← Quay lại trang sách

Chương 43 Madeleine

Ngày hôm sau đến đường đột một cách lạ kỳ. Nói chuyện với Hardwick xong, Gurney cởi giày nằm sóng soài trên chiếc xô pha trong phòng làm việc. Anh ngủ thật sâu, không gián đoạn, suốt phần còn lại của buổi chiều và rồi suốt cả đêm. Khi anh mở mắt ra, trời đã sáng.

Anh đứng dậy, vươn vai, nhìn ra ngoài cửa sổ. Mặt trời đang trườn lên rặng núi nâu phía Đông thung lũng, làm anh đoán bây giờ có lẽ khoảng bảy giờ sáng. Đến mười giờ rưỡi anh mới phải tới cuộc họp của BCI. Bầu trời xanh thẳm hoàn mỹ, và tuyết lấp lánh như được trộn vào nhiều mảnh thủy tinh, vẻ đẹp và sự an bình của khung cảnh lẫn vào hương cà phê tươi ngào ngạt, làm cuộc sống trong phút chốc dường như giản dị và tốt đẹp như bản chất của nó. Giấc ngủ dài làm anh hồi sức hoàn toàn. Anh cảm thấy đã sẵn sàng làm chuyện mà anh đã trì hoãn bấy lâu là gọi cho Sonya và Kyle, nhưng bỗng dừng lại khi nhận ra giờ này có lẽ hai người vẫn còn đang ngủ. Anh nghĩ đến hình ảnh Sonya đang nằm trên giường một vài giây, rồi ra bếp, quyết tâm sau chín giờ sẽ gọi ngay.

Ngôi nhà mang cảm giác trống trải vốn có mỗi khi Madeleine đi vắng. Sự vắng mặt của cô được xác nhận bởi mảnh giấy anh thấy trên mặt bếp: “Bình minh. Mặt trời sắp lên. Tuyệt đẹp. Đi giày tuyết tới rặng núi Carlson. Cà phê trong bình. M.” Anh vào phòng tắm, rửa ráy, đánh răng. Khi đang chải tóc, anh chợt nghĩ mình có thể đuổi theo cô. Cô đề cập đến bình minh sắp ló dạng nghĩa là cô đã rời nhà trong khoảng mười phút trước. Nếu dùng đôi ván trượt tuyết việt dã của mình và men theo dấu giày tuyết của cô thì chừng hai mươi phút nữa anh có thể vượt qua cô.

Anh mặc quần trượt tuyết và ủng bọc lấy quần jeans, mặc cho mình một chiếc áo len dày, lắp ván trượt tuyết vào chân, rồi qua cửa sau bước ra đám tuyết mịn dày khoảng ba mươi xăng-ti-mét. Đi hơn 1.600 mét qua một đường rừng cũ kỹ có dốc hơi nghiêng lên trên chạy từ phía sau căn nhà của hai người là tới rặng núi mà Madeleine đề cập, nơi có thể thấy cảnh quan bao quát của vùng thung lũng phía Bắc và dãy đồi đằng xa. Vào hè không thể vượt qua rặng núi này với những bụi mâm xôi dại mọc rối um tùm, nhưng vào cuối thu và đông, tầng cây thấp đầy gai góc này lại rút xuống.

Trong không khí lạnh lẽo, chỉ nghe tiếng kêu khô khốc của một gia đình nhà quạ đang thận trọng bay lên từ ngọn cây trụi lá trước mặt anh hơn 90 mét và chẳng mấy chốc biến mất phía bên kia rặng núi, để lại sau lưng một sự tĩnh lặng còn sâu lắng hơn.

Khi Gurney nhô người ra khỏi khu rừng và đặt chân lên mũi đất bên trên trang trại Carlson trên sườn đồi, anh thấy Madeleine. Cô đang ngồi bất động trên một phiến đá cách anh chừng mười lăm mét, nhìn ra khung cảnh thoai thoải lùi dần ra tận chân trời với hai hầm ủ và một con đường ngoằn ngoèo xa thẳm là bằng chứng duy nhất cho thấy có người hiện diện. Anh dừng chân, sững sờ trước tư thế bất động của cô. Trông cô thật… thật cô độc vô cùng… nhưng lại gắn kết với thế giới của mình thật mãnh liệt. Cô như ngọn hải đăng, ra hiệu cho anh đến một nơi nằm ngoài tầm với của mình.

Không nói không rằng, không có từ nào để kiềm chế cảm xúc, cảnh tượng trước mắt giày xéo tâm can Chúa ơi, có phải anh đang suy sụp không? Lần thứ ba trong tuần, mắt anh ngấn đầy lệ. Anh nuốt nước bọt rồi lau mặt. Cảm thấy choáng váng, anh di chuyển hai tấm ván trượt ra xa nhau để giữ thăng bằng.

Có lẽ do cử động của anh lọt vào tầm nhìn của cô, hoặc do tiếng ván trượt kêu lên trong tuyết khô, nên cô quay lại. Cô nhìn anh tiến đến gần. Cô không nói gì, chỉ nhoẻn miệng cười. Anh có một cảm giác khá lạ lẫm là cô nhìn được tâm hồn anh rõ như thể xác anh – lạ lẫm, vì ‘tâm hồn’ là một khái niệm anh chưa bao giờ tìm thấy được ý nghĩa trong đó, một từ anh chưa hề sử dụng. Anh ngồi cạnh cô trên tảng đá phẳng và nhìn trân trân, mà không thấy, vào cảnh sắc lộng lẫy của đồi núi và thung lũng. Cô vòng tay khoác lấy cánh tay anh, đặt vào lòng mình.

Anh nhìn kỹ gương mặt cô. Anh không biết phải dùng ngôn từ nào để lột tả những gì mình thấy. Như thể toàn bộ sự rạng rỡ từ khung cảnh phủ đầy tuyết phản chiếu trong nét mặt cô và sự rạng rỡ trên gương mặt cô phản chiếu trong khung cảnh.

Một chập sau – anh không rõ là bao lâu – họ cất bước trở về nhà theo một lộ trình vòng quanh.

Đi được khoảng nửa đường, anh hỏi, “Em đang nghĩ gì vậy?”

“Không suy nghĩ gì cả. Suy nghĩ chỉ tổ cản trở.”

“Cản trở thứ gì?”

“Trời xanh, tuyết trắng.”

Mãi đến khi họ trở lại phòng bếp anh mới nói trở lại.

“Anh còn chưa uống cà phê em để lại cho anh nữa,” anh nói.

“Để em pha bình mới cho anh.”

Anh nhìn cô lấy một túi hạt cà phê ra khỏi tủ lạnh rồi đong một ít vào máy nghiền cà phê.

“Gì thế?” Cô nhìn anh một cách tò mò, ngón tay để trên nút bấm.

“Không có gì,” anh nói. “Xem em làm thôi.”

Cô ấn nút. Một loạt tiếng kêu phát ra từ chiếc máy nhỏ bé, tiếng càng nhỏ khi hạt cà phê bị nghiền càng vụn. Cô nhìn anh lần nữa.

“Để anh xem phòng chứa đồ,” anh nói, cảm thấy cần phải làm chuyện gì đó.

Anh cất bước lên gác, nhưng chưa đến phòng chứa đồ anh đã dừng lại ở đầu cầu thang chỗ cửa sổ đối diện cánh đồng sau nhà và khu rừng bên kia cánh đồng và đường rừng dẫn tới rặng núi. Anh hình dung cảnh cô đang ngồi trên tảng đá trong sự an bình cô độc, và cái cảm xúc dâng trào không tên ấy một lần nữa lại ngập tràn trong anh, một cách đau đớn. Anh gắng sức gọi tên cơn đau ấy.

Mất mát. Cách biệt. Cô lập.

Cái tên nào nghe cũng đúng, mỗi tên diễn tả một khía cạnh khác nhau của cùng một cảm giác.

Vị bác sĩ trị liệu mà anh đã gặp cuối tuổi thiếu niên sau một cơn hoảng loạn – vị bác sĩ đã nói với anh rằng cơn hoảng loạn ấy phát sinh từ lòng thù hằn sâu sắc mà anh đã nung nấu đối với bố anh và việc anh không có những cảm xúc có ý thức trước bố mình là bằng chứng cho thấy tiềm ẩn trong cảm xúc đó là sức mạnh và sự tiêu cực – cũng vị bác sĩ ấy một ngày kia đã tâm sự với anh về một điều mà ông cho là mục đích của cuộc đời.

“Mục đích của cuộc đời là gần gũi hết mức có thể với những người khác.” Ông nói ra câu đó một cách giản đơn đến sửng sốt, như thể đang chỉ ra rằng mục đích của xe tải là để vận chuyển vậy.

Vào một dịp khác ông bộc bạch, cũng bằng cái giọng tỉnh rụi ấy, một hệ quả: “Một cuộc đời cô lập là một cuộc đời uổng phí.”

Ở cái tuổi 17 khi ấy, Gurney không rõ vị bác sĩ đang nói gì. Nghe có vẻ sâu xa thật, nhưng chiều sâu của nó rất mờ ảo, và anh không thấy được gì trong đó. Đến 47 tuổi, anh vẫn chưa hoàn toàn hiểu thấu – ít ra là chưa hiểu theo cách anh hiểu về mục đích của xe tải.

Quên mất phải đến phòng chứa đồ, anh trở xuống bếp. Đi vào căn bếp từ lối cầu thang tối mịt, anh thấy căn phòng sáng rực rỡ. Mặt trời lúc này đã nằm hẳn bên trên đám cây trên một bầu trời không mây, chiếu xuyên qua những cánh cửa kiểu Pháp nằm ở hướng Đông Nam. Đồng cỏ đã bị đợt tuyết mới biến dạng thành một tấm gương phản chiếu chói lóa, hắt ánh trắng sáng lên trên mọi ngõ ngách của căn phòng vốn ít khi được soi rọi.

“Cà phê của anh xong rồi,” Madeleine nói. Cô đang mang một tờ báo vo tròn và một ít củi đóm đến lò củi. “Ánh sáng thật là huyền diệu. Như âm nhạc vậy.”

Anh mỉm cười gật đầu. Đôi khi anh ghen tị với khả năng dễ bị mê hoặc của cô trước những thứ lấp lánh vụn vặt của tự nhiên. Tại sao, anh tự hỏi, một người phụ nữ như thế, một con người hăng hái như thế, một người có óc thẩm mỹ bẩm sinh đáng ngưỡng mộ như thế, một người phụ nữ gắn kết gần gũi với tố chất huy hoàng của vạn vật như thế, lại kết hôn với một thám tử đầy lý trí và cứng nhắc? Phải chăng cô từng tưởng tượng một ngày kia anh sẽ vứt bỏ được cái kén xám của nghề nghiệp? Phải chăng anh đã từng hùa theo viễn cảnh mơ mộng đó mà tưởng tượng rằng về hưu giữa chốn thôn quê thì anh sẽ trở thành một con người khác?

Họ làm thành một cặp đôi kỳ lạ, anh nghĩ vậy, nhưng chắc chắn không lạ hơn bố mẹ anh. Mẹ anh với tất cả những thiên hướng nghệ thuật của minh, tất cả những thú vui mơ mộng nho nhỏ của mình – điêu khắc bằng giấy bồi, vẽ tranh màu nước những vật trong tưởng tượng, gấp giấy origami – đã lấy bố anh, một người mà bản chất buồn tẻ chỉ bị gián đoạn bởi những ánh mắt mỉa mai, một người mà sự chú ý luôn ở đâu đâu, một người mà niềm đam mê là gì không ai biết được, một người mà việc đi làm vào buổi sáng dường như làm ông hài lòng hơn là về nhà vào buổi chiều. Một người mà trong cuộc kiếm tìm sự bình yên của mình lại luôn luôn bỏ đi.

“Mấy giờ anh phải đi họp vậy?” Madeleine hỏi, thể hiện sự nhạy cảm chính xác đến không tưởng của cô đối với những ý nghĩ thoáng qua trong đầu anh.