← Quay lại trang sách

Chương 46

Cô gái lau nước mắt và đưa chàng hộ vệ đến gặp ông Jurand để báo cho ông những tin mới. Cô tìm thấy ông trong phòng lớn với một con sói đã thuần nằm dưới chân, ông đang ngồi với cha Kaleb, Sieciechówna và cụ Tolima. Một thầy phụ lễ địa phương, cũng là một người hát rong, đang vừa chơi đàn luýt vừa hát khúc ca về một trận chiến ngày trước của ông Jurand với “bọn hiệp sĩ Thánh chiến dâm đãng”; còn họ, tay tựa đầu, lắng nghe trong niềm tư lự và nỗi buồn. Phòng sáng chiếu ánh trăng. Sau một ngày nhọc mệt là buổi tối yên tĩnh, ấm áp. Các cửa sổ mở rộng và trong ánh sáng trăng, có thể nhìn thấy những con bọ cánh cứng bay lòng vòng trong phòng, sinh sôi trên những cây đoạn mọc trong sân. Trong lò sưởi cháy leo lét những ngọn lửa than, nơi một chàng trai đang hâm nóng mật ong trộn rượu, tỏa mùi thảo mộc thơm ngan ngát.

Người ca công, đúng hơn là thầy phụ lễ và người giúp việc của cha Kaleb, chỉ vừa bắt đầu hát một khúc mới, về cuộc gặp gỡ hạnh phúc: “Jurand đi, cứ đi, trên lưng ngựa màu hạt dẻ…”, thì Jagienka bước vào và cất tiếng:

- Sáng danh Chúa Giêsu Ki-tô!

- Đời đời. - Cha Kaleb nối lời.

Ông Jurand đang ngồi trên chiếc tràng kỷ có tay, khuỷu tay tựa trên tay ghế, nhưng khi nghe thấy giọng cô gái, ông quay ngay về hướng cô và gật gật mái đầu trắng như sữa chào đón cô.

- Hộ vệ của anh Zbyszko vừa từ Szczytno về, - cô gái nói, - và đưa tin mới từ linh mục. Ông Maćko không quay lại đây, mà sẽ đến với đại quận công Witold.

- Sao ông ấy không quay lại? - Cha Kaleb hỏi.

Thế là cô kể lại tất cả những điều cô được nghe từ chàng Séc, về việc Zygfryd đã trả thù cho cái chết của Rotgier ra sao, lão lãnh binh định mang Danusia đến cho Rotgier để hắn uống dòng máu thanh khiết của nàng thế nào, và tại sao tay đao phủ đã đột nhiên bảo vệ nàng. Cô cũng không giấu giếm rằng ông Maćko vẫn đang hy vọng là sẽ tìm được cả hai, Zbyszko và Danusia, sẽ cứu thoát nàng mang về trang Spychow, chính vì thế mà ông đã đi thẳng đến với Zbyszko, và ra lệnh cho họ ở lại đây.

Nói đến cuối câu, giọng cô run lên như thể có điều gì buồn rầu hay nuối tiếc, và khi cô ngừng lời, cả phòng chìm trong khoảnh khắc im lặng. Chỉ nghe thấy tiếng chim họa mi lảnh lót trên những cây đoạn trồng trong sân, như chúng đang ùa cả vào qua các cửa sổ đang rộng mở. Mọi con mắt đều đổ dồn vào ông Jurand, người với đôi mắt nhắm nghiền và đầu ngả về phía sau, không có dấu hiệu nào của sự sống.

- Anh có nghe thấy không? - Mãi sau cha Kaleb mới cất tiếng hỏi ông.

Còn ông nghiêng đầu hơn nữa, giơ cánh tay trái và chỉ ngón tay lên trời.

Ánh trăng rọi thẳng lên mặt ông, lên mái tóc bạc trắng, lên đôi mắt đã bị hủy hoại, và trên khuôn mặt tử vì đạo đó vẫn lộ rõ vẻ sẵn sàng thuận theo ý Chúa, mà tất cả mọi người ngỡ như trông thấy một linh hồn được giải thoát khỏi xiềng xích của thân xác, đã từ giã vĩnh viễn cuộc sống trần thế, không còn gì trông đợi ở đó nữa.

Vì thế họ lại im lặng, và một lần nữa âm thanh duy nhất là những tiếng họa mi hót đang tràn ngập khoảng sân cùng căn phòng.

Jagienka đột nhiên cảm thấy trào dâng một tình thương bao la và một tình yêu trẻ thơ đối với ông lão bất hạnh này, và theo phản ứng đầu tiên, cô chạy ào lại gần, nắm chặt lấy bàn tay ông, bắt đầu vừa hôn vừa tuôn trào nước mắt.

- Cháu cũng mồ côi! - Cô nức lên từ sâu thẳm trái tim dâng trào cảm xúc. - Cháu không phải là gã tiểu đồng gia nhân nào hết, cháu là Jagienka trang Zgorzelice. Ông Maćko cưu mang cháu, bảo vệ cháu khỏi những kẻ xấu, nhưng bây giờ cháu sẽ ở lại cùng bác cho đến khi Chúa mang Danusia trở về với bác.

Jurand không tỏ ra ngạc nhiên, như thể đã biết trước rằng đó là một cô gái, ông chỉ kéo cô lại gần và ôm ghì cô vào ngực, còn cô vẫn hôn mãi tay ông và nói tiếp, giọng dứt quãng vì thổn thức:

- Cháu sẽ ở lại với bác, rồi Danusia sẽ về… Còn cháu sẽ về Zgorzelice… Chúa chăm lo trẻ mồ côi! Bọn Đức cũng giết cả cha cháu, nhưng con gái của bác sẽ còn sống trở về. Xin Chúa lòng lành, xin Đức Mẹ thiêng liêng sẽ ban cho…

Cha Kaleb đột nhiên quỳ xuống và căt giọng trang trọng:

- Kyrie eleison!

- Christe eleison! - Chàng Séc và cụ Tolima tiếp lời.

Mọi người đều quỳ xuống, bởi vì họ hiểu rằng đó là lời kinh cầu nguyện người ta đọc không phải chỉ khi người thân chết, mà còn cả cho sự cứu rỗi khỏi những nỗi nguy hiểm chết người của những người ruột thịt và thân yêu. Jagienka quỳ, ông Jurand trượt từ ghế dài quỳ xuống trên đôi đầu gối và bắt đầu đọc đồng thanh:

- Kyrie eleison! Christe eleison!

- Lạy Cha chúng con ở trên trời, lạy Chúa - xin thương xót chúng con…

- Con trai Đức Chúa Trời, Đấng Cứu Thế, lạy Chúa - xin thương xót chúng con…

Tiếng người khóc cầu “Xin thương xót chúng con…!” hòa trong tiếng hót của lũ chim họa mi.

Đột nhiên, con sói nuôi nhổm dậy từ tấm da gấu cạnh tràng kỷ của ông Jurand, tiến lại gần cửa sổ đang mở, chồm lên khung cửa và hướng cái mõm hình tam giác của nó về vầng trăng, bắt đầu tru lên những tiếng khẽ khàng nhưng ai oán.

Mặc dù chàng trai Séc ngưỡng mộ Jagienka và trái tim ngày càng lôi kéo chàng nhiều hơn về phía cô nàng Sieciechówna đáng yêu, nhưng tâm hồn trẻ trung và kiêu dũng của chàng vẫn thúc giục được đánh nhau hơn mọi thứ trên đời. Chàng trở lại Spychow theo lệnh của ông Maćko, vì thói quen tuân lệnh, đồng thời cũng có đôi chút an ủi dịu ngọt khi nghĩ rằng sẽ được chăm lo và bảo vệ cả hai cô gái đồng trinh, nhưng khi nghe Jagienka nói - mà quả là sự thật - rằng ở Spychow không có gì nguy hiểm và rằng nhiệm vụ của chàng là phải ở bên Zbyszko, chàng rất vui mừng chấp thuận. Ông Maćko không phải là ông chủ trực tiếp của chàng, vì vậy chàng có thể dễ dàng biện minh cho mình trước ông, chàng không ở lại Spychow vì mệnh lệnh của nữ chủ nhân đích thực của mình, người đã bảo chàng phải đến với Zbyszko.

Còn Jagienka làm điều đó vì nghĩ rằng chàng giám mã sức vóc và nhanh nhẹn thế này sẽ luôn có ích cho Zbyszko, để cứu mạng trong nhiều mối hiểm nguy đe dọa. Chàng đã chứng tỏ điều đó trong cuộc săn với quận công, khi Zbyszko suýt bị mất mạng vì con bò tót. Chàng còn có thể hữu ích nhiều hơn trong chiến tranh, nhất là khi chiến đấu tại vùng biên cương Żmudź. Glowacz rất muốn xông ngay ra sa trường, nên khi đi cùng Jagienka trở về từ chỗ ông Jurand, chàng quỳ xuống ôm chân cô và nói:

- Giờ tôi muốn được cúi chào tiểu thư, xin được người ban phước trước khi lên đường…

- Sao, - Jagienka hỏi, - ngươi muốn đi ngay hôm nay ư?

- Sáng sớm mai, để ngựa được nghỉ qua đêm đã ạ. Chuyến đi đến tận Żmudź xa xôi lắm!

- Thế thì ngươi đi đi, để sớm đuổi kịp bác Maćko.

- Khó lắm. Ông già rắn rỏi đương đầu với mọi loại khó khăn, lại đi trước tôi vài ngày đường. Hơn nữa ông đi qua đất Phổ để rút ngắn cung đường, còn tôi phải băng rừng rậm. Ông cũng có thư của Lichtenstein và có thể chìa ra, còn tôi biết chìa gì ra được chứ! Và thế là tôi chọn đi đường tự do.

Nói đến đây, chàng đặt tay lên cán thanh đoản kiếm đeo bên sườn; nhìn thấy thế, Jagienka kêu lên:

- Cẩn thận đấy! Ngươi đã đi thì phải đến nơi, chứ không được để sa vào bẫy ngầm của bọn Thánh chiến. Nhưng ngay cả trong rừng, ngươi cũng phải để ý, vì nơi đó có nhiều loài ma ác khác nhau sinh sống, được dân địa phương thờ phụng trước khi có đạo Ki-tô. Ta vẫn nhớ hiệp sĩ Maćko và Zbyszko đã nói những gì ở Zgorzelice.

- Tôi vẫn nhớ chứ, nhưng tôi không sợ, vì lũ ma quỷ không phải là thần thánh, không có sức mạnh. Tôi dám địch lại với chúng và với bọn Đức mà tôi gặp, miễn là chiến tranh sẽ bùng ra.

- Thế chưa bùng ra à? Hãy kể ta biết những gì ngươi nghe được về chiến tranh với bọn Đức.

Nghe thế, chàng trai tinh khôn nhíu mày một lúc lâu, rồi nói:

- Vừa bùng ra mà cũng vừa chưa bùng ra. Chúng tôi đã tìm hỏi mọi chuyện, nhất là hiệp sĩ Maćko, người rất tinh ranh và biết cách đối phó với lũ Đức. Có vẻ như ông ấy hỏi về một chuyện gì khác, ông ấy tỏ ra tốt bụng, không hề lộ ý gì hết, ấy thế mà vẫn moi dũng điều cốt yếu và moi từng tin tức cứ như từng con cá một cắn câu. Nếu cô chủ nhân hậu chịu khó nghe, tôi sẽ kể. Vài năm trước đây, vì đang định chống quân Tatar, đại quận công Witold muốn hòa hoãn với phía Đức, nên ngài nhượng bộ cho Đức vùng Żmudź. Thật là hữu hảo. Ngài cho phép họ xây thành, thậm chí còn giúp đỡ thêm. Ngài đi với đại thống lĩnh tới một hòn đảo, ăn uống và bày tỏ tình cảm quý mến nhau. Ở trong những khu rừng đại ngàn nơi ấy, bọn Thánh chiến thậm chí không bị cấm săn bắn, và nếu như có đám cư dân Żmudź nào nổi lên chống lại sự thống trị của Giáo đoàn, thì đại quận công Witold lại giúp bọn chúng bằng cách phái quân đến, thậm chí khắp xứ Litva còn xì xào bàn tán rằng đích thân ngài thân chinh tham chiến nữa kia. Tất cả những chuyện đó viên phó thành Szczytno đã kể cho chúng tôi nghe, hắn ca ngợi chính quyền Thánh chiến ở Żmudź đã cử cha linh mục đến với cư dân Żmudź để rửa tội cho họ, và gửi ngũ cốc trong thời buổi đói kém. Hình như chúng đã gửi đi thật, vì đức đại thống lĩnh, người biết sợ Chúa hơn những kẻ khác, đã ra lệnh, nhưng bù lại chúng bắt con trẻ của họ sang đất Phổ và làm nhục phụ nữ trước mặt chồng cùng anh em trai của họ, người nào chống lại sẽ bị treo cổ - và do vậy, thưa cô chủ, mới có chiến tranh.

- Còn đại quận công Witold?

- Suốt một thời gian dài, đại quận công mắt nhắm trước những khổ đau của dân vùng Żmudź và cứ yêu chuộng bọn Thánh chiến. Mới gần đây, phu nhân ngài đi đến đất Phổ, tới tận thành Malborg trong một chuyến viếng thăm. Bọn chúng tiếp đón phu nhân cứ như thể hoàng hậu Ba Lan ấy. Mà đó là mới đây, mới đây thôi! Tại mỗi thành phố, bọn chúng trút những cơn mưa quà cáp lên phu nhân, tổ chức nào giải đấu võ, nào tiệc tùng và bao trò kỳ quái nữa không sao kể xiết. Dân chúng tưởng rằng sẽ là tình yêu mến vĩnh hằng giữa bọn Thánh chiến và đại quận công Witold, thế mà bỗng dưng lòng đại quận công bất ngờ thay đổi…

- Qua những gì đang xảy ra, cùng những lời phụ thân quá cố của ta và bác Maćko kể, thì có vẻ trái tim của đại quận công thường quá dễ đổi thay.

- Với những người có đạo đức thì không thế, nhưng đối với bọn hiệp sĩ Thánh chiến thì thường xuyên, lý do là bọn chúng không bao giờ giữ chữ tín trong mọi chuyện. Bây giờ bọn chúng muốn đại quận công giao lại những người đã đào tẩu, và ngài bảo với chúng rằng sẽ chỉ giao những kẻ tồi tệ, còn những người tự do thì không, vì là người tự do, họ có quyền được sống nơi nào họ muốn. Thế là bắt đầu trao qua đổi lại những bức thư chua chát với những lời khiếu nại, và hai bên đe dọa lẫn nhau. Nghe tin ấy, dân Żmudź mới tẩn bọn Đức! Họ hạ thủ binh lính, phá phách thành quách, và tấn công sang tận đất Phổ, còn đại quận công Witold thì không chỉ không kìm hãm họ, mà còn cười giễu những buồn phiền của bọn Đức và âm thầm giúp thêm dân chúng Żmudź.

- Ta hiểu. - Jagienka nói. - Nhưng nếu đại quận công chỉ âm thầm giúp họ, thì vẫn chưa phải là chiến tranh.

- Với dân chúng Żmudź thì đã có chiến tranh, còn với đại quận công Witold thì trong thực tế cũng đã có. Khắp nơi bọn Đức đều tăng cường bảo vệ các tiền đồn biên giới và rất muốn mở trận tấn công lớn sang Żmudź; nhưng chúng phải chờ đợi cho đến mùa đông, vì vùng đất này ẩm ướt quá, đám hiệp sĩ chẳng thể đánh nhau được. Nơi nào người dân Żmudź tiến, quân Đức chịu lùi, vì thế mùa đông là bạn của quân Đức. Khi có băng giá, toàn lực của quân các hiệp sĩ Thánh chiến bắt đầu chuyển sang thế công, rồi đại quận công Witold sẽ tiến đến giúp người Żmudź - và ngài hành động với sự cho phép của đức vua Ba Lan, vì đức vua là vị chúa tể tối cao của cả đại quận công và toàn bộ Litva.

- Có thể là sẽ có chiến tranh với cả đức vua?

- Cả bên Đức lẫn ở đây, mọi người đều đoán rằng sẽ có. Hình như bọn Thánh chiến đã thu gom sự trợ giúp của tất cả các thành trì, và mũ trụ trên đầu chúng khoác màu đỏ cháy như phong tục khi đánh bọn trộm, bởi lẽ đương đầu thế lực của đức vua không phải trò đùa, còn giới hiệp sĩ Ba Lan, khi nghe đến lũ Thánh chiến, ai cũng nhổ nước bọt vào lòng bàn tay để sẵn sàng.

Nghe đoạn, Jagienka thở dài và nói:

- Trên đời, đàn ông bao giờ cũng hạnh phúc hơn phụ nữ, bởi vì như trường hợp này, ngươi có thể được đi ngay ra trận như bác Maćko và Zbyszko, còn ta đành phải ở lại Spychow này.

- Chứ làm sao khác được, thưa cô chủ? Các cô phải ở lại cho an toàn. Bọn Đức vẫn còn kinh sợ tên tuổi ngài Jurand lắm, như những gì tôi đã nghe thấy ở thành Szczytno, nếu chúng nó biết rằng ngài đang ở Spychow thì chúng sợ đến chết khiếp.

- Ta biết chúng sẽ không dám mò đến đây, bởi vì đầm lầy chắn lối, và còn có cụ Tolima nữa, có điều ngồi đây không nghe được tin tức gì thì nặng nề lắm.

- Nếu có gì xảy ra, tôi sẽ báo. Tôi biết là trước khi tôi khởi hành đi Szczytno, ở đây người ta đã họp và chọn hai người trai tráng khỏe mạnh tự nguyện ra chiến trường, mà cụ Tolima cũng không thể cấm được, bởi vì họ là các quý tộc từ Łękawice. Bây giờ họ sẽ đi với tôi, và nếu có chuyện gì tôi sẽ nhờ họ mang tin về.

- Chúa sẽ trả công cho ngươi. Ta biết rằng trong bất kỳ tình huống nào ngươi cũng đều nhạy bén, nhưng ta sẽ biết ơn ngươi đến trọn đời vì tình cảm và lòng tốt mà ngươi luôn dành cho ta.

Nghe thấy thế, chàng Séc quỳ một bên gối và nói:

- Các chủ nhân không những không làm hại tôi, mà còn cho tôi được hưởng bao phúc lộc. Hiệp sĩ Zych đã thắng được tôi trong cuộc đấu tay đôi tại Bolesiawiec, và đã trả tự do cho tôi mà không đòi một xu tiền chuộc, song với tôi, được làm gia nhân cho cô chủ còn ngọt ngào hơn cả tự do. Lạy Chúa, xin hãy cho tôi được đổ máu vì người, thưa cô chủ của tôi!

- Cầu Chúa trông nom và dẫn dắt cho ngươi. - Jagienka nói, chìa tay về phía chàng.

Nhưng chàng muốn cúi xuống hôn bàn chân cô để bày tỏ lòng thành kính hơn, sau đó chàng ngẩng đầu lên và nhổm dậy, bắt đầu nói với vẻ bẽn lẽn và tuân phục:

- Tôi chỉ là một kẻ tôi tớ, nhưng là người đầy tớ trung thành và thanh sạch của cô chủ… Xin hãy ban cho tôi một tín vật gì đó trước lúc lên đường. Xin đừng từ chối tôi điều đó! Thời chiến đã đến gần, và thề có Thánh Jerzy làm chứng, nơi chiến trận tôi luôn có mặt ở tuyến đầu chứ không ở tuyến sau.

- Ngươi muốn xin món tín vật nào? - Jagienka hỏi với một chút ngạc nhiên.

- Xin cô chủ thắt cho tôi một dải vải diềm váy để tôi lên đường, nếu có chết thì cũng sẽ nhẹ nhàng hơn, khi được chết cùng dải vải của cô chủ.

Và một lần nữa chàng lại cúi xuống chân cô, rồi chắp tay cầu xin cô, nhìn vào mắt cô, song trên gương mặt Jagienka chỉ có nỗi lo sợ nặng nề - và sau một lát, cô nói như thể không kìm nổi niềm cay đắng trong lòng:

- Anh bạn thân mến! Đừng yêu cầu ta điều đó, bởi vì không có gì may mắn từ dải vải buộc của ta đâu. Ai là người hạnh phúc, hãy để người ấy thắt cho anh, vì điều ấy sẽ mang cho anh hạnh phúc. Còn ta thật ra là gì? Không có gì, chỉ có nỗi buồn! Mà trước mặt ta cũng không có gì ngoài đau khổ! Ôi! Ta không thể mang hạnh phúc cho anh, hay cho bất kỳ ai, vì những gì ta không có, ta không thể cho ai được. Vậy, Hlava ơi, đời bây giờ tệ đến nỗi, mà… mà…

Nói tới đây, cô đột ngột ngừng lời, bởi cảm thấy rằng nếu nói ra thêm một từ nào nữa thì sẽ òa lên khóc, và lệ cũng đã dâng tràn che mờ mắt cô như một làn mây. Chàng Séc hết sức xúc động, bởi chàng hiểu rằng bây giờ cô quay lại Zgorzelice thì rất dở, vì phải ở cạnh bên những con thú ham mồi là gã Cztan và Wilk, mà ở lại Spychow cũng dở nốt, vì sớm hay muộn thì Zbyszko và Danusia cũng có thể sẽ quay về đây. Hlava hiểu rõ những gì đang diễn ra trong trái tim thiếu nữ, nhưng chàng không có lời khuyên nào cho những nỗi bất hạnh của cô, nên chỉ biết ôm chân cô mà nhắc đi nhắc lại:

- Hey! Tôi muốn được chết vì tiểu thư! Được chết vì cô!

Còn cô bảo:

- Đứng dậy đi. Bước vào cuộc chiến, hãy để Sieciechówna buộc đai lưng cho anh hoặc tặng anh một món kỷ vật gì khác có thể, vì cô ấy đã mến mộ anh từ lâu rồi.

Rồi Jagienka bắt đầu gọi Sieciechówna, cô gái bước ra ngay từ phòng kế bên, bởi trước đó cô đã rình nghe trộm bên kia cửa, không dám xuất hiện chỉ vì nhút nhát, dù trong lòng sôi sục mong muốn được chia tay chàng giám mã xinh trai. Cô bước ra bối rối, sợ hãi, tim đập thình thịch, đôi mắt long lanh bởi nước mắt, trông mơ màng, rồi cô hạ làn mi, đứng trước mặt chàng như một đóa hoa táo, không thể thốt ra nổi lời nào.

Với Jagienka, bên cạnh sự gắn bó sâu sắc hết mực bởi lòng ngưỡng mộ và sự tận tâm, Hlava không hề dám nghĩ đến việc với tới cô, mà chàng thường chỉ nghĩ đến Sieciechówna, bởi cảm thấy với dòng máu cuộn trào trong huyết quản, chàng không thể nào cưỡng nổi vẻ quyến rũ của cô. Bây giờ, chàng lại càng xúc động trong lòng trước vẻ kiều diễm của cô gái, nhất là với vẻ bối rối và những giọt lệ, qua đó tình yêu hiện rõ như một cái đáy sông bằng vàng hiện rõ qua làn nước trong vắt.

Vì vậy, chàng quay sang cô và nói:

- Cô biết chăng? Tôi sẽ đi ra chiến trường và có thể sẽ ngã xuống. Cô có thấy thương tiếc tôi không?

- Em thương chàng lắm! - Cô gái thốt lên bằng giọng mỏng mảnh. Và ngay lập tức nước mắt rơi thánh thót, vì lúc nào lệ cô cũng chực tuôn trào.

Xúc động cùng cực, chàng Séc bắt đầu hôn tay cô, và vì có mặt Jagienka nên chàng đành phải cố nén ý muốn có những nụ hôn nồng nàn hơn.

- Em thắt đai lưng cho anh ta hoặc tặng một thứ kỷ vật lên đường để anh ta có được vật che chở của em trong trận chiến. - Jagienka bảo cô gái.

Nhưng thật khó cho Sieciechówna để tặng chàng vật gì đó, bởi cô đang mặc trang phục của một trang thanh niên mới lớn. Cô cố tìm kiếm: đai cũng không mà băng buộc cũng chẳng có cái nào!

Vì các trang phục thiếu nữ vẫn còn nằm nguyên trong hành lý kể từ khi khởi hành ở Zgorzelice, nên cô gái bối rối vô cùng, và một lần nữa Jagienka lại giúp cô, khuyên cô nên tặng cái mao mạng đang mang trên tóc.

- Lạy Chúa tôi! Mao mạng thì mao mạng! - Hlava reo lên, hơi có chút hài hước. - Tôi sẽ treo nó trên mũ trụ và bất hạnh thay cho thằng Đức nào dám động đến!

Thế là Sieciechówna đưa cả hai tay lên đầu và chỉ giây lát sau, làn tóc màu sáng của cô đã lóng lánh tràn xuống lưng và vai. Nhìn thấy cô gái tóc sáng tuyệt vời nhường ấy, mặt Hlava chợt biến đổi. Má chàng chợt đỏ rực lên rồi lại tái nhợt đi; chàng cầm lấy tấm mao mạng, đưa lên môi hôn, đặt nó trong lòng mình, lại ôm gối Jagienka lần nữa, rồi ôm đầu gối Sieciechówna hơi chặt hơn cần thiết, rồi sau khi thốt lên “Cầu cho được thế!”, chàng bước ra khỏi phòng, không nói gì hơn.

Và mặc dù vừa đi một quãng đường xa về mà chưa được nghỉ ngơi, chàng cũng không ngủ. Chàng uống rượu qua đêm với hai chàng quý tộc trẻ của Łękawice, người sẽ đi cùng đến Żmudź.

Nhưng chàng không hề say, và khi tia sáng đầu tiên hé rạng, chàng đã có mặt trong sân, nơi lũ ngựa chờ đợi sẵn sàng để lên đường. Cửa sổ có che màng bong bóng nơi bức tường phía trên nhà xe lập tức hé mở, và một đôi mắt xanh nhìn qua khe cửa xuống sân. Chàng Séc nhận thấy, muốn đi tới gần để khoe tấm mao mạng cài trên mũ sắt và nói lời tạm biệt một lần nữa, nhưng vừa lúc cha Kaleb và cụ Tolima bước tới, hai người chủ tâm xuống tiễn để cho chàng những lời khuyên trên đường.

- Anh hãy đi đến lâu đài của quận công Janusz. “Cha Kaleb dặn. - Có thể hiệp sĩ Maćko cũng sẽ tới đó. Trong mọi trường hợp, phải dò hỏi những tin tức chắc chắn, vì ở đó anh chẳng thiếu người quen. Nơi đó cũng có nhiều đường anh biết dẫn tới Litva và sẽ dễ dàng tìm được một người hướng đạo băng qua rừng. Muốn chắc chắn gặp được Zbyszko thì anh chớ nên đi thẳng đến Żmudź vì có hàng rào của bọn Phổ, mà nên đi vòng qua Litva. Hãy chú ý, bởi dân Żmudź có thể giết chết tươi anh ngay trước khi anh kịp nói mình là ai, nhưng chuyện sẽ khác nếu anh từ phía đại quận công Witold đến. Dẫu sao, Chúa cũng ban ơn lành cho anh và cả hai hiệp sĩ kia, để các người quay trở về mạnh khỏe và mang cô bé về, điều mà tôi sẽ cầu xin Chúa hằng ngày, từ sau giờ kinh chiều cho đến khi ngôi sao đầu tiên mọc.

- Cảm ơn cha đã cầu phước. - Hlava nói. - Không dễ cứu được nạn nhân còn sống sót từ những bàn tay ma quỷ, nhưng tất cả đều trong tay của Chúa Giêsu, và hy vọng thì tốt hơn buồn lo.

- Nếu hy vọng tốt hơn thì đừng đánh mất nó. Phải… Hy vọng vẫn hằng sống, dù nỗi lo sợ tràn dâng trái tim… Tệ nhất là ông Jurand, cứ nghe nhắc đến tên cô con gái là lập tức chỉ thẳng ngón tay lên trời, như thể đã nhìn thấy nó ở đó.

- Sao ngài ấy có thể nhìn thấy khi mắt đã không còn?

Linh mục bắt đầu nói, vừa với chàng Séc, vừa với chính mình:

- Thường khi ai đó có đôi mắt trần thế bị tắt đi, thì có thể nhìn thấy những gì người khác không thể thấy. Thường thế, thường là thế! Nhưng làm sao Chúa cho phép tai ương giáng xuống một con chiên như con ông được. Bởi nó có làm hại gì cho bọn Thánh chiến đâu cơ chứ? Không một chút gì! Nó thanh sạch như một bông huệ của Chúa, và thân thiết với mọi người, như một con chim non đồng nội chỉ biết hót vui! Chúa yêu thương con trẻ và có lòng thương cảm trước nỗi khổ đau nhân thế… Ôi! Nếu bọn chúng có giết chết nó, thì Người vẫn có thể hồi sinh nó như hiệp sĩ Piotrowin đã sống dậy từ nấm mồ và sau đó còn sống rất lâu… Anh hãy đi đi, đi mạnh giỏi, cầu xin bàn tay của Chúa sẽ chăm lo cho tất cả các người và con bé!

Nói xong, cha trở vào nhà thờ để cử hành thánh lễ sáng, còn chàng Séc lên ngựa, cúi chào một lần nữa trước cửa sổ căng màng bong bóng hé mở rồi lên đường, vì ngày đã rạng sáng hoàn toàn.