Chương 45 Muốn An Nghỉ Thì Hành Động Ngay
Gurney nghĩ thấu đáo về nó một lần nữa. Nó gần như quá đơn giản, và anh muốn chắc chắn mình không bỏ sót vấn đề hiển nhiên nào có thể tạo ra lỗ hổng trong giả thuyết gãy gọn của mình. Anh để ý thấy nhiều vẻ mặt khác nhau quanh bàn – thích thú, nôn nóng lẫn tò mò – khi mọi người chờ anh lên tiếng. Anh hít vào một hơi dài và sâu.
“Tôi không khẳng định mọi chuyện là như vậy. Tuy nhiên, đây là kịch bản thuyết phục nhất mà tôi nghĩ ra được trong suốt thời gian vật lộn với những con số đó – bắt đầu từ ngày Mark Mellery đến nhà tôi cho tôi xem lá thư đầu tiên. Anh ta rất hoang mang và hoảng sợ mỗi khi nghĩ đến chuyện người viết thư biết rõ anh ta đến nỗi đoán đúng con số mà anh ta nghĩ ra khi được yêu cầu nghĩ ra một số bất kỳ từ 1 đến 1.000. Tôi cảm nhận được sự hoảng sợ trong anh ta, cái cảm giác chuyện xấu sắp xảy ra. Chắc chắn những nạn nhân khác cũng như vậy. Sự hoảng sợ đó chính là toàn bộ mục đích của trò chơi mà chứng ta đang chơi ở đây. Sao hắn lại biết được tôi sẽ nghĩ ra con số gì? Sao hắn lại biết được một suy nghĩ thầm kín, cá nhân, riêng tư đến vậy? Hắn còn biết điều gì khác nữa? Tôi hình dung được những câu hỏi đó hành hạ anh ta rất khổ sở – làm anh ta phát điên lên.”
“Thẳng thắn mà nói, Dave,” Kline nói bằng một sự kích động được che đậy rất vụng, “mấy câu hỏi đó cũng làm tôi phát điên nữa, cho nên anh trả lời chúng càng sớm thì càng tốt đấy.”
“Quá đúng,” Rodriguez đồng ý. “Đi thẳng vào vấn đề đi nào.”
“Cho phép tôi bày tỏ ý kiến này hơi trái ngược một chút,” Holdenfield nói một cách băn khoăn. “Tôi muốn nghe anh thanh tra lý giải chuyện này từ tốn theo cách của anh ấy.”
“Nó đơn giản đến mức làm người ta phát ngượng,” Gurney nói. “Làm tôi phát ngượng, là vì tôi càng nhìn lâu vào vấn đề, thì nó càng có vẻ nan giải. Vả lại, tìm ra được cách thức thực hiện mánh khóe con số 19 cũng chưa làm sáng tỏ được cách thức thực hiện con số 658. Lời giải hiển nhiên này đây, tôi chưa bao giờ nghĩ ra – cho đến khi trung sĩ Wigg kể câu chuyện của cô ta.”
Không rõ vẻ mặt nhăn nhó của Blatt là do y đang cố xác định yếu tố tiết lộ hay do hơi ga trong bao tử gây nên.
Gurney gật đầu cảm ơn Wigg rồi nói tiếp. “Giả sử, như trung sĩ đã đề nghị, tên hung thủ có đầu óc bị ám ảnh của chúng ta bỏ ra mỗi ngày hai tiếng để viết thư và cuối năm viết xong 11.000 lá rồi đem gửi cho một danh sách gồm 11.000 người.”
“Danh sách nào cơ?” Giọng Jack Hardwick có chất khàn xen ngang như một cánh cổng hoen gỉ.
“Câu hỏi hay đấy – có lẽ là câu hỏi quan trọng nhất trong tất cả các câu hỏi. Lát nữa tôi sẽ trở lại câu hỏi này ngay thôi. Tạm thời chúng ta hãy giả định rằng lá thư đầu tiên – cùng một lá thư như nhau – được gửi đến 11.000 người, yêu cầu họ nghĩ ra một con số từ 1 đến 1.000. Theo lý thuyết xác suất, ta có thể đoán có khoảng 11 người sẽ chọn cùng một số trong 1.000 số có thể chọn. Nói cách khác, về mặt thống kê, có khả năng 11 người trong số 11.000 người, nếu chọn ngẫu nhiên một số, sẽ chọn số 658.”
Bộ mặt nhăn nhó của Blatt bỗng giãn ra một cách vui nhộn.
Rodriguez lắc đầu hoài nghi. “Chẳng phải ta đang bước qua lằn ranh giữa giả thuyết và chuyện tưởng tượng sao?”
“Anh đang nói đến chuyện tưởng tượng nào thế?” Gurney nghe có vẻ ngạc nhiên hơn phật ý.
“Thì những con số mà anh cứ ném bừa khắp nơi ấy, chúng chẳng có bằng chứng nào làm cơ sở cả. Toàn chuyện hoang đường.”
Gurney mỉm cười kiên nhẫn, mặc dù kiên nhẫn không phải là cảm giác của anh lúc này. Trong thoáng chốc, anh bị phân tâm vì nhận thức được cách anh che đậy những phản ứng cảm tính của mình. Đó là một thói quen suốt cuộc đời anh – cái cách che đậy mang tính phản xạ trước những điều làm anh bực dọc, chán ngán, giận dữ, sợ hãi, nghi hoặc. Nó phục vụ cho anh rất nhiều trong hàng ngàn các cuộc thẩm vấn – nhiều đến nỗi anh đã tin rằng đó là một tài năng, một phương pháp nhà nghề, nhưng dĩ nhiên thực chất không phải như thế. Đó chẳng qua là một cách đối phó với cuộc sống từ lâu đã là một phần trong con người anh.
“Vậy bố cháu chưa bao giờ chú ý đến cháu à, David. Như vậy cháu có cảm thấy khó chịu không?”
“Khó chịu ư? Không, chẳng khó chịu gì cả. Thực tình thì chẳng có cảm giác gì nữa là.”
Tuy vậy, trong mơ, người ta có thể đắm chìm trong buồn bã.
Chúa ạ, bây giờ không phải lúc để xem xét nội tâm của mình.
Gurney tập trung trở lại, vừa kịp lúc nghe Rebecca Holdenfield nói bằng cái giọng Sigoumey Weaver nghiêm túc của cô ta, “Cá nhân tôi cảm thấy giả thuyết của thám tử Gurney không hoang đường chút nào. Thật ra tôi thấy nó hấp dẫn đấy chứ – và tôi yêu cầu một lần nữa là hãy để anh ấy trình bày xong luận giải của mình đã.”
Cô ta hướng lời yêu cầu này vào Kline. Y ngửa lòng bàn tay ra như muốn nói rõ ràng mọi người cũng có ý định đó.
Gurney nói, “Tôi không nói là đúng 11 người trong số 11.0 người chọn con số 658 – tôi chỉ nói 11 là con số khả dĩ nhất. Tôi không hiểu nhiều về toán thống kê để dẫn ra mấy công thức về xác suất, nhưng có lẽ ai đó có thể giúp tôi chuyện này.”
Wigg hắng giọng. “Xác suất gắn với một khoảng sẽ cao hơn nhiều so với một con số cụ thể trong khoảng đó. Ví dụ, tôi sẽ không cược với nhà cái rằng có đúng 11 người trong số 11.000 người sẽ chọn một con số cụ thể từ 1 tới 1.000 – nhưng nếu ta thêm vào một khoảng sai số tăng hoặc giảm, chẳng hạn 7, lúc đó tôi sẵn sàng cược rằng số người chọn con số đó sẽ rơi vào khoảng trên – nghĩa là trong trường hợp này có ít nhất 4 người và không quá 18 người sẽ chọn con số 658.”
Blatt nhíu mắt nhìn Gurney. “Anh muốn nói cái gã này gửi thư đến 11.000 người và giấu cùng một con số bí mật trong mấy cái phong bì nhỏ dán kín ư?”
“Ý tưởng nhìn chung là như vậy.”
Mắt Holdenfield trợn tròn ngạc nhiên, cô ta phát biểu ý kiến của mình không nhằm vào riêng ai. “Và những ai, dù nhiều đến đâu đi nữa, nếu tình cờ chọn số 658 vì lý do nào đó rồi mở phong bì nhỏ bên trong ra, thấy bức thư nói người viết biết người nhận rõ đến nỗi biết được người nhận sẽ chọn số 658… Chúa ạ, tác động đúng là rất lớn!”
“Bởi vì,” Wigg bồi vào, “người nhận sẽ không bao giờ ngờ mình không phải là người duy nhất nhận được thư. Họ sẽ không bao giờ ngờ mình chỉ là một trong số mỗi 1.000 người vô tình chọn con số đó thôi. Viết tay chỉ là lớp vỏ bề ngoài, làm thư có vẻ hoàn toàn cá nhân.”
“Ôi vãi Chúa trời,” Hardwick thều thào, “nói như cô nghĩa là tên giết người hàng loạt này của chúng ta dùng chiến dịch gửi thư trực tiếp để dò tìm nạn nhân rồi!”
“Đó là một cách nhìn vấn đề,” Gurney nói.
“Đây có lẽ là chuyện điên rồ nhất tôi từng được nghe,” Kline nói, sững sờ hơn là ngờ vực.
“Chẳng ai lại đi viết tay 11.000 lá thư cả,” Rodriguez tuyên bố thẳng thừng.
“Chẳng ai lại đi viết tay 11.000 lá thư cả,” Gurney lặp lại. “Đó chính là kiểu phản ứng mà hắn dựa vào để khai thác. Không có câu chuyện của trung sĩ Wigg thì tôi cũng chưa chắc nghĩ đến khả năng này.”
“Và nếu anh không mô tả trò ảo thuật bài của bố anh thì tôi cũng không nghĩ đến câu chuyện đó,” Wigg nói.
“Lát nữa hai người hẵng ca tụng nhau,” Kline nói. “Tôi vẫn còn thắc mắc. Chẳng hạn như tại sao hung thủ lại yêu cầu số tiền 289,87 đô, và tại sao hắn lại yêu cầu gửi số tiền đó đến hộp thư của người khác?”
“Lý do hắn đòi tiền cũng giống như lý do kẻ lừa đảo đòi tiền trong câu chuyện của cô trung sĩ vậy – mục đích là khiến những nạn nhân tương lai phải tiết lộ danh tính. Kẻ lừa đảo thì muốn biết người nào trong danh sách của hắn lo lắng không yên chuyện mình đã làm gì mà lại bị chụp hình. Còn hung thủ của chúng ta thì muốn biết người nào trong danh sách của hắn đã chọn con số 658 và nơm nớp lo sợ đến nỗi chịu bỏ tiền ra tìm kẻ biết rõ họ đến mức đoán trước được con số đó. Tôi nghĩ số tiền lớn như vậy là để tách nhóm người hoảng sợ thực sự – Mellery nằm trong số này – ra khỏi nhóm người chỉ đơn thuần là tò mò.”
Kline đang ưỡn người về phía trước nhiều đến nỗi gần như không còn ngồi trên ghế. “Nhưng tại sao số tiền lại có số đô-la và số xu chính xác đến vậy?”
“Vấn đề đó ngay từ đầu cũng làm tôi day dứt không yên.
Đến giờ tôi vẫn chưa rõ tại sao, nhưng có ít nhất một lý do: số tiền như vậy là để cầm chắc khả năng nạn nhân sẽ gửi séc thay vì tiền mặt.”
“Lá thư đầu tiên đâu có nói vậy,” Rodriguez chỉ ra. “Thư ghi là có thể gửi séc hoặc tiền mặt mà.”
“Tôi biết, nói thế này nghe có vẻ cực kỳ tinh vi,” Gurney nói, “nhưng tôi nghĩ hung thủ đưa ra lựa chọn đó rõ ràng là nhằm đánh lạc hướng nạn nhân, làm họ không chú ý đến sự sống còn của việc gửi séc. Còn số tiền phức tạp kia chỉ nhằm làm người ta nản mà không trả tiền mặt thôi.”
Rodriguez đảo mắt. “Này, tôi biết không ai có mặt ở đây ngày hôm nay lại ưa cái từ hoang đường cả, nhưng ngoài từ đó ra, tôi chẳng biết phải dùng từ nào khác để gọi thứ này nữa.”
“Tại sao gửi séc lại là chuyện sống còn?” Kline hỏi.
“Số tiền ấy, đối với hung thủ mà nói, không quan trọng. Nhớ rằng mấy tấm séc đó không được đổi ra tiền mặt kia mà. Tôi tin hắn lấy được séc ở giai đoạn nào đó trong quá trình séc được chuyển đến hộp thư của Gregory Dermott, và hắn chỉ cần có vậy.”
“Chỉ cần có vậy – ý anh là gì?”
“Trên séc có ghi gì ngoài số tiền và số tài khoản nào?”
Kline suy nghĩ một lúc. “Tên chủ tài khoản và địa chỉ ư?”
“Đúng,” Gurney nói. “Tên và địa chỉ.”
“Nhưng tại sao…?”
“Hắn phải khiến các nạn nhân tự tiết lộ danh tính. Rốt cuộc thì hắn đã gửi đi hàng ngàn lá thư như thế. Nhưng mỗi nạn nhân tương lai sẽ tin rằng lá thư mình nhận được chỉ nói duy nhất chuyện của mình, từ một người biết mình rất rõ. Nếu họ gửi lại một phong bì có số tiền mà hung thủ yêu cầu thì sao? Họ không việc gì phải ghi tên và địa chỉ của mình cả – và tên hung thủ không thể yêu cầu cụ thể là phải ghi thông tin đó, bởi vì yêu cầu như vậy sẽ phá vỡ toàn bộ cái tiền đề ‘tôi biết những bí mật thầm kín của ông’ rồi. Lấy được mấy tấm séc đó là một cách khôn khéo để lấy tên và địa chỉ của người hồi âm. Và có lẽ, nếu trong bưu điện xảy ra quá trình lén lút xem thông tin trên séc thì cách dễ dàng nhất để phi tang séc sau khi xem xong là bỏ séc lại vào phong bì ban đầu rồi chuyển tiếp đến hộp thư của Dermott.”
“Nhưng tên hung thủ phải hơ nước mở phong bì ra rồi niêm lại chứ,” Kline nói.
Gurney nhún vai. “Một cách khác là xâm nhập vào hộp thư của Dermott bằng cách nào đó sau khi anh ta tự tay mở phong bì ra, nhưng phải trước lúc anh ta có cơ hội trả séc lại cho người gửi. Làm vậy không cần phải hơ nước mở phong bì rồi niêm lại, nhưng đúng là sẽ phát sinh nhiều vấn đề và câu hỏi khác – những thứ chúng ta cần phải điều tra, chẳng hạn lối sống của Dermott, những người có thể xem được hộp thư của anh ta, vân vân.”
“Và như vậy,” Hardwick phều phào lớn tiếng, “chúng ta phải trở lại câu hỏi của tôi – câu hỏi mà Sherlock Gurney này đây lúc nãy đã mô tả là quan trọng nhất trong tất cả các câu hỏi. Câu hỏi đó là, những tay khỉ gió nào nằm trong danh sách 11.000 ứng cử viên bị mưu sát đây?”
Gurney giơ tay lên làm cử chỉ quen thuộc của cảnh sát giao thông. “Trước khi trả lời câu hỏi đó, cho phép tôi nhắc mọi người rằng 11.000 chỉ là con số ước đoán thôi. Con số này là số lá thư khả dĩ nhìn từ quan điểm thực thi, và đó là con số hỗ trợ kịch bản 658 của chúng ta về mặt thống kê. Nói cách khác, đây là con số có ý nghĩa. Nhưng như trung sĩ Wigg đã chỉ ra lúc đầu, con số thật sự có thể nằm trong khoảng từ 5.000 đến 15.000, nhỏ vừa đủ để thực hiện được mánh khóe này và lớn vừa đủ để lọc ra được một mớ người ngẫu nhiên chọn con số 658.”
“Dĩ nhiên, trừ phi anh đi sai hướng hoàn toàn,” Rodriguez chỉ ra, “và mấy thứ đoán già đoán non này chỉ là một sự lãng phí thời gian vô cùng.”
Kline quay sang Holdenfield. “Cô nghĩ sao, Becca? Chúng ta có đi đúng hướng không? Hay sai hướng?”
“Tôi cảm thấy các khía cạnh của giả thuyết đó tuyệt đối hấp dẫn, nhưng tôi muốn giữ lại ý kiến sau cùng của mình và chờ nghe câu trả lời cho câu hỏi của trung sĩ Hardwick trước đã.”
Gurney mỉm cười, lần này là một nụ cười chân thật. “Anh ấy ít khi nào hỏi mà chưa ít nhiều có sẵn câu trả lời đâu. Chia sẻ được không nào, Jack?”
Hardwick lấy hai tay xoa xoa mặt trong nhiều giây – lại là một trong những cái giật khó hiểu làm Gurney phát cáu khi hai người còn làm chung vụ án Piggert giết cha hại mẹ. “Nếu nhìn vào nét chung đặc thù nhất giữa tất cả các nạn nhân – nét đặc thù được nói đến trong mấy bài thơ đe dọa ấy – mọi người có thể kết luận rằng tên của họ nằm trong danh sách những người nghiện rượu nặng.” Hắn ngừng một chút. “Câu hỏi đặt ra là, danh sách đó ở đâu ra?”
“Danh sách thành viên của Hội Cai rượu ẩn danh chăng?” Blatt đề nghị.
Hardwick lắc đầu. “Không có danh sách nào như thế cả. Người ta xem trọng mấy thứ ẩn danh vớ vẩn đó lắm.”
“Vậy một danh sách được soạn từ dữ liệu trong hồ sơ công cộng thì sao?” Kline nói. “Những vụ bắt giữ và bản án liên quan đến rượu chăng?”
“Danh sách như vậy có thể soạn ra, nhưng sẽ có hai nạn nhân không xuất hiện trong đó. Mellery không có tiền án tiền sự. Tay linh mục ấu dâm thì có, nhưng đó lại là tội vi phạm thuần phong mỹ tục đối với trẻ vị thành niên – không có liên quan đến rượu trong hồ sơ công cộng, đành rằng cậu thanh tra ở Boston mà tôi trao đổi bảo tôi là đức cha tốt bụng ấy sau đó bị bác tội này và nhận một tội nhẹ hơn. Ông ta quy hành vi này là do nghiện rượu và đồng ý đi cai nghiện lâu dài.”
Kline nheo mắt tư lự. “Chà, vậy thì có thể nào là danh sách bệnh nhân ở cơ sở cai nghiện không?”
“Có khả năng đó,” Hardwick nói, mặt nhăn nhó như muốn nói điều ngược lại.
“Có lẽ ta nên điều tra chuyện đó.”
“Nhất định rồi.” Giọng điệu gần như sỉ nhục của Hardwick tạo ra một khoảng lặng ngượng ngập. Gurney phá vỡ sự im lặng.
“Vì muốn xem thử có thể thiết lập mối quan hệ về mặt địa lý giữa các nạn nhân không, nên cách đây một thời gian tôi đã bắt đầu điều tra vấn đề cai nghiện của họ. Oái oăm thay việc điều tra lại rơi vào ngõ cụt. Albert Rudden cai nghiện 28 ngày ở một cơ sở ở Bronx cách đây 5 năm, còn Mellery cai nghiện 28 ngày ở một cơ sở ở Queens cách đây mười lăm năm. Không cơ sở nào có chương trình điều trị lâu dài cả – tức là ông linh mục chắc hẳn đã đến một cơ sở khác. Cho nên dù tên hung thủ của chúng ta có làm việc trong môi trường đó và công việc cho phép hắn truy xuất hàng ngàn bệnh án đi nữa, thì bất kỳ danh sách nào mà hắn lập ra bằng cách đó cũng chỉ có duy nhất một cái tên trong số những nạn nhân đó mà thôi.”
Rodriguez xoay người trong ghế và nói chuyện trực tiếp với Gurney. “Giả thuyết của anh phụ thuộc vào sự tồn tại của một danh sách khổng lồ – có thể là 5.000 tên, có thể là 11.000, tôi nghe cô Wigg nói còn có thể 15.000 nữa – bao nhiêu tên cũng được, danh sách có vẻ như luôn luôn thay đổi. Nhưng làm gì có nguồn nào có thứ danh sách như vậy. Vậy phải làm sao?”
“Kiên nhẫn nào, đại úy,” Gurney nói nhỏ nhẹ. “Tôi không nghĩ là không có nguồn nào đâu – chẳng qua ta chưa tìm ra thôi. Hình như tôi tin vào năng lực của anh còn hơn bản thân anh tin tưởng đấy.”
Máu trào lên mặt Rodriguez. “Niềm tin cái gì? Vào năng lực của tôi cái gì? Anh nói vậy nghĩa là sao hả?”
“Toàn bộ số nạn nhân đều đi cai nghiện ư?” Wigg lờ đi cơn tam bành của tay đại úy.
“Tôi không biết Kartch thì sao,” Gurney nói, mừng vì được kéo trở lại đề tài. “Nhưng ông ta có đi cũng không có gì lạ.”
Hardwick xen vào. “Sở Cảnh sát Sotherton có fax cho chúng ta hồ sơ của ông ta. Đây đúng là chân dung của một tên khốn thật sự. Hành hung, quấy rối, uống rượu noi công cộng, uống rượu gây rối, đe dọa, đe dọa bằng vũ khí, có hành vi dâm dật, ba lần uống rượu lái xe, hai lần đi lên phía Bắc rồi, chưa kể cả chục lần ra vào tù 6 tỉnh nữa. Những tội liên quan đến rượu, nhất là uống rượu lái xe, cho ta thấy gần như chắc chắn rằng lão đa bị tống đi cai nghiện ít nhất một lần. Tôi có thể yêu cầu Sotherton điều tra chuyện đó.”
Rodriguez đẩy người ra khỏi bàn. “Nếu các nạn nhân không gặp nhau trong cơ sở cai nghiện hoặc thậm chí không cai nghiện cùng cơ sở ở những thời điểm khác nhau, thì việc bọn họ có đi cai nghiện hay không có khác gì nào? Thời buổi này trong số mấy tay thất nghiệp vô công rồi nghề và mấy tay nghệ sĩ tào lao trên đời thì một nửa đi cai nghiện rồi. Một hoạt động ăn tiền phi pháp khốn nạn trên kinh phí của Medicaid[23], cái giá cắt cổ mà người đóng thuế phải trả. Mấy cái gã này đi cai nghiện thì có nghĩa khỉ gió gì nào? Nghĩa là bọn họ có khả năng bị giết ư? Khó lắm. Nghĩa là bọn họ là bợm ư? Thì sao? Chuyện đó chúng ta biết rồi mà.” Sự giận dữ, Gurney để ý, đã trở thành cảm xúc chủ đạo của Rodriguez, y nhảy nhanh như tên bắn từ vấn đề này sang vấn đề khác.
Wigg, người mà tràng rủa sả ấy nhắm vào, dường như không bị tác động bởi sự độc địa của nó. “Thanh tra cấp cao Gurney đã từng nói anh ấy tin có khả năng tất cả các nạn nhân dính dáng đến nhau qua một nhân tố chung nào đó không phải là nghiện rượu. Tôi nghĩ việc tham gia cai nghiện có thể là nhân tố đó, hoặc ít ra cũng thuộc nhân tố đó.”
Rodriguez bật cười chế nhạo. “Chắc thế này, chắc thế kia. Tôi nghe quá nhiều cái ‘chắc’ rồi mà chẳng nghe ra một mối liên kết nào cả.”
Kline trông chán nản. “Thôi nào Becca, nói cho chúng tôi biết cô nghĩ gì nào. Vị thế của chúng ta chắc chắn đến mức nào?”
“Câu hỏi đó khó trả lời lắm. Tôi không biết phải bắt đầu từ đâu nữa.”
“Để tôi đơn giản hóa câu hỏi cho cô. Cô có tin giả thuyết của Gurney về vụ án không – có hay không?”
“Có, tôi tin. Bức tranh mà anh ấy vẽ ra mô tả cảnh Mark Mellery bị mấy bức thư ông ấy nhận được tra tấn tinh thần; tôi hình dung được đó có thể là một yếu tố hợp lý trong một kiểu nghi thức giết người nào đó.”
“Nhưng trông cô không giống như là tin hoàn toàn.”
“Không phải vậy đâu, chẳng qua là… phương thức gây án này rất độc đáo. Tra tấn nạn nhân là yếu tố rất hay gặp trong bệnh lý giết người hàng loạt, nhưng tôi chưa bao giờ thấy vụ án nào được thực hiện từ xa với một phong thái điềm tĩnh và có phương pháp đến thế. Yếu tố tra tấn trong những vụ án mạng như thế này thường chỉ chú trọng việc gây ra đau đớn trực tiếp về thể xác nhằm khủng bố nạn nhân và cho hung thủ cái cảm giác có quyền năng và quyền kiểm soát tối thượng mà hắn thèm khát. Tuy nhiên, trong vụ án này, yếu tố gây đau đớn hoàn toàn là về mặt tinh thần.”
Rodriguez nghiêng người về phía cô ta. “Vậy cô muốn nói nó không khớp với kiểu mẫu giết người hàng loạt ư?” Y nói như luật sư đang tấn công nhân chứng đối phương.
“Không phải. Kiểu mẫu thì có rồi. Tôi chỉ muốn nói hắn có cách gây án điềm tĩnh và toan tính độc đáo quá thôi. Đa số những tay giết người hàng loạt có trí tuệ trên mức bình thường. Vài tên, chẳng hạn như Ted Bundy, có trí thông minh trên mức bình thường rất xa. Còn tên này có lẽ thuộc một nhóm riêng chỉ có mình hắn.”
“Quá thông minh và khó đối phó – cô muốn nói vậy chứ gì?”
“Tôi không nói vậy,” Holdenfield hồn nhiên trả lời, “nhưng có lẽ anh nói đúng.”
“Thật vậy à? Để tôi ghi lại câu này vào hồ sơ nào,” Rodriguez nói, giọng y đứt gãy như băng mỏng. “Ý kiến chuyên nghiệp của cô là BCI không đủ khả năng bắt giữ tên điên này có phải không?”
“Một lần nữa, tôi không có nói vậy,” Holdenfield mỉm cười. “Nhưng một lần nữa, có lẽ anh nói đúng.”
Một lần nữa làn da vàng vọt của Rodriguez ửng đỏ lên vì giận, nhưng Kline xen vào. “Lẽ nào cô lại ngụ ý là chúng ta không thể làm gì được, cô Becca?”
Cô ta thở dài với vẻ cam chịu của một nhà giáo phải gánh vác những sinh viên tối dạ nhất trong trường. “Các dữ kiện của vụ án cho tới giờ ủng hộ 3 kết luận. Thứ nhất, tên hung thủ mà mọi người đang truy bắt đang chơi trò chơi với mọi người, và hắn chơi rất giỏi. Thứ hai, hắn có động lực rất lớn, luôn ở tư thế chuẩn bị, rất tập trung và tỉ mỉ. Thứ ba, hắn biết ai là người tiếp theo trong danh sách, còn mọi người thì không.”
Kline trông đau khổ. “Nhưng trở lại câu hỏi của tôi…”
“Nếu các anh muốn kiếm ánh sáng cuối đường hầm, thì có một khả năng nhỏ này có lợi cho các anh đấy. Dù có tổ chức chặt chẽ đến đâu đi nữa, thì vẫn có khả năng hắn sẽ suy sụp.”
“Suy sụp như thế nào? Tại sao lại suy sụp? Cô nói ‘suy sụp’ là sao?”
Khi Kline hỏi câu đó, Gurney cảm thấy lồng ngực đang co thắt lại. Cảm giác lo âu tột độ đến cùng một cảnh tượng trong trí tưởng tượng của anh, rõ nét như trong phim – bàn tay tên hung thủ chộp lấy tờ giấy có tám dòng mà Gurney đã bốc đồng gửi bưu điện ngày hôm trước:
Ủng ngược, súng được giảm thanh,
mày lầm, tao biết rành rành ra sao.
Trò này sẽ kết thúc mau,
bạn người chết sẽ cứa sâu cổ mày.
Coi chừng nắng dữ tuyết dày,
đêm ngày cũng thế, coi mày chạy đâu.
Mộ phần anh ấy tao trông,
rồi đưa hung thủ xuống tầng ngục sâu.
Một cách bài bản, bằng thái độ khinh khinh, tay hắn vò tờ giấy thành một khối tròn, và khi khối tròn ấy nhỏ hết cỡ, không lớn hơn thỏi kẹo cao su, tay hắn chầm chậm mở ra để nó rơi xuống nền nhà. Gurney cố gắng xua hình ảnh ghê tởm đó ra khỏi tâm trí, nhưng kịch bản ấy chưa chạy hết quãng đường của nó. Giờ thì bàn tay hung thủ cầm lên phong bì có chứa bài thơ – để mặt ghi địa chỉ hướng lên trên, dấu bưu điện hiện lên rõ ràng là từ Walnut Crossing.
Walnut Crossing… ơi Chúa ạ! Một cảm giác ớn lạnh kiệt quệ lan tỏa từ vùng thượng vị của Gurney xuống chân. Sao anh lại có thể bỏ sót một vấn đề hiển nhiên đến thế được? Chúa ạ, bình tĩnh nào. Suy nghĩ nào. Tên hung thủ có thể làm gì với thông tin đó? Nó sẽ dẫn hắn đến đúng địa chỉ, đến nhà họ, đến gặp Madeleine chăng? Gurney thấy hai mắt mình trợn trừng, mặt tái đi. Sao anh lại chăm chăm gửi bức thư tai hại đó để làm gì? Sao anh lại không đoán trước được vấn đề về dấu bưu điện? Anh đã tạo ra nguy cơ gì cho Madeleine rồi? Tâm trí anh chạy loạn xạ xung quanh câu hỏi cuối cùng như một người hối hả chạy quanh một ngôi nhà đang cháy. Mối nguy đó có thật đến mức nào? Còn bao lâu nữa nó sẽ xảy ra? Anh có nên gọi cho cô, cảnh báo cô không? Cảnh báo cô chuyện gì mới được? Để làm cô sợ mất mật ư? Chúa ơi, còn chuyện gì nữa không? Còn chuyện gì nữa mà anh đã bỏ sót khi đang tập trung một cách phiến diện vào đối thủ, vào cuộc chiến, vào câu đố không? Còn sự an toàn của ai nữa – mạng sống của ai nữa – mà anh đã lờ đi bởi sự hiếu thắng ngang bướng của mình? Những câu hỏi này làm anh choáng váng.
Một giọng nói xen vào cơn sợ hãi mới chớm của anh. Anh cố gắng bám víu vào đó, tận dụng nó để lấy lại thăng bằng.
Holdenfield đang nói. “… một tên mưu mô bị chứng ám ảnh cưỡng chế sai khiến, lúc nào cũng có nhu cầu bệnh hoạn là khớp hiện thực với kế hoạch của mình. Cái mục tiêu đang toàn quyền kiểm soát hắn chính là, hắn phải toàn quyền kiểm soát người khác.”
“Toàn quyền kiểm soát mọi người ư?” Kline hỏi.
“Thật ra thì sự tập trung của hắn khá hời hợt. Hắn cảm thấy phải hoàn toàn thống trị bằng khủng bố nên phải ra tay sát hại các thành viên của nhóm nạn nhân mục tiêu, tức là nhóm người có vẻ như nằm trong tập hợp con nào đó trong số những người đàn ông trung niên nghiện rượu. Những người khác hắn không màng đến vì không có hứng thú hay nghĩ họ quan trọng.”
“Vậy cái chuyện ‘suy sụp’ ấy có vai trò gì ở đây?”
“Thường thì mưu sát để tạo ra và duy trì cảm giác toàn năng là một quá trình khiếm khuyết đến chết người – tôi không có ý chơi chữ đâu. Vì thèm khát quyền kiểm soát mà giết người hàng loạt là biểu hiện của loạn năng nghiêm trọng, giống như hút cocaine để tìm hưng phấn vậy.”
“Chúng cần càng lúc càng nhiều ư?”
“Cần càng lúc càng nhiều chỉ để thỏa mãn càng lúc càng ít. Chu kỳ cảm xúc càng lúc càng trở nên dồn nén và khó kiểm soát hơn. Những thứ đáng lẽ không xảy ra lại xảy ra. Tôi ngờ rằng một thứ có bản chất tương tự vậy đã xảy ra sáng nay, kết quả là anh cảnh sát đó bị giết thay cho anh Dermott của các anh. Những biến cố không lường trước này tạo ra chấn thương tâm lý nghiêm trọng trong một tên hung thủ lúc nào cũng bị quyền kiểm soát ám ảnh, và sự phân tâm này sẽ dẫn đến nhiều sai lầm nữa. Giống như một cái máy có trục truyền động không cân đối vậy. Khi máy đạt đến một tốc độ nhất định thì chuyển động rung lắc sẽ xuất hiện làm gãy vỡ máy.”
“Nghĩa là sao, trong trường hợp cụ thể này?”
“Nghĩa là hung thủ càng lúc càng điên cuồng và khó đoán hơn.”
Điên cuồng. Khó đoán. Một lần nữa nỗi khiếp đảm lạnh người tỏa ra từ vùng thượng vị của Gurney, lần này vào tận trong lồng ngực, trong cổ họng anh.
“Nghĩa là tình hình sẽ tồi tệ hơn ư?” Kline hỏi.
“Khả quan mặt này và tồi tệ mặt khác. Nếu một kẻ giết người từng thập thò trong hẻm tối lâu lâu lại dùng dụng cụ đập vụn nước đá giết người tự nhiên đùng một cái xuất hiện ở quảng trường Thời đại vung rựa, thì có khả năng hắn sẽ bị bắt. Nhưng trong cuộc hỗn loạn cuối cùng, có lẽ nhiều người sẽ mất đầu lắm.”
“Cô thấy tên này có thể đang vào giai đoạn vung rựa ư?” Trông Kline hào hứng hơn là cảm thấy ghê tởm.
Gurney thấy buồn nôn. Cái giọng điệu khí phách đàn ông vớ vẩn mà mấy tay chấp pháp dùng để che chắn bản thân khỏi cảnh ghê rợn không có tác dụng trong một số tình huống nhất định. Đây là một tình huống như thế.
“Phải.” Sự giản đơn thẳng thừng trong câu trả lời của Holdenfield tạo ra một sự im lặng khắp phòng. Sau một chập, tay đại úy lên tiếng bằng thái độ thù địch mà ai cũng đoán được.
“Vậy chúng ta phải làm gì đây? Ban bố lệnh bắt khẩn cấp đối với một quý ông ba mươi tuổi cầm một trục quay đang rung và dao rựa trong tay ư?”
Hardwick đáp lại bằng một nụ cười méo xệch còn Blatt thì bật cười.
Stimmel nói, “Đôi khi kết cục hoành tráng là một phần của kế hoạch.” Y được sự chú ý của mọi người trừ Blatt vẫn luôn miệng cười. Khi Blatt bớt cười, Stimmel nói tiếp, “Có ai còn nhớ vụ án Duane Merkly không?”
Không ai nhớ.
“Cựu binh từ Việt Nam,” Stimmel nói. “Mâu thuẫn với Bộ Cựu Chiến binh và chính quyền nói chung. Nuôi một con chó gác cổng Akita dữ tợn đã từng ăn một con vịt nhà hàng xóm. Người hàng xóm gọi cảnh sát. Duan ghét bọn cớm. Tháng sau con Akita đó ăn con chó săn nhỏ của người hàng xóm. Người hàng xóm bắn con chó Akita. Xung đột leo thang, và nhiều thứ vớ vẩn nữa xảy ra. Ngày nọ tay cựu binh này bắt người hàng xóm làm con tin, đòi bồi thường 5.000 đô cho con Akita, nếu không sẽ giết con tin. Cảnh sát địa phương tới, đội đặc công SWAT tới. Họ chốt chặn nhiều vị trí quanh chu vi nhà. Có điều, chẳng ai xem hồ sơ tại ngũ của Duane cả nên không biết y từng là chuyên viên bom mìn. Duane chuyên đặt mìn cho nổ từ xa.” Stimmel câm bặt, để cho khán giả của y tưởng tượng ra kết quả.
“Ý anh nói tên chó chết đó cho nổ tung mọi người lên à?” Blatt hỏi với vẻ ấn tượng.
“Không phải mọi người. Sáu chết, sáu bị thương tật vĩnh viễn.”
Rodriguez trông chán nản. “Chuyện này thì có liên quan gì?”
“Vấn đề là, y đã mua cấu kiện làm mìn trước đó hai năm rồi. Kết cục hoành tráng luôn luôn được tính toán trước mà.”
Rodriguez lắc đầu. “Tôi chẳng thấy liên quan chỗ nào cả.” Gurney thì có, và nó khiến anh bứt rứt.
Kline nhìn Holdenfield. “Cô nghĩ sao hả, Becca?”
“Tôi nghĩ hung thủ của chúng ta có kế hoạch lớn hay không ư? Có khả năng đó. Tôi biết chắc một thứ này…”
Một tiếng gõ cửa chiếu lệ ngắt lời cô ta. Cửa mở, và một trung sĩ mặc cảnh phục bước nửa đường vào phòng và nói với Rodriguez.
“Sếp ạ? Xin lỗi đã ngắt lời. Sếp có điện thoại từ trung úy Nardo nào đó ở bang Connecticut. Tôi bảo anh ta sếp đang họp. Anh ấy nói đây là chuyện khẩn, cần nói chuyện với sếp ngay.”
Rodriguez thở dài, cái thở dài của một người phải chịu thiệt thòi gánh vác nhiều chuyện. “Tôi nghe máy ở đây được rồi,” y nói, đầu nghiêng về chiếc điện thoại trên tủ hồ sơ thấp tè đặt sát tường sau lưng.
Viên trung sĩ lùi ra sau. Hai phút sau, điện thoại reng.
“Đại úy Rodriguez nghe đây.” Lại hai phút sau, y cầm điện thoại sát tai, căng thẳng tập trung. “Quái thật,” rốt cuộc y nói. “Lạ thật đấy, trung úy ạ, nên tôi muốn anh lặp lại từng từ một cho đội điều tra chúng tôi ở đây nghe. Tôi mở loa ngoài đây. Anh nói đi – lặp lại chính xác những gì anh nói với tôi nào.”
Một lúc sau, giọng nói phát ra từ chiếc điện thoại, nghe căng thẳng và lạnh lùng. “Tôi là John Nardo từ Sở Cảnh sát Wycherly đây. Mọi người có nghe tôi không?” Rodriguez nói có, rồi Nardo nói tiếp, “Như mọi người đã biết, một trong những cảnh sát của chúng tôi đã bị giết khi đang làm nhiệm vụ sáng nay tại nhà của Gregory Dermott. Chúng tôi hiện đang ở hiện trường cùng một đội xử lý hiện trường. Hai mươi phút trước có điện thoại gọi cho ông Dermott. Người gọi nói với ông ấy là, nguyên văn, ‘Ông là người tiếp theo, sau ông đến lượt Gurney.'"
Cái gì? Gurney thắc mắc liệu mình có nghe đúng không.
Kline yêu cầu Nardo lặp lại tin nhắn điện thoại và anh ta lặp lại.
“Anh có tìm được thông tin gì về nguồn gọi từ công ty điện thoại chưa?” Hardwick hỏi.
“Thông tin điện thoại di động trong phạm vi xung quanh chỗ này thì có. Không có dữ liệu GPS, chỉ có địa điểm của đài phát thôi. Số người gọi không hiện trên máy.”
“Ai bắt máy vậy?” Gurney hỏi. Thật đáng ngạc nhiên, lời đe dọa trực tiếp đến anh lại có tác dụng làm anh bình tâm trở lại. Có lẽ bởi vì bất cứ thứ gì cụ thể, thứ gì có tên kèm theo, thì hạn hẹp hơn và do đó dễ giải quyết hơn so với một dãy vô tận các khả năng. Và có lẽ bởi vì không có cái tên nào trong số đó là Madeleine cả.
“Anh nói ai bắt máy là sao?” Nardo hỏi.
“Anh nói có điện thoại gọi cho ông Dermott chứ không nói là ông Dermott bắt máy.”
“Ờ, phải, tôi hiểu rồi. Thì lúc điện thoại reng, Dermott đang nằm nghỉ vì đau nửa đầu mà. Từ lúc phát hiện cái xác đến giờ, ông ấy giống như người tàn phế vậy. Nên một kỹ thuật viên trả lời điện thoại trong bếp. Người gọi yêu cầu gặp Dermott, nói hắn là bạn thân.”
“Hắn dùng tên gì?”
“Tên lạ lắm, Carbis… Cabberdis… Không, chờ chút, đây này, anh kỹ thuật viên có ghi vào giấy này – Charybdis.”
“Giọng nói có gì lạ không?”
“Anh hỏi phải lắm. Lúc nãy mấy người ở đây còn tìm cách mô tả cái giọng đó. Sau khi Dermott đến nghe điện thoại, ông ấy nói ông ấy nghĩ giọng đó nghe như là giọng nước ngoài vậy, nhưng anh kỹ thuật viên của chúng tôi thì lại nghĩ đó là giọng giả – kẻ này muốn ngụy trang giọng thật của hắn. Hoặc có thể là của ả cũng nên – chẳng ai trong hai người chắc chắn cả. Này, các anh, xin lỗi nhé, tôi phải trở lại tình hình ở đây. Muốn cho các anh biết những dữ kiện căn bản vậy thôi. Chúng tôi sẽ liên lạc trở lại khi có tin mới.”
Sau tín hiệu ngắt kết nối, bao phủ quanh bàn là sự yên lặng bồn chồn. Rồi Hardwick hắng giọng lớn tiếng đến nỗi Holdenfield giật nảy người..
“Vậy là Dave này,” hắn lầm bầm, “một lần nữa anh lại là tâm điểm của sự chú ý rồi. ‘Đến lượt Gurney’ cơ đấy. Cậu là cái gì nào, một thỏi nam châm hút các vụ giết người hàng loạt hả? Chúng tôi chỉ cần đu đưa cậu trên dây rồi chờ chúng đớp là xong.”
Madeleine cũng đang đu đưa trên dây ư? Có lẽ chưa đâu. Hy vọng là chưa. Dù gì thì anh và Dermott mới là những người đứng đầu danh sách cơ mà. Cứ cho là tên điên ấy nói thật đi. Nếu vậy, anh sẽ có thêm thời gian rồi – có lẽ là thời gian đề cầu may. Thời gian để chuộc lại những sơ suất của anh. Sao anh lại ngu xuẩn đến thế được? Sao lại không nghĩ đến sự an toàn của cô cơ chứ? Ngu xuẩn.
Kline trông băn khoăn. “Sao anh lại trở thành mục tiêu thế kia?”
“Tôi cũng chẳng biết hơn anh,” Gurney nói một cách vô tư giả tạo. Cảm giác có lỗi cho anh cảm tưởng Kline lẫn Rodriguez đang nhìn anh một cách tò mò thiếu thiện ý. Ngay từ đầu anh đã có cảm giác nghi ngại chuyện viết rồi gửi bài thơ đó đi, nhưng anh đã chôn giấu cái cảm giác đó mà không buồn định hình hay bộc lộ nó ra bằng lời. Anh sửng sốt trước khả năng lờ đi nguy hiểm của mình, kể cả nguy hiểm đó có xảy đến với người khác. Lúc đó anh đang nghĩ gì nhỉ? Mối nguy đối với Madeleine có xuất hiện trong ý thức của anh một chút nào không? Anh đã nghi ngờ rồi gạt bỏ nó đi chăng? Lẽ nào anh lại nhẫn tâm đến vậy? Làm ơn, Chúa ơi, đừng!
Giữa bao phiền muộn như vậy, anh vẫn chắc mẩm ít nhất một chuyện. Ngồi đây trong căn phòng hội nghị này bàn thêm về tình hình đó không phải là một phương án hợp lý. Nếu Dermott là người tiếp theo trong danh sách của tên hung thủ, thì đó là thời điểm Gurney có cơ hội nhiều nhất để tìm ra tên giết người mà họ đang truy bắt và chấm dứt nguy cơ trước khi nó tới gần. Và nếu chính anh là người tiếp theo sau Dermott, thì anh muốn tham gia cuộc chiến đó càng xa Walnut Crossing càng tốt. Anh trượt ghế ra khỏi bàn rồi đứng dậy.
“Xin mọi người thứ lỗi, tôi phải đi đây.”
Thoạt đầu quanh bàn chỉ xuất hiện nhiều vẻ mặt ngây ra. Rồi Kline bỗng nhận ra ý nghĩa câu nói đó.
“Chúa ạ!” hắn la lên. “Lẽ nào anh lại nghĩ đến chuyện đi đến Connecticut chứ?”
“Tôi được mời mà, và tôi chấp nhận lời mời.”
“Điên rồ. Anh chẳng biết mình đang đi vào đâu đâu.”
“Thật ra thì,” Rodriguez nói kèm một cái liếc khinh khinh về phía Gurney, “hiện trường vụ án có đầy rẫy cảnh sát là một nơi khá an toàn đấy chứ.”
“Thường thì là vậy,” Holdenfield nói. “Trừ phi…” Cô ta để cho cái ý nghĩ đó treo lơ lửng, như thể đang đi vòng quanh để xem xét nó từ nhiều góc độ khác nhau.
“Trừ phi sao?” Rodriguez quát.
“Trừ phi hung thủ là cảnh sát.”