỏi như muốn tua lại cuộc đàm thoại và cho ngừng ở đoạn trước khi băng bị hư.
“Chắn nản, chắc vậy. Chẳng biết nữa.” Anh đi đến tủ lạnh lấy ra một chai Heineken, khui nắp, rồi đặt lên chiếc bàn điểm tâm trong góc sát cánh cửa kiểu Pháp mà anh thường ngồi. Rồi anh cởi áo khoác ra, trùm lên lưng ghế rồi ngồi xuống.
“Em muốn biết chuyện gì xảy ra chứ gì? Anh nói cho em biết. Theo yêu cầu của một thám tử ở Sở Cảnh sát New York có cái tên nực cười là Randy Clamm, anh đã lái xe suốt ba tiếng đồng hồ đến một căn nhà nhỏ ảm đạm ở quận Bronx, là nơi một người đàn ông thất nghiệp bị cứa cổ.”
“Sao anh ta lại gọi cho anh?”
“A. Câu hỏi hay đây. Hình như thám tử Clamm có nghe qua về vụ giết người ở Peony này đây thì phải. Thấy phương thức gây án giữa hai vụ giống nhau quá nên cậu ta mới gọi cho Sở Cảnh sát Peony, rồi sở chuyển cậu ta tới Tổng bộ Cảnh sát bang ở khu vực, rồi tổng bộ chuyển cậu ta tới tay đại úy giám sát vụ án, chính là cái gã đần xấu xa bợ đít người khác có cái tên Rodriguez mà não chỉ đủ lớn để nhận ra mấy thứ manh mối dở hơi.”
“Rồi ông ta chuyển tới anh?”
“Chuyển tới tay ủy viên công tố quận, người mà y biết sẽ tự động chuyển tới anh.”
Madeleine tuy không nói gì nhưng câu hỏi hiển nhiên ấy đang nằm trong mắt cô.
“Phải, anh biết manh mối đó không đáng tin cậy chứ. Đâm chém ở cái nơi đó chẳng qua là một dạng tranh cãi thôi, nhưng vì một lý do nào đó, anh lại tưởng có thể tìm ra điều gì đó để nối hai vụ lại với nhau.”
“Không tìm được gì sao?”
“Ừm. Mặc dù cũng thấy có hy vọng được một lát. Bà góa phụ có vẻ như đang giấu giếm thứ gì. Cuối cùng bà ta thú nhận đã xáo trộn hiện trường vụ án. Có một bông hoa trên sàn trông có vẻ như do ông chồng mang về nhà tặng vợ. Bà ta sợ nhân viên thu thập chứng cứ lấy đi mất nên muốn giữ nó lại – chuyện dễ hiểu mà. Nên bà ta nhặt hoa lên rồi và cắm vào bình. Hết chuyện.”
“Lúc đó anh hy vọng bà ta thú nhận đã bưng bít dấu chân nào đó trên tuyết hay giấu đi một cái ghế sân vườn trắng nào đó, đúng không?”
“Đại loại là vậy. Nhưng lại hóa ra là một bông hoa nhựa.”
“Hoa nhựa ư?”
“Hoa nhựa.” Anh chậm rãi hớp một ngụm dài từ chai Heineken. “Anh nghĩ chẳng phải món quà có óc thẩm mỹ cho lắm.”
“Quà cũng chẳng phải,” cô nói quả quyết ít nhiều.
“Ý em là sao?”
“Hoa thật còn có thể làm quà – thường là như vậy, đúng không? Còn hoa giả thì là chuyện khác cơ.”
Sao hả?”
“Theo em thì giống vật trang trí nội thất hơn. Đàn ông mua tặng hoa nhựa cho phụ nữ thì có khác gì mua tặng một cuộn giấy hoa dán tường đâu chứ,”
“Em muốn nói gì với anh thế?”
“Em không chắc nữa. Nhưng nếu người phụ nữ này tìm thấy một bông hoa nhựa tại hiện trường vụ án và cho rằng chồng mình mua tặng thì em nghĩ bà ta đã nhầm rồi.”
“Em nghĩ bông hoa đó từ đâu ra?”
“Em không biết.”
“Bà ta có vẻ như khá chắc là chồng mình mua tặng.”
“Bà ta muốn nghĩ thế mà, phải không?”
“Có lẽ vậy. Nhưng nếu ông ấy không mang hoa vào nhà, và giả sử hai mẹ con không có nhà suốt buổi chiều theo như lời khai của bà ta, thì rất có thể nguồn gốc bông hoa ấy là từ tên hung thủ.”
“Chắc vậy,” Madeleine nói với hứng thú càng lúc càng thuyên giảm. Gurney biết rằng cô phân định rạch ròi chuyện hiểu rõ một con người thật sẽ làm gì trong hoàn cảnh nhất định và chuyện đưa ra giả thuyết hão về nguồn gốc một món đồ trong phòng. Giờ anh cảm nhận mình vừa vượt qua cái ranh giới ấy, nhưng anh vẫn tiến tới.
“Vậy vì cớ gì mà hung thủ lại để lại bông hoa bên cạnh nạn nhân chứ?”
“Hoa gì thế?”
Nói đến việc cụ thể hóa câu hỏi, cô là người anh luôn tin tưởng.
“Anh không chắc là hoa gì nhưng anh biết không phải là hoa gì. Không phải hoa hồng, không phải cẩm chướng, không phải thược dược. Nhưng đại khái giống giống cả ba thứ hoa này.”
“Giống ở điểm nào?”
“Ừm… nhìn là anh nghĩ ngay đến hoa hồng, nhưng hoa này lớn hơn hoa hồng, cánh nhiều hơn hẳn cánh hoa hồng và chụm lại nhiều hơn. Lớn gần bằng cẩm chướng hay thược dược cỡ lớn, nhưng mỗi cánh lại rộng hơn cánh thược dược và cẩm chướng – hao hao như cánh hoa hồng có nhiều nếp uốn. Đó là một loại hoa rất lòe loẹt, phô trương.”
Lần đầu tiên kể từ khi anh về đến nhà, gương mặt Madeleine mới sống động hẳn bởi vẻ hứng thú thật sự.
“Em nghĩ ra gì à?” anh hỏi.
“Có thể… ừm.”
“Sao? Em biết hoa gì ư?”
“Chắc em biết. Trùng hợp thật đấy.”
“Chúa ạ! Em có chịu nói hay không?”
“Nếu em không nhầm thì loại hoa mà anh vừa mô tả nghe rất giống hoa mẫu đơn[17].”
Chai Heineken vuột khỏi tay Gurney. “Ôi Chúa ôi!”
Sau khi hỏi Madeleine một vài câu liên quan đến mẫu đơn, anh đi đến phòng làm việc để thực hiện vài cuộc gọi.