Chương 42 Lộn Ngược
Kết thúc cuộc nói chuyện khó khăn với trung úy John Nardo thuộc Sở Cảnh sát Wycherly qua điện thoại, Gurney đã nhận được lời cam đoan miễn cưỡng rằng một cảnh sát sẽ được phái đến bảo vệ Gregory Dermott, ít ra là tạm thời, trong khi chờ quyết định cuối cùng từ cảnh sát trưởng.
Trong khi đó, bão tuyết đã chuyển thành lốc. Gurney đã thức gần ba mươi tiếng và biết mình cần ngủ, nhưng anh quyết định thúc bản thân một chút nữa và bắc một bình cà phê lên bếp. Anh gọi với lên lầu hỏi Madeleine có muốn uống cà phê không. Anh không giải mã được câu trả lời đơn âm tiết của cô dù lẽ ra anh phải biết nó là gì. Anh hỏi lần nữa. Lần này tiếng “Không!” nghe lớn và rõ – anh nghĩ lớn và rõ hơn mức cần thiết.
Lúc này tuyết không có tác dụng an thần đối với anh như thường lệ. Diễn biến vụ án chồng chất quá nhanh, và anh bắt đầu cảm thấy việc thả bức thư thơ thẩn của anh vào hộp thư ở Wycherly với hy vọng liên lạc được với tên hung thủ là một sai lầm. Đành rằng anh ít nhiều có quyền tự do điều tra, nhưng can thiệp ‘sáng tạo’ như vậy có lẽ không nằm trong quyền hạn của anh. Trong lúc anh chờ cà phê ra, những hình ảnh về hiện trường ở Sotherton, gồm cả con cá bơn – mà anh hình dung sống động như thể đã thấy tận mắt – đang giành chỗ trong tâm trí anh với mảnh giấy trên cửa sổ nhà Dermott. Một thằng chết thì hết thằng sống. Giờ thì tất cả những thằng ngu đều phải chết.
Kiếm tìm một lộ trình thoát khỏi bãi lầy của cảm xúc, anh chợt nhận ra mình có hai phương án: một là sửa chiếc cào tuyết bị nứt, hai là xem xét kỹ hơn vụ ‘con số 19’ để xem nó có dẫn anh đến đâu không. Anh chọn phương án thứ hai.
Giả định trò lừa lọc ấy tiến hành theo đúng cách anh nghĩ, thì có thể rút ra kết luận gì? Rằng tên hung thủ rất thông minh, giàu trí tưởng tượng, bình tĩnh dưới áp lực, đầy dã tâm một cách bỡn cợt ư? Rằng hắn là một kẻ thích kiểm soát, lúc nào cũng muốn khiến nạn nhân cảm thấy bất lực ư? Tất cả những điểm trên, nhưng những tố chất đó đã là chuyện hiển nhiên từ lâu. Thứ chưa hiển nhiên là tại sao hắn lại tiến hành kế hoạch theo cái cách đặc biệt đó? Gurney chợt nhận ra cái dữ kiện nổi bật về mánh khóe ‘con số 19’ ấy chính ở chỗ nó là một mánh khóe. Và tác dụng của cái mánh khóe đó là cho người khác cái cảm tưởng hung phạm hiểu rõ nạn nhân đến nỗi biết được họ đang nghĩ gì – trong khi không cần phải biết gì về nạn nhân cả.
Chúa ạ!
Câu thơ trong bài thơ thứ hai gửi cho Mellery là gì nhỉ?
Gurney đi như chạy từ nhà bếp vào phòng làm việc, chộp lấy hồ sơ vụ án, rồi lật nhanh xem. Kia rồi! Lần thứ hai trong ngày, anh cảm thấy lòng rộn ràng vì đã chạm được vào một phần của sự thật.
Tôi biết ông nghĩ sao, chớp mắt khi nào, đã ở đâu, sẽ về đâu.
Madeleine đã nói gì trên giường đêm đó nhỉ? Đêm hôm qua hay đêm hôm kia nhỉ? Nói là mấy thông điệp đó được viết một cách chung chung đến là kỳ lạ – chẳng dữ kiện, chẳng tên tuổi, chẳng nơi chốn, chẳng có thứ gì là thật ư?
Trong hứng khởi, Gurney cảm nhận được những mảnh ghép lớn của câu đố xếp hình đang khớp vào đúng vị trí. Mảnh ghép trọng tâm là mảnh ghép mà anh đã cầm lộn ngược ngay từ đầu. Mọi việc giờ đây xem ra đã rõ: những hiểu biết tường tận về nạn nhân và quá khứ của họ chỉ là giả vờ. Một lần nữa Gurney đọc qua hồ sơ thư từ và điện thoại mà Mellery và những nạn nhân khác đã nhận được nhưng anh lại không tìm được chút chứng cứ nào cho thấy hung thủ biết cụ thể nạn nhân ngoại trừ họ tên và địa chỉ của họ. Đúng là có vẻ như hắn biết chuyện nghiện rượu một thời của các nạn nhân, nhưng cho dù là vậy, cũng không thấy hắn nói đến chi tiết nào – không một biến cố, một người, một nơi, một thời điểm nào. Tất cả đều khớp với hình tượng của một tên hung thủ cố gắng cho nạn nhân của hắn cái cảm giác hắn biết họ tường tận trong khi thực tế lại chẳng biết chút gì.
Nếu vậy sẽ phát sinh thêm một câu hỏi mới. Tại sao lại giết người lạ? Nếu câu trả lời là, hắn là kẻ bệnh hoạn ghét cay ghét đắng những ai có vấn đề về rượu, thì tại sao (như Randy Clamm đã nói với Gurney ở quận Bronx) không ném bom vào cuộc họp gần nhất của Hội Cai rượu cho xong?
Một lần nữa những suy nghĩ của anh bắt đầu chạy lòng vòng, khi sự mệt mỏi đã ngập tràn tâm trí và thể xác. Đến cùng với mệt mỏi là sự hoài nghi về bản thân. Sự phấn chấn khi nhận ra cách thực hiện mánh khóe về con số và ý nghĩa của nó trong mối quan hệ giữa hung thủ và các nạn nhân được thay bằng cảm giác tự phê bình xưa cũ rằng đáng lẽ anh phải hiểu chuyện sớm hơn – và sau đó là nỗi sợ ngay cả phát hiện này rốt cuộc cũng sẽ là ngõ cụt.
“Chuyện gì nữa thế?”
Madeleine đang đứng chỗ cửa phòng, tay cầm một túi rác ni lông màu đen căng phình, tóc cô rối bù sau sứ mệnh dọn sạch phòng chứa đồ.
“Không có gì.”
Cô ném cho anh một cái nhìn ‘em không tin anh đâu’ rồi đặt túi rác xuống chỗ cửa. “Mấy thứ này nằm trong ngăn chứa đồ của anh.”
Anh nhìn chằm chằm cái túi.
Cô trở lại căn gác.
Cơn gió tạo ra một tiếng huýt cao vút chỗ một cánh cửa sổ cần một lớp chắn gió mới. Chết tiệt. Anh muốn sửa nó từ lâu. Mỗi lần gió đập vào nhà ở góc đó là…
Điện thoại reng.
Gowacki gọi đến từ Sotherton.
“Phải, đúng là cá bơn thật,” anh ta nói mà không buồn chào hỏi. “Anh làm thế quái nào mà biết thế?”
Xác nhận về con cá ấy đã vực thần trí thiếu ngủ của Gurney ra khỏi miệng hố. Nó tiếp cho anh đủ năng lượng để gọi cho tay Jack Hardwick khó ưa nói về một điểm làm anh băn khoăn ngay từ đầu. Chính là dòng đầu tiên của bài thơ thứ ba. Vừa tách bài thơ ra khỏi tập hồ sơ, anh vừa bấm số gọi Hardwick.
Ta làm những việc đã làm,
vì vui không phải, vì tiền cũng không,
mà vì nợ phải trả xong,
vì những bù đắp chẳng mong kéo dài.
Vì màu máu đỏ không phai
như ai tô điểm một bông hoa hồng.
Để ai cũng phải nằm lòng
gieo gì gặt nấy, đừng hòng cậy ai.
Như thường lệ, phải chịu đựng một phút xỉ vả bừa bãi dài dòng anh mới có thể khiến tay thám tử BCI này chịu nghe những trăn trở của mình và phản hồi. Câu hồi đáp của hắn đậm chất Hardwick.
“Anh nghĩ cách nói quá khứ trong thư nghĩa là trước lúc khử ông bạn của anh thì hung phạm đã bỏ lại đằng sau vài cái đầu bị cắt rồi ư?”
“Hiển nhiên phải có nghĩa như vậy,” Gurney nói, “vì khi thư được viết thì cả 3 nạn nhân mà ta biết đều còn sống cả.”
“Vậy anh muốn tôi làm gì nào?”
“Chắc ta nên yêu cầu các sở cảnh sát cho thông tin về những vụ có cách thức gây án tương tự.”
“Anh muốn chúng ta trình bày cái modus operandi[18] ấy chi tiết đến cỡ nào đây?” Giọng điệu đắc ý của Hardwick làm cho cái từ La tinh ấy nghe như một trò đùa. Hardwick là một tay theo chủ nghĩa dân tộc bá quyền nên có khuynh hướng thấy tiếng nước ngoài là lố bịch, thái độ đó làm Gurney phát cáu.
“Tùy anh. Theo tôi thì vết đâm ở cổ là điểm mấu chốt.”
“Hừm. Anh thấy bản yêu cầu này gửi đến đâu thì được? Bang Pennsylvania, New York, Connecticut, Rhode Island, Massachusetts, cả New Hampshire và Vermont luôn ư?”
“Tôi không biết, Jack. Anh quyết định đi.”
“Khung thời gian?”
“5 năm trước được không? Anh thấy ổn là được.”
“5 năm trước cũng được rồi.” Hắn nói như thể khung thời gian nào cũng tệ như nhau. “Anh sẵn sàng cho buổi họp mặt của đại úy R chưa?”
“Mai đúng không? Ừ, mai tôi đến.”
Có một khoảng lặng. “Vậy anh nghĩ thằng chó chết điên khùng này đã gây án được một thời gian rồi ư?”
“Có vẻ như là một khả năng, đúng không?”
Lại một khoảng lặng nữa. “Bên phía anh có tiến triển gì không?”
Gurney tóm tắt cho Hardwick biết các dữ kiện và kiến giải mới của mình, kết thúc bằng một đề nghị. “Tôi biết Mellery đi cai nghiện cách đây mười lăm năm. Có lẽ anh nên kiểm tra xem anh ấy có tiền án hay hồ sơ công cộng nào không – bất cứ thứ gì liên quan đến rượu. Tương tự cho Albert Rudden và Richard Kartch. Nhóm điều tra án mạng vụ Rudden và Kartch đang nghiên cứu tiểu sử nạn nhân. Có thể họ sẽ đào ra được thông tin gì đó có liên quan. Nhân tiện chúng ta soi mói chút ít lý lịch của Gregory Dermott cũng không hại ai cả. Chẳng hiểu sao anh ta lại bị cuốn vào cái mớ bòng bong này nữa. Hung thủ chọn hộp thư Wycherly vì lý do nào đó, và bây giờ hắn lại đe dọa chính Dermott nữa.”
“Hắn sao hả?”
Gurney kể Hardwick nghe chuyện mảnh giấy ‘Một thằng chết thì hết thằng sống. Giờ thì tất cả những thằng ngu đều phải chết’ dán trên cửa sổ nhà Dermott và cuộc trò chuyện với trung úy Nardo.
“Anh nghĩ chúng ta sẽ tìm được gì khi kiểm tra lý lịch?”
“Tìm được gì đó khớp với 3 dữ kiện. Thứ nhất, hung thủ tập trung vào những nạn nhân có tiền sử nghiện rượu. Thứ hai, không có chứng cứ nào cho thấy hắn quen riêng từng nạn nhân cả. Thứ ba, hắn chọn nạn nhân xa nhau về mặt địa lý, điều này cho thấy còn một yếu tố tuyển lựa nào khác nữa hơn là nghiện rượu vô độ – một yếu tố nào đó nối kết họ lại với nhau, với tên hung thủ, và có lẽ với Dermott nữa. Tôi không biết đó là gì, nhưng nếu trông thấy thì tôi sẽ biết.”
“Đó có phải là một dữ kiện không?”
“Mai gặp nhé Jack.”