Chương 41 Trở Về Thế Giới Thực Tại
Gurney xuống chỗ hộp thư kịp lúc đưa chiếc phong bì cho Rhonda, nhân viên bưu điện thay thế hai ngày một tuần cho người đưa thư thường lệ là Baxter. Khi anh trở vào nhà qua bãi cỏ, sự háo hức trước đó chưa gì đã bị giày vò bởi sự hối hận vốn luôn theo sau những hành động bồng bột hiếm thấy của anh.
Anh nhớ ra 5 tin nhắn của mình.
Tin nhắn đầu tiên đến từ phòng trưng bày ở Ithaca.
“David, Sonya đây. Chúng ta cần nói chuyện về dự án của anh. Chẳng có chuyện gì xấu đâu, mọi chuyện đều tốt đẹp cả, nhưng chúng ta cần nói chuyện gấp, rất gấp. Tôi sẽ ở phòng tranh đến 6 giờ chiều nay, hoặc lát nữa anh có thể gọi cho tôi ở nhà.”
Tin nhắn thứ hai là của Randy Clamm, và cậu ta nghe có vẻ háo hức.
“Gọi vào di động của anh, nhưng hình như điện thoại bị hỏng. Chúng tôi tìm thấy vài lá thư trong nhà Rudden và muốn anh xem thử có quen không. Hình như Al nhận được mấy bài thơ ngắn quái đản trong thư mà ổng không muốn vợ xem thì phải. Ổng giấu dưới đáy hộp đồ nghề. Cho tôi một số để tôi fax cho anh xem. Cảm ơn nhiều.”
Tin nhắn thứ ba là của Jack Hardwick ở BCI với thái độ khinh khinh lồng lộn của hắn.
“Ê, Sherlock, nghe đồn cái gã của anh có thêm vài nấc trên súng nữa hả. Anh chắc bận lắm nên không thể thông báo cho ông bạn lâu năm của anh nhỉ. Trong một lúc điên khùng, tôi rất muốn nghĩ rằng, gọi cho Jack Hardwick hèn mọn này đúng là việc làm hạ thấp phẩm giá của ngài Sherlock Gurney Chó Chết đây mà. Nhưng dĩ nhiên anh đâu phải hạng người đó đúng không? Tôi thật xấu hổ quá! Chỉ muốn cho anh thấy không có chuyện giận dỗi gì đâu, tôi gọi để báo cho anh biết về một cuộc họp mặt đang được lên kế hoạch cho ngày mai – chúng ta sẽ báo cáo tiến độ của BCI về vụ án Mellery, gồm có một phiên thảo luận đánh giá tác động của các diễn biến gần đây ở Quận Bronx và Sotherton đối với hướng điều tra. Đại úy Rodriguez sẽ chủ trì cuộc họp lộn xà bần này. Ủy viên công tố Kline đang được mời, và hắn chắc chắn sẽ mời anh rồi. Tôi nghĩ anh cần biết trước vậy thôi. Có bạn bè để làm gì phải không?”
Tin nhắn thứ tư là cuộc gọi của Kline đúng như dự đoán. Nó không có vẻ gì là ‘mời mọc’ cả. Năng lượng trong giọng y đã đặc lại thành một sự kích động.
“Gurney, di động của anh bị cái khỉ gió gì vậy? Chúng tôi liên lạc trực tiếp với anh không được nên phải thông qua cảnh sát Sotherton. Họ bảo anh rời Sotherton cách đây hai tiếng rưỡi rồi. Họ còn cho tôi biết hiện chúng ta đang giải quyết vụ án mạng thứ ba do cùng một người gây ra. Chi tiết này quan trọng đấy, anh thấy vậy không? Có phải có chuyện gì mà đáng lẽ anh phải gọi điện báo tôi biết rồi không? Chúng ta cần nói chuyện càng sớm càng tốt. Phải quyết định nhiều chuyện lắm nên cần càng nhiều thông tin càng tốt. Trưa mai BCI có họp. Ưu tiên số một đấy. Nhận được tin nhắn này thì gọi cho tôi ngay.”
Tin nhắn cuối cùng là của Mike Gowacki.
“Chỉ muốn anh biết là chúng tôi đã moi ra được một viên kẹo đồng từ cái lỗ trong tường nhà bếp. Loại 0.38 như anh nói. Còn một phát hiện nho nhỏ này nữa sau khi anh đi. Chúng tôi đang kiểm tra hộp thư tìm xem còn bức thư tình mực đỏ nào nữa không thì phát hiện thấy một con cá chết. Trong hộp thư đấy. Anh không có đề cập đến con cá chết nào trong phương thức gây án cả. Nếu nó có ý nghĩa gì thì cho tôi biết nhé. Tôi chẳng phải là chuyên gia tâm lý gì cả, nhưng theo tôi hung phạm của chúng ta nhất định là một thằng điên. Chỉ có bấy nhiêu thôi. Tôi về nhà đánh một giấc đây.”
Cá?
Anh trở ra bếp, đến bàn điểm tâm xem lại mảnh giấy ghi chú của Madeleine.
‘Đã đến lớp yoga 9 giờ sáng. Trở về trước bão. 5 tin nhắn. Cá đó có phải cá bơn không?’
Sao cô ấy lại hỏi vậy? Anh kiểm tra thời gian trên chiếc đồng hồ quả lắc cũ kỹ để trên tủ chén. 9 giờ rưỡi. Giống bình minh thì hơn, ánh sáng đi vào cánh cửa kính kiểu Pháp xám xịt một màu lạnh lẽo. Trở về trước bão. Quả thật trời trông như sắp có gì đó, có lẽ là tuyết, hy vọng không phải mưa gió rét mướt. Vậy là cô ấy sẽ về nhà trễ lắm là mười giờ rưỡi, có thể là mười giờ nếu cô ấy lo xa chuyện đường sá. Lúc đó anh có thể hỏi chuyện con cá bơn. Madeleine không phải là người hay lo sâu tính xa, nhưng cô ghét đường trơn trượt.
Anh đang trở lại phòng làm việc để gọi điện thoại lại cho vài người thì chợt nhận ra một điều. Địa điểm xảy ra án mạng thứ nhất là thị trấn Peony, và hung thủ để lại một bông hoa mẫu đơn cạnh xác nạn nhân thứ hai. Địa điểm xảy ra án mạng thứ hai là khu dân cư nhỏ ở Bronx thuộc Flounder Beach, như vậy suy đoán của Madeleine về con cá ở hiện trường thứ ba cho thấy sự thâm thúy đặc thù của cô và gần như chắc chắn là đúng.
Trước tiên, anh gọi lại cho Sở Cảnh sát Sotherton. Viên trung sĩ tiếp tân nối máy cho anh đến hộp thoại của Gowacki. Anh để lại hai yêu cầu: yêu cầu xác nhận con cá đó là cá bơn và yêu cầu được xem ảnh chụp từ phòng đạn đạo để họ có thể xác nhận những viên kẹo đồng trong tường nhà Kartch và trong tường nhà Mellery đều đến từ cùng một khẩu súng. Anh không nghi ngờ gì nhiều hai khả năng đó, nhưng nhất định anh phải chắc chắn hoàn toàn.
Rồi anh gọi cho Kline.
Sáng hôm đó Kline đang ở tòa. Ellen Rackoff lặp lại những lời phàn nàn của tay công tố, khiển trách Gurney rất khó liên lạc và không thường xuyên cập nhật tin tức cho họ. Cô ta bảo anh không nên bỏ cuộc họp quan trọng trưa mai ở BCI. Nhưng ngay cả trong bài lên lớp này cô ta còn tìm cách thổi vào đó một sắc thái gợi tình. Gurney tự hỏi liệu có phải vì mất ngủ mà anh lại gàn dở như vậy không.
Anh gọi cho Randy Clamm, cảm ơn cậu ta đã cập nhật thông tin, và cho cậu số fax của văn phòng công tố quận để cậu gửi thư từ của Rudden đến đó, cộng với số fax của BCI để Rodriguez có thể nhận được một bộ tương tự. Rồi anh cập nhật cho cậu ta biết về tình hình của Richard Kartch, kể cả mối liên quan giữa vụ đó với cá bơn và cho biết yếu tố rượu giờ đây đã hiện rõ trong cả ba vụ án.
Về phần Sonya, anh có thể gọi sau. Anh cũng không cần phải gấp gáp gọi cho Hardwick. Tâm trí anh không ngừng nhảy đến cuộc họp ngày mai ở BCI. Chẳng phải nhảy đến đó trong tâm trạng hân hoan gì cho cam – ngược lại là đằng khác. Anh ghét họp hành nói chung. Tâm trí của anh làm việc hiệu quả nhất khi đơn độc. Tư duy nhóm làm anh nôn nao muốn ra khỏi phòng họp. Và phong cách nhanh nhảu như ném lựu đạn của anh khiến anh đặc biệt không thoải mái về cuộc họp này. Anh không thích người khác cứ úp mở.
Anh ngả mình vào chiếc ghế bành mềm mại bằng da thuộc trong góc phòng để sắp xếp lại những dữ kiện mấu chốt của 3 vụ án, để nghĩ xem giả thuyết tổng thể nào sẽ hợp lý nhất, và làm cách nào để thử nghiệm nó. Nhưng bộ não thiếu ngủ của anh không chịu hợp tác. Anh nhắm mắt lại, và tất cả những thứ gọi là tư duy tuyến tính tan biến đi. Đã ngồi đó bao lâu anh không rõ, nhưng khi anh mở mắt ra, mưa tuyết nặng hạt đã bắt đầu phủ trắng phong cảnh trước mắt, và trong sự tĩnh mịch phi phàm anh nghe thấy tiếng xe phía cuối đường đang đến càng lúc càng gần. Anh nhấc mình ra khỏi ghế rồi đi vào bếp, đến chỗ cửa sổ vừa kịp lúc thấy xe của Madeleine mất dạng sau kho thóc cuối đường lộ. Có lẽ cô muốn kiểm tra hộp thư. Một phút sau, điện thoại reng. Anh nhấc chiếc điện thoại con để trên mặt bếp.
“Hay quá – anh về rồi. Người đưa thư đến chưa thế, anh biết không?”
“Madeleine hả?”
“Em đang đứng chỗ hộp thư dưới này. Em có thư muốn gửi, nhưng nếu ông ta đến rồi thì em bỏ thư trong thị trấn cũng được.”
“Thật ra thì là Rhonda đưa thư, hồi nãy cô ấy đến rồi.”
“Chết thật. Được rồi, không sao, tính sau vậy.”
Chầm chậm, xe cô hiện ra lù lù phía sau kho thóc và rẽ lên con đường cỏ dẫn đến nhà.
Cô vào nhà qua cửa bên hông bếp, vẻ mặt căng thẳng do lái xe trong tuyết. Rồi cô chú ý vẻ mặt khác lạ của anh.
“Có chuyện gì vậy?”
Đang mải mê suy nghĩ chuyện gì đó chợt nảy ra khi cô gọi cho anh từ chỗ hộp thư, nên mãi đến khi cô cởi áo khoác và giày xong anh mới lên tiếng trả lời.
“Hình như anh vừa mới nghĩ ra được gì đó.”
“Tốt rồi!” Cô mỉm cười chờ anh nói rõ hơn, tay giũ bông tuyết ra khỏi tóc.
“Bí ẩn về con số – bí ẩn thứ hai đấy. Anh biết hắn làm như thế nào rồi – hoặc là biết hắn chắc là làm như thế nào.”
“Bí ẩn thứ hai là?”
“Bí ẩn về con số 19, Mellery có thu âm lại đấy. Anh cho em xem bức thư rồi mà.”
“Em nhớ rồi.”
“Hung thủ bảo Mellery nghĩ đến một con số rồi đọc thầm con số đó cho hắn nghe.”
“Tại sao hắn lại bảo ông ta đọc thầm? À, cái đồng hồ kia chạy sai rồi,” cô vừa nói vừa ngước nhìn chiếc đồng hồ quả lắc.
Anh nhìn cô chòng chọc.
“Xin lỗi,” cô nói lí nhí. “Anh nói tiếp đi.”
“Anh nghĩ hắn bảo ông ta đọc thầm bởi vì làm vậy sẽ thêm yếu tố quái lạ vào lời yêu cầu, sẽ dẫn ông ta ra xa sự thật hơn là nói một câu đơn giản như ‘Nói cho tôi biết con số ấy nào.”
“Em không hiểu.”
“Tên hung thủ chẳng biết Mellery đang nghĩ đến con số nào cả. Cách duy nhất để tìm ra con số đó là hỏi ông ta. Hắn chỉ muốn tung hỏa mù để che đậy vấn đề đó thôi.”
“Nhưng chẳng phải con số đó được đề cập trong một lá thư hung thủ đã bỏ vào hộp thư của Mellery trước đó rồi sao?”
“Đúng và sai. Đúng là vì con số đó quả thật được đề cập trong lá thư Mellery tìm thấy trong hộp thư vài phút sau, nhưng sai, là vì lá thư đó không phải nằm sẵn trong hộp thư. Thật ra thì, lúc đó lá thư chưa được in ra.”
“Em không hiểu.”
“Giả sử hung thủ có một máy in mini gắn vào laptop của hắn thì sao. Hắn đã có sẵn nội dung lá thư gửi cho Mellery rồi, chỉ thiếu con số đúng nữa thôi là hoàn tất lá thư. Và giả sử lúc đó hung thủ đang ngồi trong xe cạnh hộp thư của Mellery trên con đường quê tối tăm chạy ngang qua viện. Hắn gọi vào số di động của Mellery – như em vừa gọi cho anh từ chỗ hộp thư của mình đấy – thuyết phục ông ta nghĩ đến một con số rồi ‘đọc thầm’ con số đó. Mellery vừa đọc xong con số thì tên hung thủ liền nhập số đó vào nội dung lá thư rồi bấm nút in. Nửa phút sau, hắn nhét thư vào phong bì, ném vào hộp thư, rồi lái đi – làm người ta tưởng hắn đọc được ý nghĩ người khác như ma vậy.”
“Rất thông minh,” Madeleine nói.
“Hắn hay anh?”
“Đương nhiên là cả hai người.”
“Anh nghĩ như vậy là hợp lý lắm. Hắn thu âm tiếng xe cộ cũng hợp lý nốt – để người ta tưởng hắn ở đâu đó chứ không phải là trên đường quê yên tĩnh.”
“Tiếng xe cộ ư?”
“Tiếng xe cộ được thu sẵn. Một nhân viên giám định giỏi ở BCI chạy một chương trình phân tích âm thanh trên đoạn băng Mellery ghi từ cuộc gọi và phát hiện ra có hai loại âm thanh nền đằng sau giọng của hung thủ – tiếng động cơ xe và tiếng xe cộ. Tiếng động cơ là thế hệ thứ nhất – nghĩa là, âm thanh thật ra đang phát ra cùng lúc với giọng nói – nhưng tiếng xe là thế hệ thứ hai, nghĩa là tiếng xe đã được thu sẵn và phát lại cùng lúc với tiếng nói trực tiếp. Thoạt đầu chuyện chẳng hợp lý gì cả.”
“Giờ thì hợp lý rồi đấy,” Madeleine nói, “vì anh đã tìm được câu trả lời rồi. Giỏi lắm.”
Anh nhìn kỹ cô, cố tìm sự mỉa mai thường ẩn nấp dưới những lời nhận xét của cô về việc anh dính líu vào vụ án này nhưng không tìm thấy gì cả. Cô đang nhìn anh bằng sự ngưỡng mộ chân thật.
“Em nói thật đấy,” cô nói, như thể đã phát hiện ra sự ngờ vực của anh. “Em rất ấn tượng.”
Một hồi ức quay về với anh, mang theo sự ngậm ngùi đáng sửng sốt: cô thường xuyên nhìn anh như vậy trong những năm đầu mới cưới, thật tuyệt biết bao khi thường xuyên nhận được bằng nhiều cách khác nhau sự ủng hộ trìu mến của một người phụ nữ thông minh sắc sảo đến thế, sự gắn kết giữa họ đã như thế, vô giá biết bao. Và kìa, nó đã xuất hiện trở lại, sống động trong đôi mắt cô, dù có thể chỉ là một phần nhỏ nhoi đáng hân hoan. Rồi cô xoay người một chút về phía cửa sổ, ánh sáng nhá nhem làm mờ nét mặt của cô. Cô hắng giọng.
“À, mình mua cái đồ cào tuyết trên mái nhà mới chưa thế? Người ta nói trước nửa đêm lượng tuyết sẽ từ hai nhăm đến ba mươi xăng-ti-mét đấy, em chẳng mong phòng chứa đồ bị dột lần nữa đâu.”
“Hai nhăm đến ba mươi xăng-ti-mét ư?”
Anh nhớ mang máng trong kho thóc còn chiếc cào cũ, có thể sửa lại được bằng băng keo ống nước…
Cô bật ra một tiếng thở dài nhẹ rồi đi về phía cầu thang. “Em dọn sạch phòng chứa đồ cũng được.”
Anh không nghĩ ra được điều gì khôn ngoan để nói. Điện thoại đang đổ chuông trên mặt bếp giúp anh khỏi phải nói điều gì đó ngu xuẩn. Anh nhấc máy ở tiếng chuông thứ ba. “Gurney đây.”
“Thanh tra Gurney, Gregory Dermott đây.” Giọng nói lịch sự nhưng căng thẳng.
“Phải, anh Dermott hả?”
“Có chuyện rồi. Tôi muốn chắc chắn là tôi đang báo cáo đúng cơ quan có thẩm quyền.”
“Có chuyện?”
“Tôi nhận được lá thư này lạ lắm. Tôi nghĩ có lẽ nó có liên quan đến mấy lá thư mà anh bảo tôi các nạn nhân đã nhận đấy. Tôi đọc cho anh nghe nhé.”
“Trước tiên nói cho tôi biết làm sao anh nhận được lá thư đó đã.”
“Tình huống tôi nhận được thư còn ghê tởm hơn là nội dung thư nữa. Chúa ạ, nó làm tôi sởn cả gai ốc đây này! Thư được dán ngoài cửa sổ – cửa sổ nhà bếp sát bên cái bàn nhỏ mà sáng nào tôi cũng ngồi ăn sáng đấy. Vậy nghĩa là sao anh biết không hả?”
“Là sao cơ?”
“Nghĩa là hắn đang ở đó chứ sao, ngay sát căn nhà, cách chỗ tôi ngủ không quá mười lăm mét. Hắn còn biết cửa sổ nào để dán nữa. Nên tôi mới sởn cả gai ốc đấy.”
“Anh nói ‘biết cửa sổ nào để dán’ là sao?”
“Cửa sổ mà sáng nào tôi cũng ngồi ở đó đấy. Đâu có trùng hợp như vậy – hắn nhất định biết tôi ngồi ở cái bàn đó ăn sáng, vậy nghĩa là hắn đang theo dõi tôi đây mà.”
“Anh báo cảnh sát chưa?”
“Thì tôi đang gọi cho anh đây.”
“Ý tôi là báo cảnh sát địa phương ấy.”
“À, tôi hiểu ý anh rồi. Có, tôi có gọi chứ – nhưng họ có coi trọng tình huống này đâu. Nên tôi hy vọng anh gọi cho họ sẽ tốt hơn. Anh gọi giúp tôi được không?”
“Nói cho tôi biết bức thư ghi gì nào.”
“Chờ chút đã. Đây rồi. Chỉ hai dòng thôi, viết bằng mực đỏ. ‘Một thằng chết thì hết thằng sống. Giờ thì tất cả những thằng ngu đều phải chết’”
“Anh đọc thư cho cảnh sát nghe chưa?”
“Đọc rồi. Tôi giải thích cho họ hiểu có thể có liên quan đến hai vụ án mạng, xong họ nói sáng mai sẽ có thanh tra đến gặp tôi, nói giống như chẳng việc gì phải gấp gáp vậy.”
Gurney cân nhắc mặt lợi và hại nếu nói cho anh ta biết bây giờ đã có 3 án mạng rồi nhưng nhận thấy nếu nói vậy sẽ làm anh ta hoang mang hơn chứ không được gì. Giọng Dermott cho thấy anh ta đã đủ hoang mang rồi.
“Theo anh, thông điệp đó có ý nghĩa gì?”
“Nghĩa gì ư?” Giọng Dermott hoảng lên. “Thư ghi sao thì có nghĩa như vậy thôi. Thư nói ai đó sẽ chết. Chết bây giờ đấy. Mà thông điệp này lại gửi cho tôi. Nghĩa là vậy chứ sao, Chúa ạ. Mấy anh bị sao vậy hả? Phải cần bao nhiêu xác chết thì các anh mới chú ý đến sự việc này đây?”
“Xin anh bình tĩnh. Anh có tên của viên cảnh sát mà anh đã nói chuyện không?”