← Quay lại trang sách

Chương 44 Những Tranh Luận Cuối Cùng

Một cảm giác quen thuộc.

Thủ tục đăng nhập giống như trước. Khu vực tiếp tân của tòa nhà – oái ăm thay lại được thiết kế để xua đuổi – vô trùng như nhà xác nhưng lại ít yên bình hơn. Trong chốt an ninh là một tay lính gác mới, nhưng cũng như lần trước, ánh đèn khiến anh ta trông nhợt nhạt như bệnh nhân đang được xạ trị. Và, một lần nữa, người dẫn Gurney đến căn phòng hội nghị tù túng ấy lại là thanh tra Blatt tóc vuốt gel đỏm dáng.

Y đi trước anh vào phòng, vẫn là căn phòng theo ký ức của Gurney, khác chăng là nó có vẻ tồi tàn hơn trước. Trên lớp thảm không màu là những vết ố mà trước đây anh không để ý. Chiếc đồng hồ, treo không thật thẳng và quá nhỏ so với tường, chỉ 12 giờ trưa. Như thường lệ, Gurney đến đúng giờ – một tật thần kinh hơn là một đức tính tốt. Đến sớm hay đến trễ anh đều thấy bứt rứt.

Blatt ngồi xuống bàn. Wigg và Hardwick đã ngồi sẵn tự bao giờ, cùng một chỗ ghế như ở lần họp đầu tiên. Một phụ nữ với vẻ mặt cau có đang đứng cạnh bình cà phê trong góc phòng, rõ ràng không vui vì Gurney không đi cùng với người cô ta đang chờ đợi. Trông cô ta giống nữ diễn viên Sigoumey Weaver đến nỗi Gurney tự hỏi liệu cô ta có đang cố tình ra vẻ như thế không.

Như lúc trước, dựa vào chiếc bàn hình chữ nhật là ba chiếc ghế nằm gần trọng tâm của nó nhất. Khi Gurney đến chỗ bình cà phê, Hardwick cười khì như cá mập.

“Thanh tra Gurney thượng hạng, tôi có câu hỏi này cho anh đây.”

“Chào Jack.”

“Hoặc, hay hơn nữa, tôi có câu trả lời này cho anh đây. Xem anh có đoán được câu hỏi là gì không nào. Câu trả lời là ‘một linh mục bị phế truất ở Boston’. Để giành được giải đặc biệt, anh chỉ cần tìm ra câu hỏi là xong.”

Thay vì trả lời, Gurney cầm lên một chiếc tách, để ý thấy nó không sạch lắm, đặt nó xuống, thử tách khác, tới tách thứ ba, rồi quay lại tách thứ nhất.

Sigoumey đang gõ gõ chân trên nền nhà và xem đồng hồ Rolex trên tay, giả vờ sốt ruột.

“Chào,” anh nói, bấm bụng rót vào chiếc tách đầy vết ố của mình thứ cà phê nóng mà anh hy vọng là vô trùng. “Tôi là Dave Gurney.”

“Tôi là bác sĩ Holdenfield,” cô ta nói, như đặt xuống bàn cược một bộ thùng phá sảnh để đáp lại đôi hẻo của anh. “Sheridan đang đến hả?”

Thứ gì đó phức tạp trong giọng cô ta làm anh chú ý. Và cái tên ‘Holdenfield’ nghe có vẻ quen.

“Tôi không biết.” Anh tự hỏi mối quan hệ giữa ủy viên công tố quận và nữ bác sĩ này là gì. “Nếu cô không ngại thì cho tôi hỏi chuyên môn của cô là gì được không?”

“Bác sĩ tâm lý pháp y,” cô ta nói một cách lơ đãng, không nhìn anh mà nhìn cánh cửa.

“Như tôi nói đấy, thanh tra,” giọng Hardwick quá lớn so với kích thước căn phòng, “nếu câu trả lời là một linh mục Boston đã bị truất phế, thì câu hỏi là gì?”

Gurney nhắm mắt lại. “Chúa ạ, Jack, sao anh không nói cho tôi biết luôn cho xong đi?”

Hardwick nhăn mặt vẻ ghê tởm. “Vậy tôi phải giải thích hai lần rồi – cho anh nghe và cho ủy ban hành pháp nghe nữa.” Hắn nghiêng đầu về phía chỗ ghế đang nghiêng.

Nữ bác sĩ lại nhìn đồng hồ đeo tay. Trung sĩ Wigg nhìn thứ gì đó đang diễn ra trên màn hình laptop của cô ta đáp lại những phím cô ta đang gõ. Blatt trông chán chường. Cửa mở, và Kline đi vào, trông đang bận tâm điều gì, theo sau là Rodriguez, tay mang một tập hồ sơ dày cộm và trông gian ác hơn bao giờ hết, và Stimmel, trông như một chú ếch bi quan. Khi mọi người đã an tọa, Rodriguez ném cho Kline một cái liếc mắt dò hỏi.

“Bắt đầu được rồi,” Kline nói.

Rodriguez cố định ánh mắt vào Gurney, môi y mím lại thành một đường mỏng.

“Vừa có một tiến triển rất bi đát. Một cảnh sát ở Connecticut, nghe nói là theo thỉnh cầu của anh, đã được phái đến nhà của Gregory Dermott. Anh này đã bị giết.”

“Sao mà chết?” Anh hỏi một cách bình tĩnh, dù rằng trong lòng nhói lên sự lo âu.

“Chết giống bạn của anh vậy.” Có cái gì đó chua chát và ẩn ý trong giọng nói của y. Gurney quyết định không đáp lại.

“Sheridan, chuyện quái gì đang xảy ra ở đây vậy?” Nữ bác sĩ, người đang đứng đầu bàn bên kia, nói giống vai phản diện của Sigoumey trong phim Người ngoài hành tinh đến nỗi Gurney phải kết luận rằng nhất định cô ta đang cố tình tỏ ra như vậy.

“Becca! Xin lỗi nhé, không thấy cô ở đó. Chúng tôi hơi bận một chút. Biến cố phút cuối mà. Hình như lại có thêm án mạng.” Hắn quay sang Rodriguez. “Rod, sao anh không cập nhật cho mọi người biết về vụ cảnh sát Connecticut này đi?” Hắn lắc đầu nhanh và nhẹ, giống như có nước trong một bên tai. “Vụ án khốn kiếp nhất tôi từng thấy!”

“Chính xác,” Rodriguez lặp lại, tay mở tập hồ sơ ra. “Chúng ta nhận được điện thoại lúc 11 giờ 25 phút sáng nay từ trung úy John Nardo thuộc Sở Cảnh sát Wycherly bang Connecticut, liên quan đến một vụ án mạng xảy ra trong phạm vi nhà của một người tên Gregory Dermott, người mà chúng ta biết là chủ hộp thư trong vụ Mark Mellery. Dermott được cảnh sát bảo vệ tạm thời theo thỉnh cầu của thanh tra đặc biệt Dave Gurney. Vào tám giờ sáng nay…”

Kline giơ tay lên. “Chờ chút đã Rod. Becca, cô gặp Dave chưa?”

“Rồi.”

Câu khẳng định lạnh lùng, cụt ngủn dường như dùng để xua đi những lời giới thiệu thêm, nhưng Kline vẫn nói tiếp.

“Hai người chắc sẽ có nhiều chuyện để nói lắm đây. Một bác sĩ tâm lý với thành tích điểm mặt chính xác nhất trong ngành và một thanh tra với số vụ bắt giữ hung thủ giết người nhiều nhất trong lịch sử Sở Cảnh sát New York.”

Lời khen ngợi xem ra khiến mọi người không thoải mái. Nhưng nó cũng khiến Holdenfield lần đầu tiên nhìn vào Gurney với chút hứng thú. Và mặc dù anh chẳng phải là người hâm mộ những nhà điểm mặt chuyên nghiệp, nhưng bây giờ anh đã hiểu tại sao tên cô ta lại nghe quen.

Kline nói tiếp, xem ra quyết tâm muốn làm nổi bật hai ngôi sao của mình. “Becca đọc được ý nghĩ của chúng, Gurney lần ra chúng – Claus Ăn Thịt, Jason Strunk, Peter Thú túi gì đó…”

Nữ bác sĩ quay sang Gurney, mắt mở rộng ra một chút. “Piggert ư? Vụ đó của anh ư?”

Gurney gật đầu.

“Một vụ bắt giữ khá nổi tiếng đấy,” cô ta nói, nghe có phần nể phục.

Phải khó khăn lắm anh mới nở được một nụ cười lơ đãng nho nhỏ. Tình hình ở Wycherly – và câu hỏi liệu sự can thiệp bồng bột của anh bằng bài thơ gửi qua đường bưu điện có tác động gì đối với cái chết của viên cảnh sát ấy không – đang giày vò anh.

“Nói tiếp đi Rodriguez,” Kline đột ngột nói, như thể tay đại úy mới là người gây ra gián đoạn.

“Vào tám giờ sáng nay, Gregory Dermott đi đến bưu điện Wycherly, đi kèm là sĩ quan Gary Sissek. Theo Dermott kể lại thì hai người về nhà lúc tám giờ rưỡi, lúc đó anh ta pha cà phê, làm bánh mì nướng rồi xem qua đống thư, trong khi sĩ quan Sissek vẫn ở ngoài tuần tra quanh chu vi nhà và bảo đảm an ninh bên ngoài. Lúc 9 giờ sáng, Dermott đi tìm sĩ quan Sissek và phát hiện xác anh ta trên thềm nhà phía sau. Dermott gọi 911. Cảnh sát phản ứng nhanh đã bảo vệ hiện trường và phát hiện một bức thư dán trên cửa sau phía trên xác.”

“Vết đạn và nhiều vết đâm như mấy vụ kia ư?” Holdenfield hỏi.

“Vết đâm thì đã được xác nhận, còn đạn thì vẫn chưa xác định được.”

“Còn bức thư?”

Rodriguez đọc từ một bản fax trong tập hồ sơ của mình. “'Ta đến từ đâu? Ta đã đi đâu? Bao nhiêu người sẽ chết? Vì bọn bay không biết?’”

“Cũng mấy thứ quái đản ấy,” Kline nói. “Cô nghĩ sao, Becca?”

“Quá trình này có lẽ đang tăng tốc.”

“Quá trình này?”

“Mọi thứ cho đến giờ đều được dự mưu kỹ lưỡng – chọn nạn nhân, để lại một loạt các bức thư, tất cả các yếu tố đó. Nhưng vụ này thì khác, có tính chất phản ứng theo tình huống hơn là dự mưu.”

Rodriguez trông hoài nghi. “Cũng cùng một nghi thức đâm chém, cùng một loại thư cơ mà.”

“Nhưng đây là một nạn nhân không nằm trong kế hoạch. Có vẻ như ông Dermott của anh là mục tiêu ban đầu, nhưng viên cảnh sát này lại bị thế mạng trong một phút nhất thời thôi.”

“Nhưng bức thư…”

“Bức thư có lẽ được mang đến hiện trường để đặt lên xác của Dermott, nếu tất cả diễn ra theo kế hoạch, hoặc có lẽ nó được soạn tại chỗ cho hợp với tình huống đã thay đổi. Nó dài bốn dòng như vậy chắc có ý nghĩa gì đó. Chẳng phải những bức kia đều tám dòng cả sao?” Cô ta nhìn Gurney chờ xác nhận.

Anh gật đầu, một nửa tâm trí vẫn còn lặng đi trong những suy đoán tội lỗi, rồi buộc bản thân trở về với thực tại. “Tôi đồng ý với bác sĩ Holdenfield. Tôi đã không nghĩ đến ý nghĩa của sự khác biệt giữa bốn dòng và tám dòng, nhưng bây giờ lại thấy hợp lý. Có một điều tôi muốn nói thêm là, mặc dù vụ giết người này cũng được dự tính giống như cách thức ở những vụ kia, nhưng yếu tố ghét cảnh sát vẫn luôn là một phần trong não trạng của tên hung thủ này và nó ít nhiều cũng tích hợp vụ giết chóc này vào kiểu mẫu đó và có thể giải thích cho khía cạnh nghi thức mà đại úy đã đề cập đến.”

“Becca nói nhịp độ đang tăng tốc gì đấy,” Kline nói. “Chúng ta đã có 4 nạn nhân rồi. Như vậy có phải sắp tới sẽ có thêm nạn nhân không?”

“Thật ra là 5 nạn nhân cơ.”

Mọi cặp mắt đều dồn về Hardwick.

Tay đại úy đưa nắm đấm lên, vừa đọc rõ một tên vừa xòe ra một ngón: “Mellery này. Rudden này. Kartch này. Sĩ quan Sissek này. Vậy là bốn mà.”

“Cha Michael McGrath nữa là năm,” Hardwick nói.

“Ai vậy?” Câu hỏi bật ra trong sự đồng loạt đến inh tai của Kline (hào hứng), tay đại úy (bực dọc), và Blatt (bối rối).

“5 năm trước, một linh mục ở giáo khu Boston bị bãi nhiệm trước nhiều cáo buộc liên quan đến một số lễ sinh. Ông ta thỏa thuận gì đó với giám mục, để đổ lỗi hành vi không đứng đắn của mình cho chứng nghiện rượu, đi cai nghiện lâu dài rồi trốn mất tăm, hết chuyện.”

“Cái giáo khu Boston ấy bị khỉ gió gì ấy nhỉ?” Blatt khinh bỉ. “Cái nơi khốn nạn đó đầy rẫy mấy thằng chơi con nít.”

Hardwick tảng lờ y. “Hết chuyện cho tới thời điểm năm ngoái thôi. Năm ngoái người ta phát hiện McGrath chết trong căn hộ. Nhiều vết đâm ở cổ. Trên xác có dán một bức thư trả thù. Một bài thơ tám dòng viết bằng mực đỏ.”

Rodriguez đỏ mặt tía tai. “Anh biết chuyện này bao lâu rồi hả?”

Hardwick nhìn đồng hồ trên tay. “Nửa tiếng rồi.”

“Hả?”

“Hôm qua thanh tra đặc biệt Gurney yêu cầu tất cả các sở cảnh sát khu vực ở các bang Đông Bắc cung cấp thông tin về những vụ án có phương thức gây án tương tự vụ Mellery. Sáng nay chúng tôi được tin về một vụ – Cha McGrath quá cố.”

“Có ai bị bắt hay truy tố vì cái chết của ông ấy không?” Kline hỏi.

“Không hề. Cái gã lo án mạng ở Boston mà tôi nói chuyện không chịu ra mặt nói trực tiếp, nhưng tôi có cảm tưởng họ không ưu tiên vụ án đó lắm.”

“Nói vậy nghĩa là sao hả?” Tay đại úy nghe có vẻ dằn dỗi.

Hardwick nhún vai. “Tay linh mục ấu dâm này bị đâm đến chết, hung thủ để lại một bức thư đề cập mơ hồ đến những việc làm sai trái ở quá khứ. Xem ra có ai đó quyết định trả đũa. Chắc cảnh sát thấy đây là vụ khỉ gió gì thôi, thiếu gì mấy vụ vớ vẩn khác cần phải lo, thiếu gì hung phạm để bắt có động cơ ít cao thượng hơn là giết người để thực thi công lý tức thì. Nên chắc họ chẳng chú ý nhiều đến vụ này.”

Rodriguez trông như mắc chứng khó tiêu. “Nhưng anh ta có chính miệng nói đâu nào.”

“Tất nhiên anh ta không nói rồi.”

“Vậy là,” Kline nói bằng giọng tổng kết của mình, “cảnh sát Boston làm gì hay không làm gì cũng được, thực tế là Cha Michael McGrath là nạn nhân thứ năm.”

“Si, número cinco,”[19] Hardwick ngờ nghệch nói. “Nhưng thật ra là número uno[20] mới đúng – vì tay linh mục này bị xắt lát trước 4 người kia một năm mà.”

“Vậy nạn nhân Mellery mà ta nghĩ là người đầu tiên thật ra lại là người thứ hai,” Kline nói.

“Tôi không nghĩ vậy chút nào,” Holdenfield nói. Khi đã có sự chú ý của mọi người, cô ta nói tiếp. “Không có chứng cứ nào cho thấy tay linh mục này là người đầu tiên cả – ông ta cũng có thể là người thứ mười không chừng – nhưng cho dù ông ta đúng là người đầu tiên đi nữa, thì vẫn còn một vấn đề nữa. Giết một người cách đây một năm, rồi giết tiếp 4 người trong chưa đầy hai tuần, không phải là một kiểu mẫu gây án thường thấy. Tôi nghĩ còn có nhiều nạn nhân khác nữa giữa hai thời điểm đó.”

“Trừ phi,” Gurney nhẹ nhàng xen vào, “ngoài yếu tố bệnh thần kinh của hung thủ ra, còn một yếu tố khác nữa quyết định thời điểm ra tay và nạn nhân ra tay.”

“Anh vừa nghĩ ra điều gì thế?”

“Tôi tin ngoài yếu tố nghiện rượu ra thì các nạn nhân còn có một điểm chung nào đó mà ta chưa tìm ra.”

Holdenfield đung đưa đầu suy đoán, rồi nhăn mặt như muốn nói cô ta không đồng ý với giả thuyết của Gurney nhưng cũng không tìm được cách nào để bác bỏ nó.

“Vậy là chúng ta có thể hoặc không thể tìm ra manh mối dẫn đến vài cái xác cũ,” Kline nói, trông không tự tin về ý kiến của mình.

“Chưa kể một vài cái xác mới nữa,” Holdenfield nói.

“Nói vậy nghĩa là sao hả?” Câu này có vẻ đang trở thành câu hỏi ưa thích của Rodriguez.

Holdenfield không biểu hiện phản ứng nào đối với giọng điệu cau có đó. “Nhịp độ của những vụ giết chóc này, như tôi định nói lúc nãy, cho thấy thời điểm tàn cuộc đã đến.”

“Tàn cuộc?” Kline ngâm nga chữ đó như thể rất thích cái âm thanh của nó.

Holdenfield nói tiếp, “Trong tình huống mới đây, hắn buộc phải ra tay ngoài kế hoạch. Quy trình gây án có lẽ đang vuột khỏi tầm kiểm soát của hắn. Tôi có cảm giác hắn sẽ không kiểm soát được lâu nữa đâu.”

“Kiểm soát cái gì cơ?” Blatt đặt câu hỏi, như phần lớn các câu hỏi của y, bằng một thái độ thù địch bẩm sinh.

Holdenfield nhìn y một chốc mà không thể hiện nét mặt, rồi nhìn Kline. “Tôi cần phải cung cấp bao nhiêu kiến thức ở đây đây?”

“Cô nên nói sơ qua vài điểm chính là được rồi. Tôi có nói sai thì sửa nhé,” y vừa nói vừa liếc quanh bàn và rõ ràng chẳng mong có người sửa mình, “nhưng ngoại trừ Dave ra, chắc không ai trong số chúng tôi có nhiều kinh nghiệm thực tiễn về giết người hàng loạt đâu.”

Rodriguez ra chiều muốn phản đối điều gì nhưng lại không nói.

Holdenfield mỉm cười vẻ không vui. “Mọi người có biết sơ về học thuyết phân loại động cơ giết người hàng loạt của Holmes chưa?”

Những tiếng xì xào và những cái gật đầu hỗn độn quanh bàn nhìn chung đều khẳng định có. Riêng Blatt là có câu hỏi. “Sherlock Holmes ư?”

Gurney không rõ đây là một trò đùa ngu ngốc hay thật sự là ngu ngốc.

“Ronald M. Holmes – đương đại hơn một chút, và là một nhân vật có thật,” Holdenfield nói bằng một giọng hiền từ khoa trương mà Gurney không hoàn toàn nhận ra. Liệu có phải cô ta đang nhái giọng ông Rogers[21] nói chuyện với một đứa trẻ 5 tuổi?

“Holmes phân loại hung thủ giết người hàng loạt theo động cơ – giết người vì bị ảo thanh sai khiến; giết người vì tự cho mình sứ mạng loại bỏ ra khỏi thế giới một nhóm người không thể chấp nhận được – dân da đen, dân đồng tính, vân vân; giết người vì muốn toàn quyền thống trị; giết người vì muốn tìm cảm giác mạnh; và giết người vì động cơ tình dục. Nhưng tất cả bọn họ đều có chung một điểm…”

“Đều là mấy thằng khùng chết mẹ,” Blatt nói, cười khẩy.

“Hay lắm, ngài thanh tra,” Holdenfield nói bằng giọng ngọt ngào chết người, “nhưng điểm chung thật sự giữa họ chính là đều bị căng thẳng nội tâm khủng khiếp. Việc giết ai đó cho họ cảm giác khuây khỏa tạm bợ khỏi sự căng thẳng đó.”

“Giống như được sex phải không?”

“Thanh tra Blatt,” Kline giận dữ nói, “có lẽ anh nên chờ cho Rebecca nhận xét xong hãy hỏi nhé.”

“Câu hỏi của anh ấy thật ra cũng khá thích hợp. Cảm giác cực khoái đúng là có thể trút bỏ được căng thẳng về mặt tình dục. Tuy nhiên, ở người bình thường nó không tạo ra một đường xoắn ốc rối loạn chức năng đi xuống dẫn đến đòi hỏi cực khoái càng lúc càng thường xuyên với cái giá càng lúc càng cao. Về mặt đó, tôi nghĩ giết người hàng loạt có điểm chung với nghiện ma túy hơn.”

“Nghiện mưu sát,” Kline nói chầm chậm, đầy vẻ suy đoán, như thể đang thử tìm một cái tít cho một bản thông cáo báo chí.

“Cụm từ kịch tính đấy,” Holdenfield nói, “và ít nhiều cũng có sự thật trong đó. Tên giết người hàng loạt chìm đắm trong thế giới tưởng tượng của chính mình hơn hầu hết mọi người. Bề ngoài hắn có vẻ giống như những người khác trong xã hội. Nhưng hắn không có được sự thỏa mãn từ cuộc sống cộng đồng của mình, và hắn không quan tâm gì đến cuộc sống thật của người khác. Hắn sống chỉ để phục vụ cho trí tưởng tượng của mình – tưởng tượng mình có thể kiểm soát, thống trị, trừng phạt. Đối với hắn, những hình ảnh tưởng tượng này cấu thành một siêu hiện thực – một thế giới trong đó hắn cảm thấy mình quan trọng, toàn năng, tồn tại. Đến đây có ai có câu hỏi gì không?”

“Tôi có,” Kline nói. “Chúng ta đang tìm kiếm loại giết người hàng loạt nào trong số đó, cô có ý kiến gì không?”

“Có chứ, nhưng tôi muốn nghe xem thám tử Gurney có điều gì cần nói về vấn đề đó không đã.”

Gurney ngờ rằng nét mặt sốt sắng, thân mật với đồng nghiệp cũng giả tạo như nụ cười của cô ta.

“Giết người để thực hiện sứ mạng,” anh nói.

“Loại bỏ bợm rượu ra khỏi thế giới ư?” Kline nghe như nửa tò mò, nửa hoài nghi.

“Tôi nghĩ ‘bợm rượu’ là một phần trong định nghĩa ‘nạn nhân mục tiêu’, nhưng chắc không chỉ có thế – nếu muốn giải thích cách lựa chọn nạn nhân cụ thể của hắn.”

Kline đáp lại bằng một tiếng ậm ừ vô thưởng vô phạt. “Nếu phải nói cụ thể hơn ‘giết người để thực hiện sứ mạng’, thì anh sẽ mô tả hung phạm của chúng ta như thế nào?”

Gurney quyết định ăn miếng trả miếng. “Tôi có một vài ý kiến, nhưng tôi muốn nghe xem bác sĩ Holdenfield có điều gì cần nói về vấn đề đó không đã.”

Cô ta nhún vai, rồi nói nhanh nhảu và tỉnh rụi. “Nam da trắng ba mươi tuổi, chỉ số thông minh cao, không bạn bè, không có quan hệ tinh ái bình thường. Lịch sự nhưng xa cách. Gần như chắc chắn tuổi thơ có vấn đề, có một chấn thương quan trọng ảnh hưởng đến cách lựa chọn nạn nhân của hắn. Vì nạn nhân của hắn là đàn ông trung niên, nên có thể chấn thương đó có liên quan đến người cha và một mối quan hệ mang tính chất phức cảm Oedipus với người mẹ.”

Blatt xen vào. “Lẽ nào cô muốn nói cái gã này hắn… Ý tôi là, có phải cô muốn nói hắn… với mẹ hắn?”

“Không nhất thiết. Trí tưởng tượng là toàn bộ vấn đề. Hắn sống trong tưởng tượng và sống vì tưởng tượng.”

Giọng Rodriguez nghe phều phào vì mất kiên nhẫn. “Tôi thực sự có vấn đề với cái từ đó đấy, bác sĩ ạ. Năm cái xác mà tưởng tượng nỗi gì!”

“Anh nói đúng, đại úy. Đối với anh và tôi, năm cái xác không phải là tưởng tượng gì cả. Họ là người thật, những người có cuộc sống riêng biệt, đáng trân trọng, đáng được công lý bảo vệ, nhưng đối với một tên giết người hàng loạt thì không phải vậy. Đối với hắn, họ chẳng qua chỉ là diễn viên trong vở kịch của hắn chứ không phải là con người theo cái nghĩa mà anh và tôi hiểu. Họ chỉ là những đạo cụ sân khấu hai chiều mà hắn tưởng tượng ra – là những mảnh ghép tạo nên trí tưởng tượng của hắn, như các yếu tố nghi thức tìm thấy ở hiện trường vụ án vậy.”

Rodriguez lắc đầu. “Những gì cô nói có thể có lý phần nào trong trường hợp hung thủ là tên điên giết người hàng loạt thôi, nhưng vậy thì đã sao? Tôi muốn nói, tôi có nhiều vấn đề khác nữa với toàn bộ cách tiếp cận này. Ý tôi nói, ai đã xác định đây là một vụ giết người hàng loạt nào? Cô chạy vù vù mà không có chút…” Y ngập ngừng, dường như bỗng ý thức được giọng nói sa sả của mình và nhận ra bản chất thiếu khôn ngoan của việc công kích một trong những cố vấn ưa thích nhất của Sheridan Kline. Y nói tiếp bằng một giọng mềm mỏng hơn. “Ý tôi nói, án mạng xảy ra liên tiếp nhau không phải lúc nào cũng là sản phẩm của một tay giết người hàng loạt. Còn nhiều cách nhìn khác cơ mà.”

Holdenfield trông có vẻ rối trí một cách thật lòng. “Anh có giả thuyết thay thế chăng?”

Rodriguez thở dài. “Gurney luôn miệng nói có một nhân tố gì đó giải thích cách lựa chọn nạn nhân ngoài rượu chè ra. Một nhân tố hiển nhiên có thể là họ cùng tham gia một hành động quá khứ nào đó, vô tình hay cố ý, làm hung thủ tổn thương, và vụ mà chúng ta đang xem xét chỉ là một vụ trả thù nhóm người đã gây ra tổn thương đó thôi. Có thể chỉ đơn giản vậy.”

“Tôi không nói một kịch bản như vậy là không thể xảy ra,” Holdenfield nói, “nhưng nếu chỉ đơn giản là trả thù thì cần gì có mấy thứ bệnh hoạn như tính toán, rồi thơ thẩn, chi tiết tỉ mỉ, rồi cả yếu tố nghi thức như thế.”

“Nói đến bệnh hoạn mới nhớ,” Jack Hardwick nói giọng khàn như một người đang hào hứng với cơn hấp hối vì ung thư họng, “có lẽ đây là lúc thích hợp nhất để cập nhật cho mọi người biết về chứng cứ tào lao mới nhất.”

Rodriguez quắc mắt nhìn hắn. “Một điều ngạc nhiên nho nhỏ nữa sao?”

Hardwick nói tiếp mà không phản ứng lại, “Theo yêu cầu của Gurney, một đội kỹ thuật đã được cử đến chỗ nhà trọ B&B, nơi anh ta nghĩ hung thủ có thể đã ở đêm trước khi giết Mellery.”

“Ai phê duyệt yêu cầu đó hả?”

“Tôi, thưa sếp,” Hardwick nói. Giọng hắn nghe đầy vẻ tự hào khi vi phạm nguyên tắc.

“Tôi chẳng thấy hồ sơ giấy tờ nào là sao?”

“Gurney nghĩ không có thời gian,” Hardwick nói dối. Rồi hắn đưa tay lên ngực kèm vẻ mặt ‘tôi nghĩ tôi bị đau tim’ đau khổ đến kỳ lạ và bật ra một tiếng ợ chát chúa. Blatt, giật mình tỉnh giấc từ cơn mộng riêng tư, nảy người ra khỏi bàn mạnh đến nỗi ghế gần như đổ nhào ra sau.

Rodriguez cáu kỉnh trước hành vi gây gián đoạn này. Y chưa kịp tập trung lại vào vấn đề giấy tờ thì Gurney đã nhận bóng từ tay Hardwick và mở một pha bóng phân trần lý do anh muốn đội chứng cứ đến khu nhà trọ The Laurels.

“Lá thư đầu hung thủ gửi cho Mellery sử dụng tên X. Arybdis. Trong tiếng Hy Lạp, mẫu tự X tương đương với mẫu tự ch, và Charybdis là tên một xoáy nước giết người trong thần thoại Hy Lạp, kết hợp với một hiểm họa chết người khác có tên Scylla. Vào đêm trước buổi sáng Mellery bị giết, một người đàn ông và một phụ nữ lớn tuổi hơn dùng cái tên Scylla thuê phòng tại nhà trọ B&B đó. Nếu đây là trùng hợp thì rất là lạ.”

“Một người đàn ông và một phụ nữ lớn tuổi hơn ư?” Holdenfield trông rất hứng thú.

“Có lẽ là tên hung thủ và mẹ hắn, mặc dù trong danh sách thuê phòng lại ký tên rất lạ là ‘ông bà’. Có lẽ đó là chứng cứ chứng minh khía cạnh Oedipus trong lý lịch mà cô đưa ra chăng?”

Holdenfield mỉm cười. “Gần như quá hoàn hảo.”

Một lần nữa sự chán nản của tay đại úy dường như sắp nổ tung, nhưng Hardwick lên tiếng trước, tiếp lời Gurney.

“Nên chúng tôi phái đội chứng cứ đến căn nhà quái đản nhỏ xíu ngoài đó. Nhà gì mà trang hoàng như để tưởng nhớ đến bộ phim Phù thủy xứ Oz vậy. Họ kiểm tra căn nhà – bên trong, bên ngoài, lật ngược cả nhà lên luôn – rồi họ tìm được gì? Không thứ gì sất. Một thứ khốn kiếp cũng không. Không một sợi tóc, không một vết nhòe, không một tí xíu chứng cứ nào cho thấy có người đã vào phòng. Cô đội trưởng chẳng tin nổi, gọi cho tôi nói chẳng có chút xíu vân tay nào ở những nơi luôn có vân tay – mặt bàn, mặt bếp, nắm đấm cửa, nút kéo ngăn tủ, khung kính trượt cửa sổ, điện thoại, tay cầm vòi hoa sen, vòi nước dưới chậu rửa, điều khiển vô tuyến từ xa, công tắc đèn, một chục nơi khác đáng lẽ luôn có vân tay. Không có gì sất. Một cũng không. Một phần cũng không. Nên tôi bảo cô ta chỗ nào cũng rắc bột lấy vân lên hết – chỗ nào cũng rắc hết – tường, sàn, cả cái trần nhà chó chết nữa. Cuộc nói chuyện trở nên gay gắt hơn một chút, nhưng tôi nói thuyết phục mà. Rồi cứ nửa tiếng cô ta lại gọi cho tôi một lần, nói cho tôi biết vẫn không tìm được gì cả, nói tôi đang phí bao nhiêu thời gian quý giá của cô ta. Nhưng lần thứ ba gọi thì giọng cô ta có cái gì khác lạ – giọng hơi nhỏ một chút. Cô ta cho tôi biết đã tìm được một thứ.”

Tuy Rodriguez thận trọng không để lộ ra, nhưng Gurney vẫn cảm nhận được sự thất vọng của y. Hardwick nói tiếp sau một khoảng lặng đầy kịch tính. “Họ phát hiện một chữ ghi ngoài cửa phòng tắm. Một từ duy nhất. Redrum.”

“Hả?” Rodriguez quát, không buồn che đậy sự hoài nghi của mình.

“Redrum.” Hardwick lặp lại cái từ đó chầm chậm, với vẻ mặt đắc ý, như thể nó là mấu chốt dẫn đến điều gì.

“Redrum? Như trong phim ư?” Blatt hỏi.

“Chờ chút, chờ chút,” Rodriguez nói, mắt chớp chớp chắn nản. “Anh muốn nói tôi biết nhóm chứng cứ của anh mất… bao nhiêu hả… ba bốn giờ gì đó để tìm một chữ viết sờ sờ trên cửa hả?”

“Có phải sờ sờ đâu,” Hardwick nói. “Hắn viết chữ đó cũng cách thức với thông điệp ẩn đã để lại cho chúng ta trong thư gửi Mark Mellery mà. LŨ CỚM XẤU XA ĐẦN ĐỘN đấy. Nhớ không nào?”

Biểu hiện duy nhất cho thấy tay đại úy đã nhớ ra là một cái nhìn sững sờ câm bặt.

“Tôi thấy thông điệp đó trong hồ sơ rồi,” Holdenfield nói.

“Tôi nhớ mang máng là hắn đã chà chất nhờn trên da lên phía sau thư gì đó. Thật sự có thể làm vậy sao?”

“Hoàn toàn chẳng có vấn đề gì,” Hardwick nói. “Vân tay kỳ thực cũng là chất nhờn trên da cả mà. Chẳng qua hắn chỉ tận dụng cái tài nguyên ấy cho mục đích riêng thôi. Chắc hắn có chà chà ngón tay lên trán để ngón tay nhờn hơn một chút. Nhưng rõ ràng lần đó có tác dụng nên hắn chơi trò bổn cũ soạn lại ở chỗ The Laurels.”

“Nhưng ta đang nói về cái từ redrum trong phim mà phải không?” Blatt lặp lại.

“Phim ư? Phim nào? Sao lại phim phiếc gì ở đây?”

Rodriguez lại chớp chớp mắt.

“The Shining,” Holdenfield càng nói càng hứng thú. “Một cảnh phim nổi tiếng. Thằng bé nọ viết từ redrum trên một cánh cửa trong phòng ngủ mẹ nó.”

“Redrum là murder[22] viết ngược,” Blatt tuyên bố.

“Chúa ơi, mọi chuyện đều hoàn hảo!” Holdenfield nói.

“Tôi cho rằng mọi người hào hứng như vậy nghĩa là chúng ta sẽ bắt giữ hung thủ trong vòng 24 tiếng tới đúng không?”

Rodriguez dường như đang cố gắng mỉa mai được bao nhiêu thì mỉa mai. Gurney tảng lờ y và nói với Holdenfield. “Hay thật, hắn muốn nhắc chúng ta nhớ đến redrum trong phim The Shining.”

Mắt cô ta ánh lên. “Một từ hoàn hảo từ một bộ phim hoàn hảo.”

Kline, người bấy lâu vẫn quan sát mọi người tương tác với nhau như người hâm mộ theo dõi một trận bóng quần trong câu lạc bộ của mình, rốt cuộc cũng lên tiếng. “Được rồi, các đồng chí, đến lúc cho tôi biết bí mật rồi. Cái quái gì mà hoàn hảo vậy?”

Holdenfield nhìn Gurney. “Anh nói cho anh ta nghe về cái từ đó. Tôi nói về bộ phim.”

“Từ đó là từ viết ngược. Chỉ đơn giản vậy thôi. Đây là chủ đề bấy lâu ngay từ đầu vụ án. Cũng như mấy dấu chân đi ngược trong tuyết vậy. Và dĩ nhiên, đó là từ mưu sát viết ngược. Hắn muốn nói cho ta biết ta xử lý vụ án này ngược ngạo từ đầu đến cuối. LŨ CỚM XẤU XA ĐẦN ĐỘN.”

Kline cố định ánh mắt thẩm vấn viên của mình vào Holdenfield. “Cô đồng ý không?”

“Về cơ bản thì có.”

“Còn bộ phim thì sao?”

“À, vâng, bộ phim. Tôi sẽ cố gắng ngắn gọn như thanh tra Gurney.” Cô ta nghĩ ngợi trong chốc lát, đoạn lên tiếng như vừa nói vừa lựa chọn từng từ kỹ lưỡng. “Bộ phim nói về một gia đình có hai mẹ con bị người cha điên khủng bố. Ông bố này lại là bợm rượu có lịch sử đầy rẫy những đợt chè chén cuồng bạo.”

Rodriguez lắc đầu. “Cô muốn nói hung thủ của chúng ta là một ông bố nghiện rượu, cuồng bạo, điên khùng nào đó ư?”

“Ồ, không, không. Không phải ông bố. Đứa con cơ.”

“Đứa con ư?!” Nét mặt của Rodriguez đã biến dạng thành những thái cực mới của sự hoài nghi.

Khi nói tiếp, Holdenfield bỗng nói bằng giọng gần giống giọng Ông Rogers của mình. “Tôi tin hung thủ muốn nói với ta rằng hắn có người bố như ông bố trong phim The Shining. Tôi tin có lẽ hắn đang bộc bạch bản thân cho ta biết.”

“Bộc bạch bản thân?” Giọng của Rodriguez gần như lắp bắp.

“Ai cũng muốn tự giới thiệu bản thân theo cách của mình mà, đại úy. Tôi chắc chắn anh luôn gặp trường hợp đó trong công việc. Tôi thì nhất định gặp rồi. Chúng ta luôn có cơ sở cho hành vi của mình, cho dù cơ sở đó có quái lạ đến đâu đi nữa. Ai cũng muốn được nhìn nhận mình là người làm gì cũng có lý do chính đáng, kể cả những người loạn trí – có lẽ phải nói ‘nhất là những người loạn trí’.”

Nhận xét này làm cả phòng im bặt. Sự yên lắng này cuối cùng bị Blatt phá vỡ.

“Tôi có câu hỏi. Cô là bác sĩ thần kinh học, đúng không?”

“Cố vấn tâm lý học pháp y.” Ông Rogers đã biến trở lại thành Sigoumey Weaver.

“Ừ, gì cũng được. Cô biết trí óc hoạt động như thế nào. Nên câu hỏi là thế này. Gã này biết người ta nghĩ đến con số nào trước khi họ nghĩ đến số đó. Sao hắn lại làm được vậy?”

“Hắn không làm được.”

“Chắc cú là hắn làm được mà.”

“Hắn có vẻ như làm được thôi. Anh đang nói đến các tình tiết mà tôi đã đọc trong hồ sơ vụ án có liên quan đến hai con số 658 và 19 đúng chưa? Thực sự thì hắn không làm được như anh nói đâu. Đơn giản là không thể nào biết trước ngươi khác sẽ nghĩ ra con số gì trong những tình huống không được kiểm soát. Thành ra hắn không làm được đâu.”

“Nhưng sự thật là hắn làm được mà,” Blatt khăng khăng.

“Có ít nhất một cách lý giải,” Gurney nói. Rồi anh phác họa kịch bản mà anh đã nghĩ ra khi Madeleine gọi di động cho anh từ hộp thư nhà – cụ thể là, tên hung thủ có thể đã dùng một máy in xách tay trong xe để tạo ra bức thư có con số 19 trên đó sau khi Mark Mellery đề cập đến nó trên điện thoại.

Holdenfield trông bị ấn tượng.

Blatt trông ỉu xìu – một dấu hiệu rõ rệt, Gurney nghĩ, cho thấy ẩn náu đâu đó trong bộ não thô sơ và thân hình được tập luyện quá nhiều này là một con người lãng mạn ưa thích những thứ quái dị và không tưởng. Nhưng vẻ ỉu xìu này chỉ kéo dài trong chốc lát.

“Còn con số 658 thì sao hả?” Blatt hỏi, ánh mắt hiếu chiến của y liếc qua liếc lại giữa Gurney và Holdenfield. “Lúc đó không phải nói chuyện điện thoại, chỉ là thư thôi. Vậy thì tại sao hắn lại biết Mellery sẽ nghĩ đến con số đó chứ?”

“Tôi không có câu trả lời cho câu hỏi đó,” Gurney nói, “nhưng tôi có một câu chuyện lạ nho nhỏ này có thể giúp ai đó nghĩ ra câu trả lời.”

Rodriguez thể hiện một chút nôn nóng, nhưng Kline ưỡn người về phía trước, và cách thể hiện sự hứng thú này dường như kìm hãm được tay đại úy.

“Hôm nọ tôi mơ về bố tôi,” Gurney bắt đầu nói. Anh ngập ngừng, một cách vô thức. Anh thấy giọng mình khác hẳn. Anh nghe trong đó vọng về một nỗi buồn sâu sắc mà giấc mơ ấy đã tạo ra trong anh. Anh thấy Holdenfield nhìn anh tò mò mà không ác ý. Anh ép bản thân nói tiếp. “Tỉnh dậy, tôi nhớ đến một trò ảo thuật bài mà bố thường biểu diễn khi nhà có khách đến chơi dịp năm mới và sau khi ông ấy đã làm vài ly. Có men rượu trong người là ông ấy lại cao hứng như vậy. Ông xòe ra một bộ bài rồi đi quanh phòng yêu cầu ba bốn người gì đó mỗi người bốc một lá. Rồi ông tập trung vào một người duy nhất trong số đó, bảo họ nhìn kỹ lá bài mình bốc rồi bỏ lại vào bộ bài. Rồi ông đưa bộ bài cho người đó, bảo họ xào bài. Sau đó ông giả vờ úm ba la ra vẻ ‘đọc được ý nghĩ’, nhiều khi làm vậy đến cả mười phút, và cuối cùng, một cách đầy kịch tính, ông tiết lộ tên lá bài đó – tất nhiên đây là lá mà ngay thời điểm người ta bốc ông đã biết rồi.”

“Sao biết được chứ?” Blatt bối rối hỏi.

“Lúc chuẩn bị bộ bài lúc đầu, ngay trước khi xòe bài ra, ông ráng nhớ ít nhất một lá bài nào đó rồi điều khiển vị trí lá đó trong đám bài xòe.”

“Giả sử không ai bốc trúng lá đó thì sao?” Holdenfield hứng thú hỏi.

“Nếu không ai bốc trúng, ông sẽ tìm cớ dừng trò ảo thuật lại bằng cách đánh trống lảng – chẳng hạn nói là sực nhớ phải đi coi ấm nước để pha trà hay đại loại vậy – để không ai nhận ra trò ảo thuật có vấn đề. Nhưng ông ấy hầu như chẳng cần phải làm vậy. Bởi vì với cái cách xòe bài ra như vậy, thì gần như chắc chắn nếu không phải người thứ nhất, người thứ hai, thì người thứ ba cũng sẽ bốc trúng lá bài mà ông ấy muốn họ bốc. Và nếu họ không bốc trúng thì ông ấy chỉ cần chơi trò vào bếp làm chuyện thường ngày, xong trở ra làm trò ảo thuật lại từ đầu là xong. Và dĩ nhiên ông ấy luôn có cách nào đó hoàn toàn hợp lý để loại ra những người bốc sai, để không ai biết được đang xảy ra chuyện gì.”

Rodriguez ngáp. “Chuyện này thì có liên quan gì đến con số 658?”

“Tôi không rõ,” Gurney nói, “nhưng cứ nghĩ đến chuyện người ta tưởng mình bốc bài ngẫu nhiên, trong khi kỳ thực có người điều khiển sự ngẫu nhiên đó…”

Trung sĩ Wigg, người bấy lâu vẫn lắng nghe với hứng thú ngày càng nhiều, xen vào. “Câu chuyện ảo thuật bài của anh làm tôi nhớ đến trò lừa ‘thám tử tư gửi thư trực tiếp’ cuối những năm 90.”

Không hiểu có phải vì giọng nói khác lạ của cô ta có cao độ lọt vào khoảng âm nửa nam nửa nữ hay không, hay vì chuyện cô ta mở miệng nói là chuyện lạ, mà cô ta lại thu hút được sự chú ý của mọi người ngay lập tức.

“Người ta nhận được một lá thư, được cho là từ một công ty thám tử tư, xin lỗi đã vi phạm quyền riêng tư của người nhận. Công ty này ‘thú nhận’ rằng trong quá trình đảm nhận một nhiệm vụ giám sát bị thất bại, họ đã vô tình theo dõi người nhận đó trong nhiều tuần và chụp ảnh họ trong nhiều tình huống khác nhau. Họ nói, theo luật về quyền riêng tư họ phải cung cấp cho người nhận tất cả số ảnh này. Lúc này mới phát sinh ra câu hỏi bất ngờ: vì một vài ảnh trong số đó có thể có bản chất nhạy cảm, nên người nhận có muốn lấy ảnh qua hộp thư bưu điện thay vì nhận trực tiếp ở nhà không? Muốn vậy, người nhận phải gửi cho công ty kia 50 đô làm chi phí bảo toàn hồ sơ nữa.”

“Ai ngu mà đi tin mấy thứ đó đáng bị mất 50 đô lắm,”

Rodriguez khinh bỉ.

“Ồ, vài người mất còn nhiều tiền hơn nữa kìa,” Wigg điềm đạm nói. “Vấn đề không phải là lấy được số tiền 50 đô đó. Làm vậy là chỉ để thăm dò thôi. Kẻ lừa đảo gửi đi hơn một triệu lá thư như thế, và mục đích duy nhất khi yêu cầu người khác gửi 50 đô là muốn lọc ra một danh sách những ai cảm thấy tội lỗi về hành vi của mình nên không muốn mấy tấm ảnh chụp những hoạt động của họ rơi vào tay vợ hoặc chồng mình. Những người này sau đó bị buộc phải đáp ứng hàng loạt các yêu cầu gửi tiền còn cao hơn gấp bội nếu muốn nhận lại những bức ảnh nhạy cảm đó. Một số người đã trả đến 15.000 đô nữa cơ.”

“Để lấy những bức ảnh không bao giờ tồn tại!” Kline thốt lên, căm phẫn lẫn ngưỡng mộ trí thông minh của kẻ lừa đảo.

“Sự ngu muội của con người chẳng bao giờ thôi làm ta ngạc nhiên…” Rodriguez lên tiếng, nhưng Gurney ngắt lời.

“Chúa ạ! Đúng rồi! Cái yêu cầu 289 đô ấy chính là như vậy. Cùng một phương thức cả. Chỉ là thăm dò thôi!”

Rodriguez trông bối rối. “Thăm dò gì cơ?”

Gurney nhắm mắt lại để cố mường tượng ra lá thư đòi tiền mà Mellery nhận được.

Mày chau, Kline quay sang Wigg. “Tên lừa tiền ấy – cô nói hắn gửi đi một triệu lá thư ư?”

“Đó là con số mà tôi nhớ từ báo chí.”

“Vậy thì rõ ràng vụ này là một vụ khác hẳn rồi. Vụ đó chẳng qua là chiến dịch gian lận trực tiếp bằng thư – thả cái lưới lớn để bắt vài con cá tội lỗi thôi. Ở đây chúng ta lại không bàn đến chuyện đó. Chúng ta đang bàn về những bức thư viết tay gửi cho một ít người – những người mà con số 658 hẳn phải có một ý nghĩa riêng tư nào đó đối với họ.”

Gurney chầm chậm mở mắt ra rồi nhìn Kline chằm chằm. “Không phải vậy đâu. Thoạt đầu tôi cũng cho là như vậy, vì ta còn nghĩ ra được lý do nào khác nữa chứ? Nên tôi luôn miệng hỏi Mark Mellery câu hỏi đó – con số đó có ý nghĩa gì đối với anh ta, làm anh ta nhớ đến thứ gì, trước đây anh ta có bao giờ nghĩ đến nó không, có từng thấy nó viết ở đâu chưa, có phải nó là giá tiền của một thứ gì không, có phải địa chỉ, mật mã két sắt không? Nhưng anh ta cứ khăng khăng là con số đó chẳng có ý nghĩa gì đối với mình cả, cũng chẳng nhớ được trước đây có nghĩ ra số đó chưa, tự nhiên nó bừng lên trong đầu anh ta vậy thôi – một sự kiện hoàn toàn ngẫu nhiên. Và tôi tin anh ta nói thật. Cho nên nhất định phải có một cách lý giải khác.”

“Vậy nghĩa là anh trở lại điểm xuất phát rồi còn gì,” Rodriguez nói, mắt xoay tròn một vẻ mệt mỏi khoa trương.

“Có lẽ không đâu. Có lẽ trò lừa lọc mà trung sĩ Wigg kể gần với sự thật hơn chúng ta tưởng đấy.”

“Anh muốn nói tên hung thủ của chúng ta gửi đi một triệu lá thư – một triệu lá thư viết tay ư? Thật buồn cười – chưa kể là không tưởng.”

“Tôi đồng ý là một triệu lá là chuyện không tưởng, trừ khi hắn được giúp đỡ rất nhiều, mà khả năng này rất khó xảy ra. Nhưng nếu không phải một triệu thì con số nào mới đúng đây?”

“Ý anh là sao?”

“Giả sử tên hung thủ của chúng ta có kế hoạch gửi thư cho nhiều người – thư viết tay, để ai nhận được cũng có cảm giác là lá thư chỉ gửi riêng cho một mình họ thôi. Mọi người nghĩ xem trong thời gian một năm chẳng hạn, hắn sẽ viết được bao nhiêu lá thư?”

Tay đại úy giơ tay lên như muốn nói bóng gió rằng câu hỏi này không những không thể trả lời mà còn rất phù phiếm. Kline và Hardwick trông nghiêm túc hơn – như thể họ đang thử tính ra con số. Stimmel, như mọi khi, vẫn biểu lộ sự bí hiểm của loài lưỡng cư. Rebecca Holdenfield đang quan sát Gurney với sự thích thú càng lúc càng nhiều. Blatt trông như đang loay hoay tìm ra nơi phát sinh một mùi thối nào đó.

Wigg là người duy nhất lên tiếng. “5.000 thư,” cô nói. “10.000, nếu hắn cao hứng. Có thể đến 15.000 cơ, nhưng như vậy rất khó.”

Kline nhíu mắt nhìn cô ta bằng vẻ hoài nghi của một luật sư. “Này trung sĩ, chính xác thì mấy con số này dựa trên cái gì nào?”

“Trước hết là dựa trên một số giả định hợp lý.”

Rodriguez lắc đầu – như muốn ám chỉ chẳng thứ gì trên đời này lại dễ sai lầm hơn giả định hợp lý của người khác. Nếu Wigg có để ý đến thái độ của Rodriguez thì cũng chưa đến mức để bản thân bị lung lạc.

“Trước tiên, ta giả định rằng có thể áp dụng kiểu mẫu của trò lừa đảo thám tử tư ấy. Nếu vậy, suy ra lần liên lạc đầu tiên – liên lạc để xin tiền ấy – nhắm đến nhiều người nhất và những lần liên lạc tiếp theo chỉ nhằm vào những ai hồi âm thôi. Trong vụ án này, ta biết lần liên lạc đầu tiên bao gồm hai bức thư tám dòng – tổng cộng 16 dòng khá ngắn, cộng 3 dòng địa chỉ ngoài bì thư. Trừ địa chỉ ra thì tất cả các lá thư đều giống nhau nên viết lặp đi lặp lại rất nhanh. Tôi ước tính mỗi lá viết xong mất khoảng 4 phút. Tức là viết mười lăm lá mất một tiếng. Nếu mỗi ngày hắn chỉ bỏ ra một tiếng để viết thư thôi, thì sau một năm hắn sẽ có hơn 5.000 lá. Hai tiếng một ngày thì gần được 11.000 lá. Về lý thuyết, hắn viết thêm nữa cũng được, nhưng một kẻ bị ám ảnh nặng nhất đi nữa cũng chỉ cần mẫn có giới hạn thôi.”

“Thật ra thì,” Gurney nói bằng một sự thích thú mới chớm của một nhà khoa học rốt cuộc đã thấy được kiểu mẫu trong một biển dữ liệu, “11.000 là quá đủ rồi.”

“Quá đủ để làm gì?” Kline hỏi.

“Trước hết là quá đủ để thực hiện thành công cái mánh khóe 658 ấy,” Gurney nói. “Và cái mánh khóe nho nhỏ đó, nếu thực hiện theo cách mà tôi nghĩ, cũng sẽ lý giải được cái yêu cầu 289,87 đô trong lá thư đầu gửi cho mỗi nạn nhân.”

“Này, này,” Kline vừa nói vừa giơ tay lên. “Chầm chậm nào. Anh cua hơi gấp quá đấy.”