← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 4

Hình ảnh lũ trẻ xếp thành hàng dài vô tận thật sự đã tạo nên một cảnh tượng đau lòng.

Thật ra, Grace không có nhiều thì giờ để nghĩ đến chuyện sơ tán. Họ có quá nhiều việc phải chuẩn bị vào trước đêm chính phủ ra lệnh tắt điện toàn thành phố. Colin cố gắng hoàn thiện hầm trú ẩn Anderson trong khu vườn đã nát bươm của mẹ cậu.

Ngoài miệng, bác Weatherford vẫn cáu kỉnh bảo rằng không để tâm nhưng thỉnh thoảng, bác vẫn nhắc về những luống hoa bị xới tả tơi của mình.

Tuy tất bật, quay cuồng nhưng Grace phải xấu hổ thừa nhận rằng mình chẳng còn đầu óc để nghĩ đến bọn trẻ. Chỉ đến khi rời khỏi phố Britton để đến hiệu sách Đồi Primrose và bắt gặp những quả bóng màu bạc kì lạ, to bằng cả ngôi nhà đang bay lơ lửng trên bầu trời thành phố, giống như những con cá hơi khổng rồ được bơm căng phồng, thì Grace mới sực nhớ về cuộc sơ tán. Những thứ bất thường này chắc hẳn dùng để phục vụ cho mục đích chiến tranh nào đó.

Khi rẽ xuống đường Albion Place, vì mải lo nhìn quả bóng nên Grace suýt đâm sầm vào một người đàn ông mặc áo khoác len màu xanh, đó là đồng phục của Lực lượng Không quân Hoàng gia, và một bên vai anh khoác đầy đủ đồ nghề.

Grace lúng túng, “Thành thật xin lỗi, tôi không…”

Nhưng tất cả những lời định nói đều đông cứng lại khi cô bất chợt nhìn thấy những đứa trẻ đang xếp thành hàng dài dọc theo con đường này, hướng về phía nhà ga Farringdon.

Người sĩ quan Không quân đáp lại gì đó nhưng cô không nghe rõ vì anh đã hối hả sải bước đi tiếp. Grace không còn chú ý đến điều gì khác ngoài dòng trẻ em vô tận trước mắt. Chúng đeo bên hông chiếc hộp mặt nạ phòng độc, thông tin của mỗi em được ghim vào áo khoác và túi hành lý. Những chiếc túi nhỏ ấy cho biết các em có thể phải đi xa trong một thời gian rất dài. Ai mà biết được khi nào bọn trẻ mới được trở về đây?

Một số đứa trẻ trông rất phấn khích, mặt mày rạng rỡ như đang háo hức chờ mong một chuyến phiêu lưu. Những đứa khác thì nước mắt lưng tròng, sợ hãi níu chặt lấy mẹ. Những người mẹ đi cùng con cái mặt mày đều nhợt nhạt và se lại khi phải cắn răng thực hiện nhiệm vụ đau lòng này.

Không người mẹ nào có thể chịu được nỗi đau khi buộc phải chọn lựa như họ: gửi con mình đến sống với một người xa lạ ở nơi đất khách quê người, hoặc chấp nhận để chúng ở lại một thành phố trùng trùng hiểm nguy.

Tuy phải chịu nỗi đau chia cắt và không ít rủi ro đáng sợ trong việc nỗ lực sơ tán quá nhiều trẻ em, nhưng dẫu sao phương án này vẫn tốt hơn nhiều so với việc giữ bọn trẻ ở lại một nơi liên tục nằm trong tầm ngắm bị đánh bom.

Grace chưa có con nhưng cô luôn ấp ủ hi vọng được làm mẹ vào một ngày nào đó. Vậy nên tất cả gương mặt cam chịu đau đớn ấy giúp cô thấm thía sâu sắc về tấm lòng hi sinh cao cả của những người mẹ luôn cố gắng làm mọi cách để bảo vệ con mình được an toàn.

Grace tiếp tục bước đi trong cảm giác choáng váng. Trước mắt cô là một đám đông những đứa trẻ đang chen chúc ngay lối vào nhà ga Farringdon, rồi một hàng trẻ em khác đi ngược trở ra. Dễ có đến hàng trăm em, nếu không muốn nói là hàng nghìn.

Đêm nay, rất nhiều bà mẹ sẽ phải xa con.

Nghĩ đến những người phụ nữ ấy và những đứa con bé bỏng mà họ buộc phải gửi cho người khác chăm nom, lồng ngực Grace nặng trịch như đổ chì. Cô rảo bước nhanh hơn vì không thể chịu nổi cảnh tượng này thêm một giây nào nữa.

Grace gần như quăng mình vào hiệu sách và nhận lấy ánh mắt sắc lẹm của ông Evans khi thấy cô đến. “Cuộc chiến bắt đầu chưa?” Ông lạnh lùng hỏi và lại chúi đầu vào quyển sách trước mặt.

“Có lẽ sắp rồi ạ.” Grace nhìn ra đường, thấy một người mẹ tất tả dẫn hai đứa con nhỏ đi về hướng ga tàu điện ngầm. “Bọn trẻ đang được gửi đi hết.”

Ông ậm ừ tỏ vẻ đồng tình chiếu lệ.

Grace nhìn lên trời, tìm kiếm những quả bóng lớn màu bạc. “Những khinh khí cầu đó…”

“Hàng rào bóng phòng không.”

Cô quay lại phía ông, “Nó là cái quái gì vậy ạ?”

Ông Evans nóng nảy thở dài và đặt cuốn sách xuống, “Chúng được gắn với những dây cáp thép để ngăn máy bay sà xuống thấp. Người ta để chúng ở đó để bảo vệ chúng ta.”

“Vậy là kẻ thù sẽ không thể ném bom chúng ta phải không ạ?” Grace hỏi với giọng tràn trề hi vọng.

Ông Evans khụt khịt mũi, “Ôi dào, vẫn ném thẳng tay. Những quả bóng đó chỉ cản được bom trong Chiến tranh Thế giới thứ Nhất vì lúc đó máy bay chưa bay cao được, còn bây giờ chí ít phải cỡ tầm bắn của súng phòng không thì may ra mới hạ được chúng.”

Cảm giác ớn lạnh chạy khắp cơ thể Grace. Cô rất muốn hỏi thêm nhưng ông Evans đã cầm sách lên đọc tiếp. Cửa hàng hôm đó khá vắng khách. Thật ra điều này cũng dễ hiểu, khi đám trẻ bị đưa đi sơ tán, những người đàn ông lên đường chinh chiến thì tất cả những người mẹ, người vợ đều bị bỏ lại hậu phương với nỗi buồn trĩu nặng.

Ban đầu, Grace định cố gắng sắp xếp lại đống sách nhưng cô không tài nào xua được hình ảnh những đứa trẻ đó ra khỏi đầu. Cảnh hàng nghìn trẻ em xếp hàng trước cửa nhà ga và hàng nghìn người mẹ cố tỏ ra can đảm chấp nhận lìa xa con cái để bảo vệ tính mạng của chúng cứ ám ảnh bám lấy cô.

Grace nhớ hồi còn nhỏ, có một lần mẹ cô lên thành phố thăm bác Weatherford. Tuy được ở tạm nhà của Viv nhưng cô vẫn nhớ mẹ da diết, trong khi mẹ cô chỉ đi vắng có một tuần thôi.

Những đứa trẻ thật đáng thương.

Cuối cùng, Grace cố tập trung vào việc dán chằng dán chịt mấy lớp băng keo lên cửa sổ. Đầu tiên phải bóc băng keo ra, sau đó chọn chỗ dán dọc theo tấm kính. Công việc này không đòi hỏi phải suy nghĩ, rất thích hợp với Grace lúc này vì đầu óc cô đã đặc nghẹt rồi.

Khi Grace chỉ còn dán hai miếng nữa là xong và đang băn khoăn liệu có đủ thời gian dán thêm nhiều băng keo cho cẩn thận hơn không thì ông Evans đi đến chỗ cô. “Về nhà đi, cô Bennett. Hôm nay làm đến đây thôi. Tôi cũng không có gì để phải bít bùng cửa nẻo lúc trời tối.” Ông khoanh tay trước ngực, rít một hơi qua lỗ mũi trong lúc nhìn quanh cửa hiệu. “Chiến tranh sắp tới và sách vở không phải thứ người ta cần mua.”

Grace gom mớ băng keo bỏ đi rồi đứng dậy, “Nhưng chắc chắn họ cần giải trí chứ ạ.”

Ông gật đầu về phía khung cửa sổ, “Mai tôi sẽ mang mấy tờ báo đến.”

Grace giấu vẻ mặt nhăn nhó khi nghĩ đến những ô cửa sổ lớn bị dán kín mít bằng hàng lớp giấy báo, “Cháu có thể làm rèm cửa. Bác Weatherford có sẵn ít vải. Chúng cháu còn để dự phòng.”

Quả thật, bác Weatherford đã rất sung sướng vì mua được tận mấy thước vải satanh màu đen dày với giá rất hời, chỉ hai shilling một thước.

Grace không hiểu sao mình lại ngỏ lời giúp đỡ ông Evans, nhất là khi ông đang ngầm báo trước rằng sắp tới sẽ chẳng bán buôn được gì nên cũng không cần thuê nhân viên nữa. Nhưng dẫu sao họ vẫn còn vải dự trữ và tất cả những việc Grace làm dược để xin một lá thư giới thiệu đều sẽ có ích cho cô sau này.

Grace nhanh chóng thu dọn túi xách, đội mũ và đeo hộp mặt nạ phòng độc bên hông, háo hức vì được nghỉ sớm.

Ông Evans đợi cô ngay cửa và lật tấm bảng thông báo từ mặt “Mở cửa” sang “Đóng cửa”. Ông chào, “Tạm biệt, cô Bennett.”

Sau khi Grace đi, ông đóng cửa tiệm và khóa lại. Đường phố lúc này đã vắng bóng trẻ con, hệt như chưa từng xảy ra cuộc di dời trật tự ban sáng. Grace cố xua tan kí ức đau buồn ám ảnh đó và tập trung nghĩ cách thu hút thật nhiều khách hàng cho hiệu sách Đồi Primrose.

Cô từng giúp cửa hàng của chú mình ăn nên làm ra. Chỉ cần treo vài tấm biển lên cửa sổ và bày bán những món hàng một cách khéo léo là đã giúp cho mọi thứ thay da đổi thịt. Chẳng bao lâu sau, khách khứa đã ra vào tấp nập.

Tất nhiên, hiệu sách Đồi Primrose có ít khách quen hơn, chưa kể không nhiều người có thể giữ bình tĩnh trong hoàn cảnh nước sôi lửa bỏng này. Nhưng sách cũng có ích lợi của nó. Người ta luôn cần thứ gì đó để gây phân tâm, sao nhãng, nhất là khi chiến tranh đang cận kề.

Nếu Grace từng giúp được một cửa hàng làm ăn phát đạt thì lạy Chúa phù hộ, cô có thể gặt hái thành công một lần nữa. Khi ấy, Grace sẽ hết sức hân hoan tin rằng cô sẽ nhận được một lá thư giới thiệu đáng giá cho những nỗ lực hết sức của mình.

Về đến nhà, Grace gặp bác Weatherford ngay ngoài cửa, bác khệ nệ tay xách nách mang đủ thứ giỏ, túi hết sức linh kỉnh.

Bác dùng nửa ngón tay để ngoắc Grace lại, có lẽ đó là bộ phận duy nhất trên người bác còn rảnh rang, “Cháu về đúng lúc quá. Lại đây con gái.”

Cô sốt sắng chạy đến và kéo vài chiếc túi ra khỏi cánh tay bác. Chúng nặng ngoài sức tưởng tượng, và trì mạnh tay Grace xuống khiến cô suýt đánh rơi kiện hàng. “Bác để cái gì bên trong vậy? Bao cát ạ?”

Bác Weatherford nhìn quanh với vẻ bí hiểm rồi cúi sát xuống, thầm thì, “Là trà.” Bác đẩy một bên vai lên để tiếp tục nâng một bao to khác. “Với đường nữa. Nào, nhanh nhanh khiêng vào trong đi.”

Bà không nói gì thêm cho đến khi họ khuân hết đồ đạc vào nhà và cất chúng ở một nơi an toàn trong bếp. Những tấm rèm tối đen nặng nề treo trên cửa sổ, tương phản với nét tươi vui, trong trẻo của gian phòng như một lời nhắc nhở về lệnh giới nghiêm tắt điện kể từ tối nay. Tháng trước, thành phố này đã tiến hành thử nghiệm vài lần nhưng lần này thật sự phải thực hiện nghiêm túc.

Bác Weatherford cẩn thận đặt những bao hàng to tướng trên vai xuống và thở phào nhẹ nhõm, “Chúa ơi, nặng khiếp.”

“Tất cả đều là trà và đường ạ?” Grace săm soi từng bao, chúng được nhồi căng phồng đến tận đường may nối hai mép vải.

“Một số bao còn có bột nữa.” Bác lúc lắc ngón tay. “Đừng nhìn bác như thế, Grace Bennett ạ. Chiến tranh sắp nổ ra và cháu sẽ thấy, người ta sẽ phải thắt lưng buộc bụng thôi. Bác phải tranh thủ lấy được những thứ này trước khi những người ưa tích trữ vơ vét hết.”

Grace chăm chú xem xét đống đồ khô, “Những người tích trữ là sao ạ?”

Bác Weatherford bắt tay vào sắp xếp. Bác mở gói hàng ra. “Bà Nesbitt ít nhất cũng đã trữ nhiều gấp đôi chỗ này, trong khi bả sống có một mình.”

Bác cúi xuống quầy bếp dọn dẹp lại đồ đạc trong tủ, chừa chỗ cho những món đồ mới mua. “Chắc cháu biết bà ấy, chủ cửa hàng Nesbitt’s Fine Reads, một trong các hiệu sách nổi tiếng nhất trên phố Paternoster Row.” Bác liếc sang Grace để chờ cô xác nhận.

Nhưng Grace lắc đầu.

Bác Weatherford nhíu mày. “Chắc ông Evans đã nhắc đến phố Paternoster Row rồi chứ hả?”

“Bác ấy chưa nói gì ạ.” Grace xếp mấy túi đường vào chỗ trống trong chiếc tủ bát đĩa đang mở.

Bác Weatherford dời một số hộp sang bên để lấy chỗ sắp những hộp trà, “Ừ, đó là con đường mà đa số những người yêu sách lắm tiền hay lui tới. Bác đã nói với ông Evans hàng chục lần là chuyển sang đó bán đi.” Bà lùi lại, ngắm nghía chiếc tủ đầy ứ được xếp gọn gàng rồi gật gù hài lòng. “Lúc nào rảnh cháu cũng nên tới đó để xem một hiệu sách thứ thiệt trông như thế nào. Bác có thể chỉ đường cho cháu.”

Một hiệu sách thứ thiệt. Đó đúng là nơi Grace cần đến để học hỏi cách “lột xác” cho hiệu sách Đồi Primrose. “Tuyệt quá ạ. Sẵn tiện, cháu muốn xin phép bác cho cháu lấy ít vải satanh đen để làm rèm cho cửa tiệm được không ạ?”

Bác Weatherford nhìn cô và nở nụ cười đầy tự hào, hệt như nụ cười ngày trước mẹ thường dành cho cô vậy. Nụ cười ấy khẽ chạm vào vết thương đã chôn sâu trong lòng Grace và xoa dịu nó một cách dịu dàng nhất.

“Được chứ con gái.” Bác vui vẻ đáp. “Nhớ là phải treo ít nhất ba lớp để ánh đèn không bị lọt ra ngoài. Bác tin chắc ông già ấy sẽ cảm động trước sự nỗ lực của cháu lắm đấy.” Bác mở vòi để lấy đầy nước vào ấm. “Mặc dù ngoài miệng ổng không bao giờ chịu nói ra.”

Colin đi xuống bếp. Chú mèo Tabby lẽo đẽo theo sát gót anh, miệng kêu “meo, meo” không ngớt. “Hullo, chị Grace.” Lần nào bước vào căn phòng có Grace hoặc Viv ở đó thì y như rằng, đôi má anh chàng sẽ ửng hồng lên. “Sáng nay tụi em mới nhận thêm một con báo con. Cậu nhóc nói chung ổn lắm, chỉ có nhúm lông tơ và hơi dữ dằn chút thôi.” Mấy ngón tay Colin khum lại thành hình quả bóng để mô tả kích thước của con vật.

“Chị nghĩ cậu nhóc chắc phải đáng yêu lắm.”

“Lần sau đến Harrods, chị nhất định phải ghé qua để gặp nó nhé.” Anh con trai nhìn sang mẹ. “Mẹ đưa giúp con hộp cá ngừ được không ạ?”

Bà Weatherford bặm môi lại nhưng vẫn đưa cho anh hộp cá, “Mẹ nghĩ Tabby đã đủ lớn, chúng ta nên tìm cho nó một ngôi nhà khác. Không bao lâu nữa chính chúng ta còn phải tự kiếm ăn chứ đừng nói chi đến con mèo.”

Colin nhận lấy hộp thức ăn với nụ cười rầu rĩ.

“Hai đứa có thể nghĩ mẹ điên nhưng mẹ nói cho bay hay, sớm muộn gì mọi thứ cũng hiếm hoi chật vật hết.” Bà gấp những chiếc túi đã trống không và bắc ấm nước đầy lên bếp, trong lúc đó Colin dùng đồ khui để mở hộp cá ngừ.

Mùi cá tanh xộc lên khắp gian bếp nhỏ khiến Tabby lắm điều kêu ca khó chịu. Bà Weatherford quạt quạt tay trong không khí, miệng lên tiếng nhắc nhở, “Nhớ cẩn thận, Grace à. Bật đài lên đi rồi bác mang trà ra.”

Không đợi để nhắc đến lần thứ hai, Grace nhanh chân rời khỏi căn phòng nồng nặc đó. Nhưng khi cô bật radio lên, tin tức chào đón cô còn tệ hơn cả mùi tanh của cá.

Giọng nói khỏe khoắn của phát thanh viên Lionel Marson phát ra từ loa, “Đức đã xâm lược Ba Lan và đánh bom nhiều thị trấn…”

Grace đứng sững như trời trồng, tay cô trượt qua cái núm kim loại. Phát thanh viên tiếp tục tường thuật chi tiết sự kiện Ba Lan bị tấn công vào sáng hôm đó, các thành phố lớn của họ đã bị giội bom ra sao và Pháp huy động lực lượng như thế nào. Pháp và Anh vừa mới kí Hiệp định Tương trợ lẫn nhau với Ba Lan vài ngày trước nên hai nước này chắc chắn phải ra tay can thiệp.

Suốt thời gian còn lại từ chiều đến tối, cả nhà tập trung hết trong phòng khách, ngóng chờ từng bản tin để lượm lặt chút thông tin. Phần lớn đều là những điều họ biết rồi nhưng ai nấy vẫn chăm chú nghe, hi vọng biết thêm chút gì hay chút nấy.

Tuy trong lòng nóng như lửa đốt nhưng Grace vẫn làm rèm cửa cho hiệu sách và Viv hăng hái phụ một tay. Ngày đầu tiên Viv làm việc ở cửa hàng Harrods rất suôn sẻ, thuận lợi. Với tinh thần cảnh giác cao độ, sau khi ăn xong món bánh thịt lợn của bác Weatherford, họ chuẩn bị sẵn sàng cho buổi tối tắt đèn trước khi mặt trời lặn hẳn.

Hitler có thể tấn công nước Anh giống như ông ta đã tàn sát Ba Lan. Bất kì tia sáng nào hắt ra từ cửa sổ cũng có thế trở thành manh mối để máy bay của hắn định vị diêm ném bom.

Cảm giác đề phòng lạnh lẽo lan khắp sống lưng Grace. Trước đây, cô sợ hãi việc tắt điện và những quy định khắt khe, nhưng bây giờ Grace thầm biết ơn vì tầm nhìn xa trông rộng của chính phủ đã bảo vệ họ không biến thành mục tiêu giội bom lồ lộ giữa đêm đen.

Grace cũng rất cảm kích với hầm trú ẩn Anderson trong khu vườn sau nhà. Khi biết mình đang nhận được sự bảo vệ ngay sát bên, cô cảm thấy an toàn và yên tâm hơn hẳn.

Bóng tối đặc quánh của đêm tắt điện đầu tiên khiến Grace khó lòng yên giấc, nhất là khi tâm trí cô cứ ong ong những lời bàn tán về cuộc chiến và trăn trở về lũ trẻ bị sơ tán hồi sáng nay.

Những tấm rèm dày cộm rõ ràng đã làm rất tốt nhiệm vụ chắn sáng. Cuối cùng, Grace cũng chìm vào giấc ngủ nhưng sáng hôm sau, cô thức dậy muộn hơn gần nửa tiếng so với kế hoạch. Mặc dù đã cố gắng chuẩn bị khẩn trương nhưng cô vẫn tới cửa hàng muộn vài phút.

Thấy cô đến, ông Evans nhìn lên với vẻ mặt nghiêm nghị. Grace nắm chặt túi xách, chờ đợi những lời quở trách trút xuống đầu. Trong túi là tấm rèm chắn sáng dày tận ba lớp.

“Tôi cứ nghĩ cô đã bỏ quách cái nơi tăm tối không có tương lai này rồi.” Khóe miệng ông chủ tiệm nhếch lên thành nụ cười rồi ông từ từ quay người đi ra phía sau. “Nếu vậy tôi cũng không trách cô đâu.”

“Cháu xin lỗi vì đến trễ ạ.” Cô gọi với theo và chầm chậm thở ra. “Cháu có mang theo rèm đây ạ.”

Ông Evans ngoái lại nhìn chiếc túi xách của Grace và gật đầu một cái.

Đối với Grace, cử chỉ đó không khác gì lời cảm ơn mà cô hằng mong đợi. Trước tiên, cô bắt tay vào sắp xếp cửa hàng ngăn nắp, dọn dẹp đống hóa đơn và những thứ linh tinh mà ông Evans bày bừa trên quầy. Mặc dù còn mù mờ về sách vở mà tiệm đang bán nhưng Grace cũng chọn vài cuốn có bìa bắt mắt, xếp chúng thành một đường cong để trưng bày ở ô cửa sổ lớn.

Chí ít, đây cũng là sự khởi đầu.

Grace vừa kê một chiếc thang nhỏ để chuẩn bị treo những tấm rèm nặng trịch lên thì chuông cửa vang tiếng báo hiệu có khách đến. Một ông già bước vào, nhìn cô bằng ánh mắt sắc lẹm rồi cất giọng hỏi, “Cô là ai?”

“Cháu tên Bennett.” Grace trèo xuống thang. “Nhân viên mới của hiệu sách ạ.”

Vừa nhìn qua, cô không thể không liên tưởng vị khách này giống như chú chim đang gồng mình chống chọi cơn gió dữ trong một ngày lạnh lẽo. Mái đầu bạc phơ rụt vào đôi vai rúm ró và đôi chân khẳng khiu của ông thò ra ngoài chiếc áo khoác sẫm màu to sụ. Ông liếc nhìn tấm rèm đang chờ được treo lên rồi tặc lưỡi, “Không cần rèm riếc chi cho mất công. Xài hắc ín được rồi.”

Grace rùng mình khi nghĩ đến ý tưởng bôi đầy hắc ín lên cửa kính, “Bác cần cháu giúp gì không ạ?”

“Evans đâu?”

“Pritchard đó hả?” Ông Evans xuất hiện từ một rừng kệ sách, dĩ nhiên không quên ôm theo một cuốn sách nào đó ngay trước chiếc bụng phệ. Ông đóng mạnh cuốn sách lại và đẩy kính cao lên sống mũi.

“Ông mới thuê nhân viên đấy à?” Chiếc mũi nhọn hoắt càng khiến ông khách thêm giống chú chim hơn. “Hóa ra ông đang làm mấy chuyện này đấy hả?”

“Ông sẽ không biết mình cần gì khi chiến tranh ập đến đâu.” Ông Evans hóm hỉnh đáp. “Lại muốn đọ sức giữa tiệm sách của hai chúng ta à, Pritchard?”

Người khách tặc lưỡi, “Mắc gì phải lo! Chính phủ còn chưa tuyên bố chiến tranh mà. Nếu vụ um sùm ở Ba Lan buộc Anh phải nhảy vào thì ta sẽ đánh cho Hitler và đám quân ‘phát tởm’ của hắn một trận tan xác để chúng cuốn xéo về Đức. Để rồi ông xem, mọi chuyện sẽ chấm hết vào Giáng sinh thôi.”

“Tôi vẫn sẽ treo rèm lên.” Ông Evans gật đầu về phía Grace, giải thoát cô khỏi cuộc trò chuyện này. “Dù sao đi nữa, chí ít nó cũng ngăn bọn giám sát phòng không hiếu chiến gõ cửa nhà tôi.”

Ôm tấm vải trơn tuột trong tay, Grace lại leo lên thang để treo rèm trong lúc hai người đàn ông thảo luận về chuyện bán sách và chính trị.

“Cô làm thế nào để đuổi sạch lũ chuột ra khỏi tiệm vậy?” Ông Pritchard bất thần hỏi khi Grace làm xong việc. “Tôi luôn điên đầu với lũ chuột bọ đó.”

“Tiệm tôi chưa bao giờ có chuột.” Giọng ông Evans trở nên lơ đễnh, tỏ rõ ý muốn chấm dứt cuộc trò chuyện nhưng ông Pritchard lại không nhận ra dấu hiệu tinh tế này.

Người khách rụt đầu sâu hơn vào vai và càu nhàu, “Biết đâu là do ông không ở gần sông Thames thôi. Đâu giống như tôi ở phố Paternoster Row.”

“Bác cần một con mèo ạ.” Grace nói khi đã xuống khỏi thang và ngắm nghía thành quả của mình. “Con trai bác Weatherford có nuôi một con mèo và nó đang cần tìm ngôi nhà mới.”

Ông Pritchard chế giễu, “Cái bà ưa chõ mũi vào chuyện người khác ấy à?”

Grace vờ loay hoay gấp thang lại để giấu đi cái cau mày trước đánh giá khó nghe của ông khách về người phụ nữ đã hết lòng cưu mang cô. “Muốn bắt chuột thì cần một con mèo. Cháu dám chắc sáng nay bác Weatherford không bận rộn gì nên sẽ sẵn lòng nghe điện thoại của ông.”

Ít ra như vậy cũng có thể tìm được ngôi nhà mới cho Tabby.

Ông Pritchard từ tốn gật gù, “Tôi biết rồi. Ờ, tôi cũng nghĩ có lẽ mình cần một con mèo. Chúc một ngày tốt lành nhé, Evans.”

Ông Evans lẩm bẩm chào tạm biệt và ông Pritchard rời khỏi hiệu sách. Sau khi đã treo rèm và trưng bày những cuốn sách lên cửa sổ thật đẹp mắt, Grace chuyển sang nhiệm vụ tiếp theo: tìm chỗ sắp xếp lại những chồng sách ngổn ngang trên sàn nhà.

Cô không ngờ nhiệm vụ này lại thách thức đến vậy. Mọi hệ thống kệ sách mà ông Evans từng đặt ra trước đây đều đã xáo trộn lung tung. Bây giờ Grace buộc phải tự tạo ra một hệ thống mới. Trước sau gì cũng phải làm, nhưng bây giờ cô chỉ đang tìm chỗ sắp xếp những bộ sách bị bỏ đi.

Grace làm say sưa quên giờ giấc đến nỗi ông Evans phải lên tiếng nhắc mấy lần rằng cô đã ở lại quá giờ quy định. Mỗi lần bị nhắc, cô đều trả lời ông là sắp xong rồi, nhưng hễ lúc nào Grace nghĩ mình sắp xong thật thì cô lại phát hiện thêm nhiều chồng sách nữa.

Một tiếng sấm nhỏ làm Grace chú ý, ông Evans xuất hiện trước mặt cô, tay cầm theo chiếc ô, “Cô Bennett, về nhà đi. Tôi phải đóng cửa, trời cũng sắp mưa rồi.”

Cô ngước lên từ một dãy sách được ép sát rạt vào nhau đến mức không thể nhét thêm bất kì quyển nào, mặc dù Grace đã cất đi đến hơn hai chục cuốn. Những cuốn sách vẫn chưa được sắp xếp theo thứ tự nhưng ít ra cũng không còn nằm vạ vật trên sàn.

Cô nhìn về phía cửa sổ và thấy rèm đã được kéo ra. Rõ ràng đã đến giờ toàn thành phố tắt điện.

Thật sự đã muộn đến vậy ư?

“Mai cô nghỉ ở nhà đi.” Ông Evans nói. “Hôm nay cô làm nhiều lắm rồi.”

“Nhưng hôm qua…”

“Lẽ ra cô được về từ chiều nhưng bây giờ đã đêm rồi.” Ông dúi cái ô vào tay cô lần nữa. “Nếu bà Weatherford còn gọi đến tìm cô chắc bà ấy nhai nát đầu tôi mất.”

A! Bác Weatherford. Chắc chắn việc cô về muộn đã khiến bác đứng ngồi không yên. Grace nhận lấy cái ô rồi vội vàng thu dọn đồ đạc. Ông Evans theo cô ra đằng trước và mở cửa.

Bên kia cánh cửa là màn đêm đen kịt, thăm thẳm mịt mù như biển cả vô tận.

Grace chớp chớp mắt như muốn nhìn cho rõ nhưng vô ích, cô không thể chống lại bóng tối đặc quánh này. Cô không hề biết việc tắt hết đèn điện sẽ khiến người ta bất lực như vậy.

“Tôi nên đưa cô về nhà thì hơn.” Ông Evans như đang nói với chính mình chứ không phải với cô.

“Không cần đâu ạ!” Grace rướn cổ cao hơn một chút, giống như Viv hay làm mỗi khi muốn thể hiện hết sự tự tin. Nhưng trong trường hợp này Grace chỉ muốn tỏ ra can đảm. Grace giải thích, “Nhà cháu cách đây chưa đến mười phút. Hai bác cháu mình không cần để bị ướt hết đâu ạ.”

Ông chau mày như đang định nói gì đó thì một tiếng còi lanh lảnh chói tai xuyên qua không khí.

“Tắt đèn đi,” tiếng ai đó quát từ đằng xa. Giọng nói ra lệnh trịch thượng đó rõ ràng là của người giám sát phòng không, những người dân tự nguyện nhận nhiệm vụ giám sát bà con trong khu phố thực thi lệnh tắt điện.

“Chúc bác ngủ ngon, bác Evans.” Grace nhanh chân lách ra khỏi cửa tiệm rồi mở bung chiếc ô.

Ông Evans vẫn đứng đợi, giữ cửa mở cho cô thấy đường. “Tắt đèn đi, ông Evans,” người giám sát lại gào lên, lần này ở khoảng cách gần hơn.

Cuối cùng, ông để cánh cửa đóng lại và tấm chăn bóng đêm dày đặc trùm kín lên người Grace. Bóng đêm như ép chặt vào mắt cô, khiến cô cố căng mắt ra để nhìn cho được thứ gì đó - bất kể là thứ gì - nhưng đành bó tay bất lực.

Nếu vào những lúc bình thường thì luôn có người qua lại hoặc những chiếc ô tô chiếu đèn pha sáng rực lên mặt đất tối đen như mực, có cả những cột đèn tỏa ánh vàng ấm áp xuống mặt đường. Nhưng bây giờ, trong thời gian tắt điện giới nghiêm, tuyệt nhiên không có chút tia sáng nào.

Grace bần thần đứng yên một chỗ để cố xác định phương hướng nhưng mọi nỗ lực đều vô ích. Mưa vẫn không ngừng rơi tí tách trên chiếc ô.

Vì không thể thấy gì nên Grace đành dò dẫm tìm đường về nhà theo trí nhớ. Thật bất ngờ khi chỉ sau một tuần ở London, cô đã có thể dễ dàng hình dung ra con đường đến phố Britton, với điều kiện Grace nhận ra chính xác cảnh vật xung quanh.

Grace thận trọng bước lên một bước, tiếng giày lọc cọc vang lên giữa con phố vắng ngắt. Cô thầm mong có một chướng ngại vật nào đó để giúp mình định hướng. Nhưng chẳng có gì cả. Bước thứ hai, rồi bước thứ ba cũng thế. Grace tiếp tục dò dẫm từng bước ngập ngừng trên vỉa hè, trong màn đêm tối mịt chỉ có tiếng lạch cạch vang lên dưới đế giày.

Cô đã đi được bao nhiêu bước rồi? Grace đi chậm lại và đưa cái tay còn rảnh ra trước mặt, vỗ nhẹ vào không khí.

Liệu cô có nên quay lại và nhờ ông Evans đưa về nhà không? Nhưng sau đó làm sao ông ấy quay về cửa hàng?

Thần kinh của cô như muốn vỡ tung ra theo từng bước chân mù mờ, mọi giác quan đều căng lên đầy cảnh giác. Một tiếng đì đùng thình lình vang lên trong màn đêm tịch mịch. Có cái gì đó đang lao đến, Grace vội vàng lùi lại nhưng chẳng may vấp ngã. Một chiếc ô tô không bật đèn pha vù vù lướt qua, cuốn chiếc váy của cô bay tung theo luồng gió mạnh và làm bắn tung tóe một thứ nước chắc hẳn là nước mưa.

Chiếc váy của Grace liền dính sát vào người khiến cô lạnh buốt và ướt sũng thứ nước bẩn thỉu. Lúc này, Grace chỉ biết vòng hai tay ôm lấy mình trong khi một tay vẫn nắm chặt cán ô, cô không còn tâm trí đâu để ý đến việc mưa quất vào người lạnh buốt như thế nào nữa.

Trên đầu, một ánh chớp chói lòa lóe lên chiếu sáng cả không gian. Chỉ cần như vậy là đủ để Grace xác định phương hướng cần đi và biết chắc không còn chiếc xe nào đang lao về phía mình nữa.

Ướt sũng, không nhìn thấy gì và lạnh cóng, Grace loạng choạng dò từng bước trở về phố Britton. Thỉnh thoảng một tia chớp lại lóe lên. Chặng đường hằng ngày thường vẫn đi chỉ mất mười phút vậy mà hôm nay dường như kéo dài vô tận. Không ai biết Grace đã tốn bao nhiêu thời gian đi qua đi lại ngôi nhà của bác Weatherford trong nỗ lực vô vọng là xác định đúng cánh cửa cần vào.

Cuối cùng, Grace cũng xác định được chắc chắn đâu là nhà mình và thận trọng leo lên từng bậc thang. Đôi giày của cô ngấm nước nhiều đến mức mỗi chiếc như nặng thêm mấy cân. Mỗi khi Grace đặt chân xuống thì chúng lại bẹp dúm, làm cho nước đọng quanh những ngón chân. Grace sờ soạng lên cánh cửa để tìm tay cầm. Chất kim loại mát lạnh chạm vào lòng bàn tay, mấy ngón tay cô liền nắm lấy nó. Cánh cửa được mở khóa, đẩy bật vào trong.

Ánh sáng chói lòa khiến mắt Grace muốn nổ tung. Vừa bước ra từ bóng tối mịt mù nên cô gần như chưa nhìn thấy gì. Grace liêu xiêu bước vào và chực ngã gục xuống đất.

“Grace,” bác Weatherford đang ngồi trong phòng khách thảng thốt kêu lên. “Trời ơi con ơi, có chuyện gì vậy? Chúng ta lo đến phát bệnh đây.”

Chính trong những lúc căng thẳng thế này, tính cách ưa sai bảo của bà Weatherford lại vô cùng hữu ích. Chỉ trong vòng một tiếng ngắn ngủi, Grace đã kịp hong khô người, thay quần áo sạch và nhâm nhi tách trà ấm nóng trước khi ngả lưng lên giường.

Tận hưởng cảm giác an toàn và ấm áp dưới lớp chăn bông, Grace rúc sâu vào giường và lại bầu bạn với bóng đêm khi nó lôi cô vào giấc ngủ. Trước khi giấc ngủ tóm được Grace, cô đã lên kế hoạch tận dụng ngày nghỉ ở hiệu sách để đến tham quan phố Paternoster Row vào sáng mai. Sau khi ngắm nghía cách bài trí và sắp xếp sách vở trong những cửa hiệu ở đó, biết đâu cô sẽ nảy ra ý tưởng hay ho hơn để thực hiện công việc của mình.

Thật không may, mọi kế hoạch đã sắp xếp đâu vào đó lại tan thành mây khói trước tin tức ập đến vào sáng hôm sau.