Chương 48 Căn Nhà Có Một Lịch Sử
Gurney kể về những dấu chân đi ngược trên tuyết, về những bài thơ, giọng nói không tự nhiên trên điện thoại, về hai trò đoán số gây bất an, về lý lịch nghiện rượu của các nạn nhân, chuyện tinh thần họ bị tra tấn, chuyện hung thủ thách thức cảnh sát nhiều lần, chữ 'REDRUM' sơn trên tường và ‘ông bà Scylla’ đăng ký thuê phòng ở khu trọ The Laurels, sự thông minh và ngạo mạn của hung thủ. Anh tiếp tục cung cấp chi tiết từ ba vụ giết người mà anh biết cho đến khi nhịp chú ý của Nardo ra chiều sắp đạt đến điểm gãy. Lúc đó anh mới kết luận một điều mà mình cho là quan trọng nhất.
“Hắn muốn chứng minh hai chuyện. Thứ nhất, hắn có quyền năng kiểm soát và trừng trị những tay bợm rượu. Thứ hai, cảnh sát là những thằng ngu không có năng lực. Tội ác của hắn cố tình được dựng lên như những trò chơi phức tạp, như những câu đố nát óc. Hắn rất thông minh, tỉ mỉ, đầu óc luôn bị ám ảnh. Cho đến giờ hắn chưa bao giờ sơ suất để lại dấu tay, tóc, nước bọt, sợi vải, hay dấu chân vô ý nào. Hắn chưa phạm sai lầm nào để chúng ta tìm ra cả. Sự thật thì ta biết rất ít về hắn, phương thức của hắn, động cơ của hắn, tất cả đều là những thứ hắn không muốn tiết lộ cho ta biết. Trừ một ngoại lệ.”
Nardo nhướng một bên lông mày, vẻ mệt mỏi nhưng tò mò.
“Một nữ bác sĩ tên Holdenfield, tác giả của nghiên cứu mới nhất về hiện tượng giết người hàng loạt, tin rằng hắn đã đạt đến một giai đoạn tối hạn trong quá trình gây án và sắp sửa gây ra một thứ biến cố mang tính cao trào.”
Cơ hàm của Nardo giần giật. Anh ta nghẹn ngào nói.
“Nghĩa là việc anh bạn của tôi bị giết trên thềm nhà chỉ mới là khai cuộc thôi ư?”
Đây không phải là kiểu câu hỏi mà người ta có thể trả lời hoặc nên trả lời. Hai người ngồi yên lặng cho đến khi một tiếng động nhẹ, có lẽ là một hơi thở không đều, làm họ đồng loạt chuyển sự chú ý đến chỗ cửa. Không hợp với sự xuất hiện lén lút như thế, đó chính là gã khổng lồ bự con như một tuyển thủ bóng bầu dục trước đó đã gác ở chỗ cửa. Trông anh ta như đang bị khoan răng.
Nardo biết có chuyện xảy ra. “Gì hả Tommy?”
“Họ đã tìm ra được nơi ở của vợ Gary rồi.”
“Ồ, Chúa ạ. Được rồi. Cô ấy đâu?”
“Đang từ ga ra tỉnh về nhà. Cô ấy lái xe buýt Head Start[24] đưa đón học sinh.”
“Phải. Phải. Ôi, chó chết thật. Đáng lẽ tôi phải đích thân đi, nhưng bây giờ tôi không đi được. Tay cảnh sát trưởng đang ở cái nơi chó chết nào thế? Có ai tìm được lão chưa?”
“Lão đang ở Cancún.”
“Tôi biết lão đang ở cái nơi Cancún khỉ gió đó chứ. Tôi muốn hỏi là, vì lý do chó chết gì mà lão không kiểm tra tin nhắn vậy hả?” Nardo hít vào một hơi dài rồi nhắm mắt lại. “Hacker và Picardo – hai người đó có lẽ là thân thiết với gia đình nhất. Chẳng phải Picardo là anh họ của người vợ hay sao? Phái Hacker và Picardo tới đi. Chúa ạ. Nhưng kêu Hacker đến gặp tôi trước đã.”
Tay cảnh sát trẻ khổng lồ cất bước, lúc đi cũng yên lặng như lúc đến.
Nardo lại hít vào một hơi dài. Anh ta mở miệng nói như thể vừa mới bị đá vào đầu và hy vọng nói chuyện sẽ giúp mình thông thoáng đầu óc. “Vậy anh muốn nói là tất cả bọn họ đều nghiện rượu chứ gì. Nhưng Gary Sissek có nghiện rượu đâu, vậy tức là sao?”
“Anh ta là cảnh sát. Như vậy chắc cũng đủ rồi. Hoặc có lẽ anh ta đã cản đường một cuộc tấn công có kế hoạch nhằm vào Dermott cũng nên. Hoặc có lẽ còn có mối liên quan khác nữa.”
“Mối liên quan khác nào chứ?”
“Tôi không biết.”
Cửa sau đóng sập, tiếng bước chân giục giã tiến đến gần, và một người đàn ông gân guốc mặc thường phục xuất hiện ở cửa. “Anh muốn gặp tôi phải không?”
“Phiền anh quá, nhưng tôi muốn anh và Picardo…”
“Tôi biết rồi.”
“Ừ. Tốt. Thông tin đơn giản thôi. Càng đơn giản càng tốt. ‘Bị đâm trí mạng trong khi bảo vệ nạn nhân là mục tiêu của một vụ tấn công. Chết như một người hùng.' Đại loại vậy đó. Ý tôi là, không cần chi tiết khủng khiếp gì hết, không có máu me gì cả. Anh hiểu tôi muốn nói gì không? Nếu cần thì sẽ bổ sung chi tiết sau. Còn bây giờ…”
“Tôi hiểu mà sếp.”
“Tốt. Nè, tôi rất tiếc không tự tay làm được. Tôi thật sự không đi đâu được hết. Nói với cô ấy tối nay tôi ghé nhà.”
“Vâng, thưa sếp.” Người đàn ông dừng bước ở chỗ cửa cho đến khi đoan chắc Nardo không còn gì khác để nói, rồi đều bước giục giã đi như lúc tới và đóng cửa hậu sau lưng lại, lần này lại nhẹ nhàng hơn.
Một lần nữa Nardo ép sự chú ý trở lại cuộc nói chuyện với Gurney. “Tôi có bỏ sót thông tin gì không, hay cách hiểu của anh về vụ án này mang khá nhiều tính lý thuyết chăng? Ý tôi nói, nếu tôi không lầm thì tôi chẳng nghe ai nói gì về danh sách nghi can cả – thật ra thì không có manh mối cụ thể nào để lần theo cả, phải vậy không?”
“Ít nhiều là vậy.”
“Và một mớ vật chứng khốn nạn đó – phong bì, giấy viết thư, mực đỏ, ủng, chai bể, dấu chân, đoạn ghi âm cuộc gọi, hồ sơ truyền dữ liệu điện thoại di động, séc bị trả lại, kể cả tin nhắn viết bằng chất nhờn trên da từ đầu ngón tay tên điên khốn nạn này – không có thứ gì dẫn đến đâu cả ư?”
“Đó là một cách nhìn.”
Nardo lắc đầu bằng một phong cách đang dần trở thành thói quen. “Tóm lại, anh không biết phải tìm ai, hay tìm bằng cách nào, đúng chưa?”
Gurney mỉm cười. “Nên chắc vì vậy mà tôi đến đây.”
“Sao vậy?”
“Bởi vì tôi chẳng biết phải đi đâu nữa.”
Đây là lời thú nhận đơn giản về một sự thật đơn giản. Sự thỏa mãn về mặt trí tuệ khi hiểu ra được những chi tiết chiến thuật trong phương thức gây án của tên hung thủ chẳng qua cũng chỉ là một cách đánh lạc hướng khỏi sự bế tắc trong việc giải quyết vấn đề trọng tâm, điều này vừa được Nardo giản dị nói ra. Gurney phải đối mặt với sự thật là, mặc dù anh đã thấu suốt về những bí ẩn ngoài lề của vụ án, nhưng quãng đường cần đi để tìm và bắt giữ tên hung thủ vẫn còn xa xăm như thể anh vẫn còn ở điểm xuất phát vào buổi sáng hôm Mark Mellery mang mấy bức thư rối rắm đầu tiên đến cầu cứu anh.
Có một sự thay đổi nhỏ trong nét mặt của Nardo, nét mặt cau có đã dịu bớt.
“Ở Wycherly chúng tôi chưa bao giờ có án mạng cả,” anh ta nói. “Dù sao thì cũng không có án mạng thật sự. Vài vụ giết người được giảm án thành ngộ sát, vài vụ tai nạn giao thông chết người, một tai nạn săn bắn đáng nghi vấn. Chưa bao giờ có vụ giết chóc nào ở đây mà không liên quan đến ít nhất một tay ngu si say quắc cần câu cả. Ít ra là trong vòng 24 năm qua chưa có vụ nào như vậy.”
“Đó là khoảng thời gian anh còn công tác đến giờ ư?”
“Ừ. Anh bạn duy nhất trong sở có thâm niên hơn tôi là… trước đây là… Gary. Thiếu chút nữa là ảnh đã làm việc ở đây được 25 năm rồi. Vợ ảnh muốn ảnh làm hai mươi năm thôi rồi ra khỏi ngành được rồi, nhưng ảnh tính toán thấy nếu ở thêm 5 năm nữa thì… Đúng là khốn nạn mà!” Nardo chùi hai mắt. “Chúng tôi có tổn thất bao nhiêu cảnh sát đang làm nhiệm vụ đâu chứ,” anh ta nói, như thể nước mắt của anh ta đòi hỏi một lời giải thích hợp lý.
Gurney rất muốn nói bản thân anh hiểu được cảm giác mất đồng nghiệp như thế nào. Anh đã mất đi hai đồng nghiệp trong một cuộc bố ráp đột nhiên trở xấu. Nhưng anh không nói ra mà chỉ lắc đầu cảm thông.
Sau khoảng một phút, Nardo hắng giọng. “Anh có hứng thú nói chuyện với ông Dermott không?”
“Có chứ. Tôi chỉ không muốn làm vướng tay vướng chân anh thôi.”
“Không đâu,” Nardo nói lớn tiếng – Gurney nghĩ, có lẽ là để bù lại cho khoảnh khắc yếu đuối của mình. Rồi anh ta nói thêm bằng một giọng bình thường hơn. “Anh nói chuyện với tay này trên điện thoại rồi phải không?”
“Phải.”
“Vậy anh ta biết anh là ai rồi.”
“Phải.”
“Vậy anh không cần tôi vào phòng chung nữa. Anh nói xong chỉ cần nói lại cho tôi biết là được.”
“Anh nói sao thì tôi nghe vậy mà trung úy.”
“Cửa nằm bên phải đầu cầu thang. May mắn nhé.”
Khi bước lên bậc thang làm bằng gỗ sồi thô, Gurney tự hỏi không biết tầng hai có tiết lộ tính cách người chủ của nó hơn tầng một không. Tầng một không có sự ấm cúng hay phong cách trang nhã gì hơn những trang thiết bị vi tính chứa trong đó. Đầu cầu thang lặp lại mô típ bảo mật trù bị được thiết lập dưới lầu: một bình chữa cháy trên tường, một thiết bị báo cháy và hệ thống chữa cháy tự động trên trần. Gurney có cảm tưởng Gregory Dermott nhất định là một tay cẩn tắc vô ưu. Anh gõ cánh cửa mà Nardo đã chỉ.
“Gì vậy ạ?” Câu trả lời nghe đau đớn, khàn khàn, sốt ruột.
“Thanh tra đặc biệt Gurney đây, anh Dermott. Tôi gặp anh một chút được không?”
Có một khoảng lặng. “Gurney ư?”
“Dave Gurney. Chúng ta đã nói chuyện qua điện thoại rồi.”
“Mời vào.”
Gurney mở cửa bước vào một căn phòng tăm tối có mái rèm đóng hờ. Phòng có một chiếc giường, một chiếc bàn cạnh giường, một tủ quần áo, một chiếc ghế bành, một chiếc bàn làm việc như bàn thường nằm sát vách tường, trước tường là một chiếc ghế xếp. Gỗ đều sẫm một màu. Phong cách rất đương đại, sang trọng bề ngoài. Khăn trải giường và thảm có màu xám, nâu vàng, nhìn kỹ thực chất là không màu. Trong phòng là một người đang ngồi đối diện cửa trong chiếc ghế bành. Y ngồi nghiêng một chút về một bên, như đã tìm được một vị trí an tọa lạ lùng để làm giảm cơn đau nhức. Quan sát cái cá tính nằm dưới phong thái đó, Gurney cảm thấy y là tay chuyên viên thuộc loại thường gặp trong ngành vi tính. Dưới ánh sáng yếu ớt, tuổi y khó xác định hơn. Ba mươi mấy có lẽ là con số hợp lý.
Sau khi nhìn ngắm những đặc điểm trên khuôn mặt Gurney như muốn tìm ra trong đó câu trả lời cho câu hỏi, y nhỏ giọng hỏi, “Họ có nói anh biết chưa?”
“Nói cái gì?”
“Chuyện cuộc gọi ấy đấy… từ tên hung thủ điên khùng ấy.”
“Tôi có nghe. Ai trả lời điện thoại vậy?”
“Trả lời ư? Chắc một anh cảnh sát nào đó. Một anh đến bảo tôi nghe điện thoại.”
“Người gọi hỏi đích danh tên anh để xin nói chuyện ư?”
“Chắc vậy… tôi không biết nữa… Ý tôi nói, chắc vậy chứ sao nữa. Anh cảnh sát nói điện thoại của tôi mà.”
“Giọng người gọi có nghe quen chút nào không?”
“Giọng không bình thường.”
“Không bình thường là thế nào?”
“Điên lắm cơ. Lên lên xuống xuống, cao như giọng đàn bà, rồi thấp lại. Giọng điên lắm. Giống như vừa nghiêm túc vừa đùa cợt làm người ta sởn cả gai ốc.” Y ấn đầu ngón tay vào hai bên thái dương. “Hắn nói tiếp theo là tôi, sau đó là anh.” Trông y cáu tiết nhiều hơn hoảng sợ.
“Có âm thanh nền gì không?”
“Có gì cơ?”
“Anh có nghe tiếng gì khác ngoài giọng nói của người gọi không? Tiếng nhạc, xe cộ, tiếng nói khác chẳng hạn?”
“Không. Không có tiếng gì khác.”
Gurney gật đầu, mắt đảo quanh phòng. “Tôi ngồi xuống không phiền anh chứ?”
“Gì hả? Không phiền đâu, mời ngồi.” Dermott quơ tay chỉ khắp phòng như thể ở đây không thiếu ghế.
Gurney ngồi trên mép giường. Anh có cảm giác rất rõ là Gregory Dermott đang nắm giữ chìa khóa phá án. Có điều anh phải nghĩ cho ra câu hỏi đúng để hỏi. Phải nghĩ ra đề tài đúng để nêu ra. Mặt khác, đôi khi thứ thích hợp cần nói lại là không nên nói gì cả. Tạo ra sự yên lặng, một khoảng không trống rỗng, rồi quan sát xem đối phương sẽ làm gì để lấp vào cái khoảng không đó. Anh ngồi nhìn trân trân tấm thảm một lúc lâu. Đây là phương pháp đòi hỏi kiên nhẫn. Nó cũng đòi hỏi khả năng phán đoán nhanh nhạy để biết khi nào thì im lặng thêm chỉ làm lãng phí thời gian. Anh sắp tiến gần đến điểm đó thì Dermott lên tiếng.
“Tại sao lại là tôi chứ?” Giọng nói nghe cáu kỉnh, bực dọc – một lời phàn nàn, không phải câu hỏi – Gurney quyết định không đáp lại.
Sau vài giây, Dermott nói tiếp, “Tôi nghĩ có lẽ liên quan đến căn nhà này.” Y ngừng một chập. “Cho tôi hỏi anh chuyện này, anh thanh tra. Anh có quen riêng ai ở Sở Cảnh sát Wycherly không?”
“Không.” Anh rất muốn hỏi lý do tại sao Dermott lại hỏi vậy nhưng nghĩ nếu hỏi thì chẳng bao lâu y sẽ phát hiện ra ý đồ của anh.
“Không quen ai hết, từ trước đến giờ?”
“Không quen ai hết.” Thấy được trong mắt Dermott có điều gì đó vẻ như muốn đòi hỏi anh khẳng định thêm, anh nói tiếp, “Lúc chưa thấy chỉ dẫn gửi séc trong lá thư gửi cho Mark Mellery, tôi còn chưa biết Wycherly tồn tại nữa là.”
“Và chưa ai kể cho anh nghe chuyện gì đã xảy ra trong ngôi nhà này sao?”
“Xảy ra ư?”
“Trong ngôi nhà này. Cách đây đã lâu.”
“Chưa,” Gurney hứng thú nói.
Sự khó ở của Dermott dường như vượt quá hiệu ứng của một cơn đau đầu.
“Chuyện gì đã xảy ra thế?”
“Tôi nghe người khác nói lại thôi,” Dermott nói, “nhưng tôi vừa mua căn nhà này xong thì một người hàng xóm kể cho tôi nghe là cách đây chừng hai mươi năm, ở đây có một cuộc ẩu đả khủng khiếp – hình như là một cặp vợ chồng thì phải, bà vợ bị đâm."
“Và anh thấy chuyện này có liên quan đến…?”
“Có thể chỉ là trùng hợp thôi, nhưng mà..”
“Sao hả?”
“Đúng ra tôi quên gần hết rồi. Hôm nay mới nhớ ra. Sáng nay, khi tôi phát hiện…” Môi y bè ra như phải cơn nôn mửa nào đó.
“Anh cứ từ từ mà kể,” Gurney nói.
Dermott đặt hai tay lên thái dương. “Anh có súng không thế?”
“Tôi có sở hữu súng.”
“Ý tôi là, anh có mang theo súng không?”
“Không có. Từ ngày rời Sở Cảnh sát New York đến nay đã không mang theo súng. Nếu anh lo lắng về an ninh thì có hơn một chục cảnh sát có vũ khí trong vòng 90 mét quanh ngôi nhà này,” Gurney nói.
Trông y có vẻ chưa an tâm lắm.
“Lúc nãy anh nói anh nhớ ra được chuyện gì mà.”
Dermott gật đầu. “Đúng ra tôi quên tuốt rồi, nhưng tự nhiên tôi nhớ lại khi thấy… máu me bê bết.”
“Anh nhớ lại chuyện gì?”
“Người đàn bà bị đâm trong căn nhà này – bà ấy bị đâm ở cổ họng.”