Chương 47 Chào Mừng Đến Wycherly
Sau khi gạt bỏ những phản đối và quan ngại đã liệu trước chuyến đi đã dự kiến của mình, Gurney ra xe và gọi cho Sở Cảnh sát Wycherly hỏi xin địa chỉ nhà của Gregory Dermott, vì cho đến tận thời điểm này anh mới chỉ có số hộp thư trên phần đầu lá thư của anh ta. Phải mất ít lâu anh mới giải thích cho viên cảnh sát đang trực hiểu được chính xác anh là ai, và dù vậy, anh vẫn phải chờ nữ cảnh sát ấy gọi Nardo xin phép được tiết lộ địa điểm. Hóa ra cô ta là thành viên duy nhất của một lực lượng nhỏ chưa có mặt ở hiện trường. Gurney nhập địa chỉ vào thiết bị GPS và hướng về phía cầu Kingston-Rhinecliff.
Wycherly tọa lạc ở vùng Trung Bắc Connecticut. Chuyến đi mất hơn hai giờ một chút, phần lớn thời gian này Gurney bỏ ra để trầm ngâm về sự thờ ơ trắng trợn của mình đối với an toàn của vợ. Sơ suất đó quấy rầy và làm anh chán ngán đến mức anh thèm muốn tập trung vào chuyện khác, và anh bắt đầu xem xét giả thuyết chủ đạo đã đưa ra tại cuộc họp BCI.
Cái giả thuyết rằng tên hung thủ bằng cách nào đó tiếp cận và soạn ra được một danh sách chứa hàng ngàn tên những người có tiền sử nghiện rượu – những người bị dằn vặt bởi nỗi sợ và mặc cảm tội lỗi thâm căn cố đế phát sinh từ một quá khứ nghiện rượu – rồi đánh bẫy thành công một số người qua trò đoán số đơn giản ấy, tiếp theo tra tấn họ bằng một loạt các bài thơ sởn gáy, dẫn đến kết cục họ bị mưu sát theo nghi thức… toàn bộ quá trình đó, quái gở đến đâu đi nữa, đối với Gurney mà nói giờ đây xem ra hoàn toàn thuyết phục. Anh nhớ đã khám phá ra một điều là những tên giết người hàng loạt lúc bé thường tìm thấy khoái lạc trong việc hành hạ côn trùng và những động vật bé nhỏ – như dùng kính lúp hội tụ ánh nắng để đốt chúng chẳng hạn. Một trong những tên khét tiếng bị anh bắt giữ, Claus Ăn Thịt Người, đã làm mù mắt một con mèo bằng chính cách này lúc mới 5 tuổi. Đốt bằng kính lúp. Nghe giống đến đáng sợ với việc hội tụ nạn nhân vào quá khứ của họ rồi khuếch đại nỗi sợ của họ lên cho đến khi họ quằn quại trong đau đớn.
Thấy được kiểu mẫu, khớp được những mảnh ghép của câu đố xếp hình lại với nhau – đây là một quy trình thường làm anh hưng phấn, nhưng trưa hôm đó trong xe anh lại không có cái cảm giác thoải mái thường lệ ấy. Có lẽ còn âm ỉ trong người anh là cái nhận thức về sự kém cỏi của mình, về những sai sót của mình. Ý nghĩ đó gay gắt trong lồng ngực anh.
Anh tập trung hờ hững vào con đường phía trước, vào capô, vào đôi tay trên bánh lái. Thật lạ. Đôi bàn tay – anh không nhận ra bàn tay của chính mình. Chúng trông già nua đến kinh ngạc – như bàn tay bố anh vậy. Những đốm đồi mồi nhỏ đã phát triển cả về kích thước lẫn số lượng. Nếu ai cho anh xem một chục hình chụp bàn tay trước đó chỉ một phút thôi, thì anh sẽ không tài nào nhận ra được đâu là tay mình.
Anh tự hỏi tại sao. Có lẽ những biến đổi của cơ thể, nếu diễn ra âm ỉ, thường không được bộ não ghi nhận thường xuyên cho đến khi sự chênh lệch đạt đến một độ lớn tới hạn. Hoặc có lẽ vượt quá điểm tới hạn đó.
Phải chăng như vậy có nghĩa ta luôn thấy những thứ thân thuộc dưới một hình ảnh có chút ít khác biệt so với bản chất lâu nay của chúng? Phải chăng ta vướng mắc với quá khứ không phải đơn giản do hoài niệm hay hoài vọng mà do một lối tắt xử lý dữ liệu nào đó trong hệ thống dây thần kinh? Nếu những gì ta ‘thấy’ một phần do dây thần kinh thị giác cung cấp và một phần đến từ ký ức – nghĩa là, nếu những gì ta ‘nhận thức’ ở một thời điểm bất kỳ thật sự chỉ là sự hợp thể giữa ấn tượng hiện tại và ấn tượng được lưu trữ – thì nó sẽ mang đến một ý nghĩa mới cho khái niệm ‘sống trong quá khứ’. Quá khứ do đó sẽ thực thi ách chuyên chế riêng biệt đối với hiện tại bằng cách cung cấp cho ta những dữ liệu lỗi thời dưới lớp áo ‘cảm giác từ các giác quan’. Phải chăng điều đó liên quan đến hoàn cảnh của một kẻ giết người hàng loạt bị thúc đẩy bởi một chấn thương cách đây đã lâu? Cách nhìn của hắn có thể lệch lạc đến đâu?
Giả thuyết ấy làm anh hứng thú trong chốc lát. Việc tìm ra được một ý tưởng mới, thử nghiệm sự vững chắc của nó, luôn làm anh cảm thấy bản thân làm chủ tình hình hơn một chút, đầy sức sống hơn một chút, nhưng hôm nay những cảm giác đó thật khó duy trì. Thiết bị GPS cảnh báo với anh còn hơn ba trăm mét nữa là đến nút rẽ Wycherly.
Thoát ra nút rẽ, đến cuối đoạn đường anh rẽ phải. Khu vực quanh đây là một sự hỗn tạp toàn ruộng đồng, nhà theo lô, khu mua sắm theo dãy, và bóng ma của những thú vui vào hạ từ một thời đại đã xa: một rạp chiếu bóng ngoài trời tiêu điều, một biển hiệu chỉ đến một hồ nước có cái tên đậm chất Iroquois.
Nó làm anh nghĩ đến một hồ nước khác có cái tên nghe đậm chất Anh Điêng – một hồ nước có lối mòn vòng quanh mà anh và Madeleine đã bộ hành cuối tuần nọ trong lúc đang kiếm tìm chốn hoàn hảo của hai người ở vùng Catskills. Anh có thể hình dung ra được gương mặt đầy sức sống của cô khi họ đứng trên đỉnh một vách đá khiêm tốn, nắm tay, tươi cười, nhìn ra nước hồ lăn tăn dưới gió nhẹ. Ký ức đó đến cùng một cảm giác tội lỗi chợt nhói trong lòng.
Anh vẫn chưa gọi cô để cho cô biết anh đang làm gì, đang đi đâu, những trì hoãn có thể khiến anh phải về trễ. Anh vẫn không chắc nên nói với cô ít nhiều thế nào. Anh có nên đề cập đến chuyện dấu bưu điện không? Anh quyết định gọi cho cô ngay, đành tùy cơ ứng biến. Xin Chúa giúp con nói đúng điều cần nói.
Trước mức độ căng thẳng đang có sẵn trong người, anh nghĩ nên tấp xe vào lề để gọi điện thoại. Chỗ đầu tiên mà anh tìm được là một khu vực để xe bẩn thỉu rải sỏi nằm trước một quầy nông sản đã đóng cửa để nghỉ đông. Từ khóa dùng để kích hoạt cuộc gọi đến số điện thoại nhà trong hệ thống bấm số bằng giọng nói là nhà, hiệu quả nhưng thiếu tính sáng tạo.
Madeleine trả lời sau tiếng chuông thứ hai bằng giọng nói lạc quan, niềm nở mà những cuộc điện thoại vốn luôn gợi mở nơi cô.
“Anh đây,” anh nói, giọng anh chỉ phản chiếu một phần nhỏ thứ ánh sáng trong giọng cô.
Có một khoảng lặng dài một nhịp, “Anh đang ở đâu vậy?”
“Anh gọi là vì vậy mà. Anh đang ở Connecticut, gần một thị trấn có tên Wycherly."
Câu hỏi hiển nhiên lẽ ra sẽ là, 'Sao anh lại ở đó?' Nhưng Madeleine không hỏi những câu hiển nhiên cô chờ đợi.
“Vụ án có tiến triển mới,” anh nói. “Mọi chuyện có lẽ sắp đến lúc gay go rồi.”
“Ra vậy.”
Anh nghe một tiếng thở chầm chậm, điềm tĩnh.
Anh đưa mắt ra ngoài cửa xe, nhìn trân trân quầy rau củ thiếu sức sống. Trông nó như bị bỏ hoang hơn là đóng cửa để nghỉ đông. “Kẻ chúng anh đang truy bắt càng lúc càng liều,” anh nói. “Có thể có cơ hội để chặn hắn lại.”
“Kẻ chúng anh đang truy bắt ư?” Giờ thì giọng cô như băng mỏng, rạn nứt ra từng đoạn.
Anh không nói gì, sửng sốt trước câu trả lời của cô.
Cô nói tiếp, không giấu vẻ giận dữ. “Lẽ nào anh muốn nói tới tên hung thủ khát máu, tên giết người hàng loạt, kẻ không bao giờ trượt mục tiêu – bắn người ta ở động mạch cổ và cứa cổ họ? Lẽ nào anh muốn nói tới kẻ đó?”
“Đó là… kẻ chúng anh đang truy bắt, đúng rồi.”
“Ở Connecticut không có đủ cảnh sát để lo liệu vụ này hay sao?”
“Có vẻ như hắn đang nhắm vào anh.”
“Cái gì?”
“Hình như hắn đã nhận ra anh là một người đang điều tra vụ này, và có thể hắn sẽ làm chuyện điên rồ cũng không chừng – nếu vậy chúng ta sẽ có cái thời cơ mà chúng ta cần. Đây là cơ hội để bọn anh đối đầu với hắn trực tiếp thay vì phải thu dọn hết án mạng này đến án mạng khác.”
“Cái gì?” Lần này cái từ ấy thốt ra nghe như lời cảm thán đau đớn hơn là một câu hỏi.
“Mọi chuyện sẽ ổn mà,” anh nói một cách thiếu thuyết phục. “Hắn sắp suy sụp rồi. Hắn sẽ tự hủy diệt. Chúng anh chỉ cần có mặt để chứng kiến thôi.”
“Nếu anh còn đi làm như lúc trước, thì anh buộc phải đến đó. Còn bây giờ anh không phải đến đó đâu.”
“Madeleine, Chúa ạ, anh là cảnh sát cơ mà!” Những lời này bật ra khỏi miệng anh như một chướng ngại vật bị phá vỡ. “Sao nói mãi mà em không hiểu cái quái gì là sao?”
“Không đâu, David,” cô trả lời điềm tĩnh. “Anh đã từng là cảnh sát thôi. Còn bây giờ anh đâu phải. Anh không cần phải đi đến đó.”
“Anh đến đó mất rồi.” Trong khoảng lặng tiếp sau đó, cơn giận của anh dịu lại như con sóng đang rút. “Không sao đâu mà. Anh biết anh làm gì mà. Không có chuyện xấu xảy ra đâu.”
“David à, anh có làm sao không vậy? Sao anh cứ phải đuổi theo mấy viên đạn đó làm gì? Đuổi theo mấy viên đạn cơ đấy? Đuổi cho đến lúc một viên đi xuyên qua đầu anh phải không? Đúng không hả? Có phải đó là kế hoạch bi đát trong suốt quãng đời của lại của chúng ta với nhau không? Em chỉ biết chờ, chờ, chờ anh bị giết thôi ư?” Giọng cô đứt quãng trước cảm xúc mạnh mẽ ở cái từ bị giết đến nỗi khiến anh phải lặng thinh.
Madeleine là người sau cùng lên tiếng – cô nói nhỏ đến nỗi anh chỉ suýt soát nghe được. “Toàn bộ mọi chuyện là sao?”
“Chuyện này là sao ư?” Câu hỏi ấy đánh vào anh từ một góc độ lạ lẫm. Anh cảm thấy mất thăng bằng. “Anh không hiểu câu hỏi của em.”
Sự lặng im cao độ cách cả trăm cây số của cô dường như vây quanh anh, ấn sâu vào người anh.
“Ý em là sao?” anh hỏi. Anh thấy nhịp tim đang nhanh dần.
Hình như anh nghe cô nuốt nước bọt. Anh cảm nhận được, bằng một cách nào đó biết được, cô đang cố đưa ra một quyết định. Khi cô trả lời anh, bằng một câu hỏi khác, cô nói cũng bằng cái giọng lí nhí khiến anh chỉ nghe loáng thoáng.
“Có phải là vì Danny không?”
Anh cảm thấy những mạch máu ở cổ mình, đầu mình, tay mình đang đập thình thịch.
“Cái gì cơ? Có liên quan gì đến Danny chứ?” Anh không muốn nghe câu trả lời, không muốn nghe vào lúc này, không muốn nghe khi anh đang có nhiều chuyện phải làm.
“Ôi, David à,” cô nói. Anh hình dung được cảnh cô đang lắc đầu buồn bã, quyết tâm theo đuổi đề tài khó nói nhất trong tất cả các đề tài. Một khi Madeleine đã mở ra một cánh cửa nào đó thì cô luôn luôn bước qua nó.
Cô hít vào một hơi yếu ớt rồi nói tiếp. “Trước khi Danny chết, công việc của anh là phần quan trọng nhất trong đời anh. Sau cái chết, nó đã trở thành phần duy nhất. Phần duy nhất đấy. Suốt mười lăm năm vừa qua anh chẳng làm gì khác ngoài công việc. Đôi khi em có cảm giác anh muốn chuộc lại chuyện gì đó, quên đi chuyện gì đó… giải quyết chuyện gì đó.” Sự chuyển điệu căng thẳng trong giọng cô làm cái từ ấy nghe như triệu chứng của một căn bệnh.
Anh cố gắng giữ vững vị trí bằng cách bám víu vào những dữ kiện sẵn có. “Anh đến Wycherly để giúp bắt kẻ đã giết Mark Mellery.” Anh nghe giọng anh như thuộc về một người nào khác – một người nào đó già cỗi, hoảng hốt, cứng nhắc – một người đang có tỏ ra mình lý trí.
Cô lờ đi những lời anh nói mà đi theo dòng tư duy của riêng mình. “Em đã hy vọng nếu chúng ta mở cái hộp ra, nhìn mấy bức vẽ nhỏ nhắn của con… chúng ta có thể cùng nhau nói lời tạm biệt con. Nhưng anh đâu nói câu tạm biệt được, phải vậy không? Anh có bao giờ nói tạm biệt được với thứ gì đâu.”
“Anh không hiểu em nói gì nữa,” anh phản đối. Nhưng đó không phải là sự thật. Khi họ sắp sửa rời thành phố dọn lên Walnut Crossing sống, Madeleine đã bỏ hàng giờ đồng hồ chào tạm biệt. Không chỉ tạm biệt hàng xóm mà còn tạm biệt cả nơi cũ, tạm biệt những thứ họ sẽ bỏ lại đằng sau, cả những chậu cây trong nhà. Chuyện đó làm anh bực dọc. Anh đã than phiền về sự đa cảm của cô, nói rằng nói chuyện với mấy món đồ vô tri là chuyện quái đản, phí thời gian, làm xao nhãng công việc, rằng làm vậy thì sự ra đi của họ chỉ càng khó khăn hơn mà thôi.
Nhưng chuyện không đơn giản như vậy. Hành vi của cô lúc đó chạm vào một thứ trong anh mà anh không muốn bị chạm vào – và bây giờ cô lại chạm ngón tay của mình vào thứ đó một lần nữa – cái phần không bao giờ muốn nói lời tạm biệt trong anh, không thể đối mặt với sự chia cắt.
“Anh cất thứ này thứ kia ra khỏi tầm nhìn của mình,” cô đang nói. “Nhưng mấy thứ đó có mất đi đâu, anh có thật sự buông bỏ chúng đâu. Anh phải nhìn vào chúng để buông bỏ chúng chứ. Anh phải nhìn vào cuộc đời Danny để buông bỏ cuộc đời nó. Nhưng rõ ràng anh không muốn làm vậy. Anh chỉ muốn… muốn gì nào, David? Gì nào? Chết, đúng không?” Có một khoảng lặng dài.
“Anh muốn chết,” cô nói. “Thật sự là vậy, đúng không?”
Anh nhận ra một cảm giác mông lung như thể mình đang đứng giữa tâm bão – một cảm xúc như chân không.
“Anh có việc phải làm.” Nói vậy thật vô vị, ngu ngốc, thật sự là vậy. Anh chẳng hiểu tại sao mình lại tốn công sức nói ra câu đó.
Có một khoảng lặng dài đằng đẵng.
“Không đâu,” cô nói, lại nuốt nước bọt. “Anh không cần phải làm như thế này mãi đâu.” Rồi, loáng thoáng, anh nghe cô nói tiếp, một cách tuyệt vọng, “Hoặc có lẽ không phải vậy. Chắc em chỉ hy vọng vậy thôi.”
Anh lặng đi không biết nói gì, không biết nghĩ gì.
Anh ngồi đó một lúc lâu, miệng khép hờ, hơi thở ngắn và dồn dập. Điện thoại mất kết nối lúc nào anh không biết. Trong sự hỗn loạn trống rỗng anh chờ đợi một ý nghĩ xuất hiện để bình tâm lại, một ý nghĩ khả thi nào đó.
Nhưng đến với anh lại là một cảm giác lạ lẫm và bi thiết – cái ý nghĩ rằng ngay tại thời điểm này, đúng lúc anh và Madeleine đã cạn kiệt cảm xúc, hoảng sợ vô chừng, thì họ lại cách xa nhau cả trăm cây số, ở hai bang khác nhau, lọt vào giữa không gian trống rỗng, giữa sóng điện thoại di động.
Anh cũng sực nhớ lại chuyện anh đã quên nói, đã không bộc lộ với cô. Anh vẫn chưa nói một lời nào về sự xuẩn ngốc liên quan đến dấu bưu điện của mình, chưa nói đến khả năng dấu bưu điện sẽ chỉ cho tên hung thủ biết nơi họ đang sống, chưa nói sơ suất của anh cũng do đầu óc chỉ chăm chăm vào điều tra của mình mà ra. Đến cùng với suy nghĩ đó là một tiếng vọng ghê gớm từ quá khứ, khi anh nhận ra cũng vì thế, vì mải bận tâm nghĩ cách phá một vụ án mười lăm năm trước mà anh đã trở thành một trong những tác nhân gây ra cái chết của Danny – hoặc có lẽ là nguyên nhân tối hậu gây ra cái chết ấy. Madeleine đã rất xuất sắc khi nối kết cái chết đó với điều đang lởn vởn trong tâm trí anh lúc này. Xuất sắc, anh phải thừa nhận, và sắc bén đến mức đáng sợ.
Anh cảm thấy cần phải gọi lại cho cô, thừa nhận lỗi lầm – thừa nhận nguy cơ anh đã tạo ra – cảnh báo cho cô biết. Anh quay số nhà, chờ đợi giọng nói hoan nghênh ấy. Chuông reng, reng, reng, reng. Rồi anh nghe giọng để lại lời nhắn của mình – hơi cứng một chút, gần như nghiêm nghị, hầu như chẳng có vẻ hoan nghênh – rồi tiếng bíp.
“Madeleine? Madeleine em có đó không? Nếu có thì làm ơn bắt máy đi.” Anh cảm thấy choáng váng tận tâm can. Anh không nghĩ được phải nói gì trong một tin nhắn dài một phút, phải nói gì mà không gây ra thiệt hại nhiều hơn là ngăn ngừa thiệt hại, phải nói gì mà không gây ra hoảng sợ và bối rối. Rốt cuộc anh chỉ nói, “Anh yêu em. Nhớ cẩn thận. Anh yêu em.” Rồi có thêm một tiếng bíp, và một lần nữa kết nối bị ngắt.
Anh ngồi xuống, nhìn trân trân quầy rau củ tiêu điều, trong lòng nhức nhối và rối bời. Anh cảm thấy mình có thể ngủ suốt tháng cũng được, hoặc ngủ mãi mãi. Mãi mãi – là tốt nhất. Nhưng như vậy thật vô nghĩa. Đó chính là lối tư duy nguy hiểm khiến những người đàn ông mệt mỏi ở Bắc Cực nằm xuống trên tuyết để lạnh cóng đến chết. Anh phải lấy lại sự tập trung.. Tiếp tục tiến bước. Đẩy bản thân về phía trước. Từng chút một, những suy nghĩ của anh bắt đầu tụ lại quanh nhiệm vụ dang dở đang chờ anh hoàn thành. Có việc phải làm ở Wycherly. Có một tên điên phải bắt giữ. Có nhiều mạng sống phải cứu. Mạng của Gregory Dermott, mạng của anh, có lẽ cả mạng của Madeleine nữa. Anh nổ máy xe và lái đi.
Thiết bị GPS rốt cuộc đưa anh đến một địa chỉ thuộc vùng ngoại ô có kiến trúc thời thuộc địa xoàng xĩnh, nằm tách biệt hẳn trên một lô đất quá cỡ trên một con đường phụ ít xe và không có vỉa hè. Một bờ giậu trắc bá diệp cao ngất, rậm rạp cho người ta cảm giác riêng tư chạy dọc bên trái, đằng sau, và bên phải nhà. Một bờ giậu hoàng dương cao tới ngực chạy ngang qua mặt tiền nhà, trừ lối vào dành cho ô tô. Xe cảnh sát nằm khắp nơi – Gurney ước tính có hơn chục chiếc – nằm đậu khắp ngõ ngách của bờ giậu, cản trở một phần đường lộ. Hầu hết các xe đều mang phù hiệu Sở Cảnh sát Wycherly. Ba xe không có phù hiệu nhưng có bộ phận chớp đèn di động trên bảng điều khiển. Thiếu vắng thấy rõ là xe cảnh sát bang Connecticut – nhưng có lẽ cũng không có gì đáng ngạc nhiên. Mặc dù đây không phải là cách thức thông minh hay hiệu quả nhất, nhưng anh hiểu được là sở cảnh sát địa phương luôn muốn duy trì quyền kiểm soát khi nạn nhân là người thuộc địa phận của họ.
Khi Gurney tiến chầm chậm đến một mảng cỏ rậm rạp ở mép con đường nhựa, một cảnh sát trẻ cao lớn mặc sắc phục đang một tay chỉ theo một lộ trình vòng quanh những chiếc xe tuần tiễu đang đậu, tay kia gấp gáp ra dấu cho Gurney đi khỏi khu vực anh định đậu xe. Gurney ra khỏi xe và xuất trình thẻ căn cước khi anh cảnh sát khổng lồ ấy tiến đến gần với vẻ mặt căng thẳng, môi mím chặt. Cơ cổ đầy đặn của anh ta, xung đột với cái cổ áo nhỏ hơn một cỡ rưỡi, dường như chạy dài lên tận gò má.
Anh ta xem tấm thẻ trong ví Gurney một lúc lâu, càng xem càng không hiểu, rồi cuối cùng tuyên bố, “Trên đây ghi là bang New York mà.”
“Tôi đến đây để gặp trung úy Nardo,” Gurney nói.
Anh cảnh sát nhìn anh chằm chằm, căng thẳng như cơ ngực đang căng phần áo trước ngực lên, rồi nhún vai. “Bên trong.”
Nằm dưới lối ô tô chạy dài, trên một cây cột cao bằng cột hộp thư là một tấm biển kim loại màu be mang dòng chữ đen: HỆ THỐNG BẢO MẬT GD. Gurney cúi xuống để đi qua hàng dây vàng dường như được chăng khắp toàn bộ trang viên. Lạ thay, khi hàng dây sượt qua cổ anh, chính sự lạnh lẽo của nó đã chuyển sự chú ý của anh lần đầu tiên trong ngày từ những ý nghĩ loạn xạ trong đầu sang thời tiết lúc này. Trời lạnh buốt, xám xịt, không chút gió. Từng mảng tuyết, trước đó đã tan và đóng băng lại, nằm dưới bóng cây hoàng dương và trắc bá diệp. Dọc theo lối ô tô có nhiều mảng băng đen lấp đầy những hố cạn trên mặt đường tráng nhựa.
Đính vào chính giữa cửa trước là một phiên bản rõ hơn của hàng chữ Hệ thống Bảo mật GD. Dán bên cạnh cửa là một tấm nhãn nhỏ cho biết căn nhà được hệ thống báo động Axxon Silent Alarms bảo vệ. Khi anh đến bậc thềm bằng gạch của hàng hiên có cột ở cửa trước, cánh cửa trước mặt anh mở ra. Chẳng phải một cử chỉ hoan nghênh. Người đàn ông mở cửa bước ra và đóng cửa lại sau lưng. Anh ta chỉ để ý đến sự có mặt của Gurney qua tầm nhìn ngoại biên của mình khi đang nói lớn tiếng một cách cau có vào điện thoại di động. Anh ta ngoài 40, có thể hình rắn chắc của một vận động viên, một khuôn mặt cứng cỏi và đôi mắt giận dữ, sắc bén. Anh ta mặc một chiếc áo gió đen với chữ CẢNH SÁT lớn màu vàng ngang lưng.
“Anh nghe tôi được chưa?” Anh ta bước ra khỏi sân hiên, đi đến bãi cỏ nhạt màu bị héo rũ do sương tuyết. “Anh nghe tôi được chưa?… Tốt rồi. Tôi nói tôi cần một kỹ thuật viên nữa đến ngay hiện trường càng sớm càng tốt… Không, không được. Tôi cần ngay bây giờ cơ… Ngay bây giờ, trước khi trời tối. Tôi nói rõ là B-Â-Y G-I-Ờ. Anh không hiểu chỗ nào của từ đó hả?… Tốt. Cảm ơn.”
Anh ta ấn nút hoàn tất cuộc gọi trên điện thoại đoạn lắc đầu. “Ngu bỏ mẹ.” Anh ta nhìn Gurney. “Anh là tên quái nào đây?”
Gurney không phản ứng lại giọng điệu hùng hổ đó. Anh hiểu nó đến từ đâu. Ở những nơi có cảnh sát bị giết luôn có bầu không khí cao độ về cảm xúc – một thứ cảm xúc giận dữ bầy đàn khó có thể kiểm soát. Vả lại, anh nhận ra giọng nói của người đã phái viên cảnh sát ấy đến nhà Dermott – chính là John Nardo.
“Tôi là Dave Gurney đây, thưa trung úy.”
Nardo dường như đang nghĩ nhanh nhiều chuyện, nhưng đa số đều tiêu cực. Anh ta chỉ nói, “Anh đến đây làm gì?”
Câu hỏi thật đơn giản. Anh không rõ mình có biết một phần nhỏ nhoi của câu trả lời hay không. Anh quyết định chọn phương án ngắn gọn. “Hắn nói muốn giết Dermott và tôi. Dermott thì ở đây rồi. Giờ thì tôi đến đây. Vậy là toàn bộ con mồi mà tên khốn đó muốn rồi. Có lẽ hắn sẽ đi nước cờ tiếp theo và chúng ta sẽ kết thúc vụ này.”
“Anh nghĩ vậy à?” Giọng điệu của Nardo đầy rẫy sự thù địch bâng quơ.
“Nếu anh muốn,” Gurney nói, “tôi có thể cập nhật cho anh biết quá trình điều tra vụ này từ phía chúng tôi, rồi anh có thể cho tôi biết phía các anh đã phát hiện ra được gì.”
“Tôi phát hiện ra được gì ở đây ư? Tôi phát hiện thấy anh cảnh sát mà tôi phái đến căn nhà này theo yêu cầu của anh đã chết. Gary Sissek. Trước lúc nghỉ hưu hai tháng. Tôi phát hiện thấy đầu ảnh gần như bị cứa sứt ra bằng một cái chai uýt ki bể. Tôi phát hiện một cặp ủng dính máu bên cạnh một cái ghế sân vườn khốn kiếp đằng sau bờ giậu đó.” Anh ta vẫy tay hơi loạn xạ về phía sau căn nhà. “Dermott chưa bao giờ thấy cái ghế đó trước đây. Hàng xóm của ông ấy cũng chưa bao giờ. Vậy thì cái ghế khốn kiếp đó ở đâu ra? Có phải cái thằng điên khốn nạn này mang theo không?”
Gurney gật đầu. “Theo tình hình thì câu trả lời có lẽ là phải. Có vẻ như đây là một phần trong phương thức gây án có một không hai của hung thủ. Giống như chai uýt ki vậy. Có phải uýt ki hiệu Bốn Hoa Hồng không?”
Nardo nhìn anh trân trân, thoạt đầu ngây ra, như thể thông điệp Gurney truyền tải có một gián đoạn nhỏ. “Chúa ạ,” anh ta nói. “Anh nên vào trong đây thì hơn.”
Cánh cửa dẫn đến một hành lang trung tâm rộng lớn và trơ trọi. Không đồ đạc, thảm lót, tranh ảnh trên tường, chỉ có một bình chữa cháy và vài thiết bị báo cháy. Cuối lối hành lang là cửa sau – Gurney nghĩ có lẽ bên kia cửa sau là chỗ hàng hiên nơi Gregory Dermott phát hiện xác của người cảnh sát sáng hôm ấy. Những giọng nói lẫn lộn ngoài sân cho thấy đội xử lý hiện trường vẫn đang bận rộn ở sân sau.
“Dermott đâu?” Gurney hỏi.
Nardo đưa ngón tay cái lên trần nhà. “Trong phòng ngủ. Đau nửa đầu vì căng thẳng, cơn đau làm ông ấy muốn buồn nôn. Tâm trạng ông ấy không tốt. Đã tệ như vậy trước khi điện thoại gọi đến nói ông ấy là người tiếp theo, nhưng rồi sau đó… Chúa ạ.”
Gurney có nhiều câu muốn hỏi, rất nhiều, nhưng xem ra tốt hơn hết là để Nardo thiết lập nhịp độ. Anh nhìn quanh xem tầng trệt có gì. Qua một chỗ cửa bên phải là một căn phòng lớn có tường trắng và sàn gỗ trơn. Chừng gần chục chiếc máy tính nằm cạnh nhau trên một chiếc bàn dài ngay giữa phòng. Điện thoại, máy fax, máy in, máy quét, ổ đĩa cứng phụ trợ, và những thiết bị ngoại vi khác phủ đầy một chiếc bàn dài khác nằm sát bức tường ở xa. Trên bức tường ở xa còn có một bình chữa cháy nữa. Thay cho thiết bị báo cháy là một hệ thống chữa cháy tự động gắn sẵn trên trần nhà. Chỉ có hai cửa sổ, quá nhỏ so với không gian nơi đây, một cửa sổ đằng trước và một cửa sổ đằng sau, làm căn phòng dù được sơn trắng cũng cho người ta cái cảm giác họ đang đi trong đường hầm.
“Ổng điều hành công ty tin học của ổng dưới này và sinh hoạt trên lầu. Ta sẽ dùng phòng kia,” Nardo vừa nói vừa chỉ một chỗ cửa dọc hành lang. Tương tự như căn phòng trước, căn phòng này cũng không hấp dẫn và chỉ có chức năng đơn thuần là để ở. Nó dài bằng nửa phòng kia và chỉ có cửa sổ một bên phòng, nên trông giống một hang động hơn là hầm. Vào phòng, Nardo bật một công tắc trên tường lên, và bốn ngọn đèn thụt trong hốc trần biến hang động này thành một chiếc hộp trắng sáng chứa nhiều tủ hồ sơ sát một vách tường, một chiếc bàn có hai máy vi tính sát một vách tường khác, một chiếc bàn có máy pha cà phê và một lò vi ba sát vách tường thứ ba, và một chiếc bàn vuông trống trơn cùng hai chiếc ghế ở giữa phòng. Căn phòng có hệ thống chữa cháy tự động lẫn thiết bị báo cháy, làm Gurney nhớ đến một phiên bản sạch sẽ hơn của căn phòng giải lao ảm đạm ở địa bàn cuối cùng mà mình từng quản lý. Nardo ngồi vào một ghế và ra hiệu cho Gurney ngồi vào ghế kia. Anh ta xoa bóp hai bên thái dương một lúc lâu, như muốn tống sự căng thẳng ra khỏi đầu. Từ cặp mắt của anh ta, có thể thấy làm vậy không có tác dụng.
“Tôi chẳng tin cái thứ ‘mồi nhử’ vớ vẩn đó đâu,” anh ta nói, mũi nhăn lại như thể cái từ mồi nhử có mùi hôi thối.
Gurney mỉm cười. “Đúng một phần thôi.”
“Còn phần còn lại?”
“Tôi không rõ.”
“Anh đến đây để trở thành người hùng thứ thiệt hả?”
“Tôi không nghĩ vậy. Tôi có cảm giác đến đây sẽ có ích.”
“Vậy sao? Nếu tôi không có chung cảm giác đó thì sao?”
“Đây là tiết mục của anh mà trung úy. Anh muốn tôi về nhà thì tôi về nhà.”
Nardo lại ném cho anh một cái nhìn hoài nghi một lúc lâu. Trông anh ta ra chiều rốt cuộc đã đổi ý, ít ra là miễn cưỡng đổi ý. “Cái chai hiệu Bốn Hoa Hồng nằm trong phương thức gây án hả?”
Gurney gật đầu.
Nardo hít vào một hơi sâu. Trông anh ta như đang đau nhức khắp mình mẩy. Hoặc là cả thế giới đang đau nhức. “Được rồi, anh thanh tra. Chắc anh nên kể cho tôi nghe những chuyện anh chưa kể thì hơn.”