← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 5

Nước Anh chính thức tuyên bố có chiến tranh.

Ngày hôm sau, trước khi Grace kịp rời khỏi nhà, thủ tướng đã thực hiện một buổi phát thanh đặc biệt vào lúc 11 giờ 15 phút.

Grace ngồi cạnh Viv trên chiếc sô pha bọc ni, lắng nghe giọng Thủ tướng Chamberlain sang sảng vang lên khắp gian phòng khách nhỏ. Colin không còn ngồi trên sàn vì con mèo Tabby đã chuyển đến chỗ ông Pritchard. Bây giờ anh đang nhấp nhổm bên mép chiếc ghế gỗ Morris ngay cạnh mẹ mình.

Chính giữa cái bàn nhỏ đặt một khay trà, bên cạnh là bình hoa cúc dại nhưng chưa một ai đụng đến.

Thủ tướng tiếp tục cho biết Đức đã phớt lờ yêu cầu rút quân khỏi Ba Lan. Grace nín thở, thầm cầu nguyện ngài Chamberlain đừng thông báo tin tức mà tất cả bọn họ đang hãi hùng nghĩ đến.

Nhưng cho dù tất cả thính giả ở London đều nín thở thì cũng không ngăn được ông nói ra những lời tiếp theo. “… Vì vậy, đất nước của chúng ta sẽ bước vào cuộc chiến với Đức.”

Tuy đã lường trước tình hình nhưng lời tuyên bố đó vẫn giáng vào Grace một cú xây xẩm mặt mày. Tại sao một sự kiện vốn nằm trong dự đoán vẫn có thể khiến người ta choáng váng đến vậy?

Và không chỉ một mình Grace bàng hoàng.

Viv cầm chiếc khăn tay viền ren xinh xắn mà cô đã thêu trước khi rời làng Drayton chấm nhẹ lên mắt. Bác Weatherford hít mạnh một hơi và Colin ngay lập tức nắm lấy tay mẹ.

Chiến tranh một lần nữa nổ ra tại đất nước của họ.

Điều đó có nghĩa là gì? Họ sẽ bị giội bom? Đàn ông buộc phải nhập ngũ? Hay lương thực sẽ bị cắt giảm?

Grace nhớ lại những điều mẹ từng kể về thời Chiến tranh Thế giới thứ Nhất đầy loạn lạc khổ đau. Đối với Grace, chúng chỉ là những câu chuyện không có bối cảnh và cô khó lòng hình dung những năm tháng ấy thật sự diễn ra như thế nào. Vậy mà giờ đây, thế giới bí hiểm đó sắp biến thành hiện thực cuộc sống mới mà họ phải tập làm quen.

Một tiếng rền rĩ đinh tai xé tan bầu không khí im lặng. Hồi còi báo hiệu không kích liên tục réo vang lúc cao lúc thấp. Máu trong người Grace đông cứng cả lại. Cô nghẹt thở. Cả người hoàn toàn bất động.

Họ sẽ bị ném bom. Giống như Ba Lan. Bị quân Đức tấn công.

“Grace.” Bác Weatherford mạnh mẽ gọi tên cô, phá tan lớp sương mù khiếp sợ đang bao trùm lấy cô. “Đổ đầy nước vào bồn rửa bát và bồn tắm. Viv, mở tất cả cửa sổ ra. Bác sẽ lấy mặt nạ và dụng cụ ra, còn Colin đi khóa hết van ga ở đường ống chính.”

“Nh… nhưng bom.” Viv lắp ba lắp bắp, Grace chưa bao giờ thấy bạn mình khiếp sợ như vậy.

“Họ mới thấy máy bay thôi.” Bà Weatherford đứng bật dậy và tắt radio. “Chúng ta có ít nhất năm phút để dời xuống hầm.”

Giọng điệu bình tĩnh đầy uy lực của bác đã kéo tất cả mọi người đứng lên thực hiện nhiệm vụ. Grace không hiểu tại sao phải đổ đầy nước vào tất cả các bồn nhưng cô vẫn ngoan ngoãn làm theo. Tiếng nước chảy xối xả hòa cùng tiếng còi báo động rền rĩ vang lên bên tai.

Chưa bao giờ các vòi nước lại chảy chậm rì rì như thế.

Khi cái bồn cuối cùng được đổ đầy, Grace ba chân bốn cẳng chạy xuống hầm. Nơi trú ẩn thực ra rất đơn giản, chỉ là một đường cong bằng kim loại được chôn bên dưới một ít bùn đất, tạo thành khối chữ U úp ngược chìm xuống. Từ trước đến nay, Grace chưa bao giờ mảy may tự hỏi một công trình như vậy làm sao có thể bảo vệ họ tránh khỏi mưa bom bão đạn.

Cô bước xuống một lối đi hẹp, lách mình chui vào chỗ trú ẩn. Mùi đất và mùi kim loại ẩm ướt xộc lên mũi, ánh nắng trên đầu bị che khuất nên mọi thứ trong hầm đều tối mờ mờ. Trong chỗ tranh tối tranh sáng đó, Colin đã đặt hai băng ghế dài ở hai bên thành hầm chật chội và Viv đang ngồi trên một chiếc. Viv vòng tay ôm lấy người và ngước lên đầy căng thẳng, đôi mắt nâu long lanh mở to lộ rõ sự hoang mang.

Còi báo động đã ngừng. Một sự im lìm đáng ngại thay thế cho tiếng rền rĩ thảm thiết.

Grace ngồi cạnh Viv và nắm lấy tay bạn. Cô không tìm được một lời an ủi nào bởi lẽ mọi khối cơ trên chính cơ thể cô cũng đang căng thẳng đến muốn nổ tung.

Chính là nó. Giống như Ba Lan. London chắc chắn cũng sẽ bị tàn phá hệt như Warsaw.

Thậm chí Grace còn chưa từng nghe âm thanh bom nổ và cũng không biết chuyện gì sẽ xảy ra, huống hồ là biết cách ứng phó nếu chẳng may họ bị tấn công trong lúc trú ẩn dưới hầm.

Colin là người tiếp theo chui vào hầm. Anh gập thân hình cao kều rồi ngồi xuống chiếc ghế đối diện với hai cô gái. Đầu anh hơi cúi về phía trước để vừa vặn với cái trần thấp lè tè. Bác Weatherford vào sau cùng, một vai đeo bốn chiếc mặt nạ phòng độc, còn một tay ôm theo cái thùng lớn. Âm thanh di chuyển lạch cạch của bác đập vào khung thép và dội vào tai họ.

Colin nhanh chóng đưa tay lên đỡ giúp mẹ chiếc thùng. Bà cười tỏ vẻ cảm ơn và phát cho mỗi người một cái mặt nạ.

Grace đưa đôi tay đang run bần bật ra nhận lấy mặt nạ. “Chúng ta có nên đeo luôn bây giờ không ạ?”

“Khi nào cháu nghe thấy tiếng gỗ gõ lạch cạch bên ngoài thì hẵng đeo.” Bác ngồi xuống ghế, bên cạnh Colin. “Những người giám sát phòng không đều được trang bị mặt nạ với mục đích như vậy. Bác đã mua một ít thuốc mỡ chống khí độc ở hiệu thuốc. Chúng ta có khoảng một phút để bôi nó lên phần da để trần, như vậy là dư dả thời gian rồi. Các con thấy đó, không có gì đáng lo đâu.”

Bác nhấc chiếc nắp thùng sơ sài lên, bên trong đựng vô số vật dụng lỉnh kỉnh. Một hộp thuốc mỡ chống khí độc số 2 với cái nắp màu vàng, một hộp khoai tây chiên giòn hiệu Smiths, một vài chai lọ gì đó có vẻ là nước chanh cùng một ít sợi và kim đan.

“Con khóa ga chưa, Colin?” Giọng bà Weatherford vẫn dịu dàng và điềm tĩnh, giống như họ không phải đang ngồi chờ cái chết xộc đến vậy.

Anh con trai gật đầu.

“Bồn rửa và bồn tắm thì sao?” Bác nhìn sang Grace.

Cô cũng gật đầu. Viv đang ngồi cạnh cô cũng mau mắn gật theo mà không cần đợi bác hỏi đã làm xong nhiệm vụ hay chưa.

“Giỏi lắm.” Bà Weatherford đưa chiếc thùng về phía Grace và Viv. “Ăn miếng khoai tây chiên không các cháu?”

Miệng của Grace khô khốc, đến nuốt nước bọt còn khó khăn chứ đừng nói đến ăn uống. Chưa kể dạ dày của cô đang thắt lại nên nhất định sẽ không tiếp nhận bất cứ thứ gì. Grace nhìn chằm chằm vào hộp khoai tây chiên giòn màu xanh lam và lắc đầu.

“Chúng ta có nên đặt cánh cửa đó vào đúng vị trí không ạ?” Viv chỉ cánh cửa thép đang đặt bên cạnh lối vào hầm.

Bà Weatherford thậm chí không buồn ngoái lại. “Chừng nào nghe tiếng máy bay thì ta sẽ bít cửa lại. Giờ mà đóng lại thì trong này sẽ tối thui như cúp điện đấy.”

“Sao bác có thể bình tĩnh như vậy ạ?” Grace hỏi.

“Cháu yêu ạ, London không phải mới bị đánh bom lần đầu.” Bác chìa chiếc hộp thiếc về phía Viv nhưng cũng nhận được cái lắc đầu lặng lẽ. “Thu thập kiến thức là cách tốt nhất chống lại nỗi sợ hãi. Bác đã dành khá nhiều thời gian để hỏi ý kiến ông Stokes về cách chuẩn bị mọi thứ thật đúng đắn.”

“Ông Stokes là người giám sát công tác phòng không ở khu chúng ta.” Colin khui nắp chai nước chanh và đưa cho Grace. Cô đưa tay nhận lấy trong trạng thái gần như chết lặng. Anh tiếp tục đưa cho Viv, cho mẹ và cuối cùng mới tự lấy cho mình.

Bác Weatherford đậy nắp thùng và nhấp một ngụm nước. “Chúng ta đổ đầy nước vào các bồn để có phương tiện dập lửa nếu chẳng may đường ống nước bị hư. Mở hết cửa sổ ra để nhìn thấy các đám cháy bên trong và hi vọng cơ quan chức năng sẽ đến dập kịp thời. Còn việc khóa ga, bác nghĩ tụi con đều hiểu tại sao.”

Grace cảm thấy bớt căng thẳng phần nào trước thái độ điềm tĩnh của người bác. Grace không biết cô có thể tự tin, bình thản giống như người bạn của mẹ mình hay không nhưng cách hành động dứt khoát của bà khiến nỗi sợ trong cô vơi bớt dần.

Chai nước chanh mát lạnh trên tay cô. Cô đưa cái chai thủy tinh lên môi và hơi ngửa đầu lên uống. Thứ nước giải khát ngọt ngào, thơm phức chảy tràn vào khoang miệng rồi đọng lại thứ vị chua chua ở hàm dưới. Grace không hề nhận ra miệng mình khô rát đến vậy cho đến khi dòng chất lỏng tươi mát đó chảy xuống cổ họng.

“Hồi Chiến tranh Thế giới thứ Nhất thì như thế nào ạ?” Viv hỏi.

Tất cả bọn họ đều hướng mắt về phía bà Weatherford, kể cả Colin. Tất nhiên, Grace đã nghe mẹ kể về trải nghiệm của mẹ nhưng cuộc sống ở London chắc hẳn phải khác với ở quê rất nhiều.

“Ờ thì…” Người phụ nữ bình tĩnh nhìn khuôn mặt của các cô, cậu thanh niên. “Không dễ chịu gì. Mấy đứa có chắc là muốn biết không, vì có thể chúng ta sẽ sớm phải đối mặt với hoàn cảnh tương tự đấy?”

Viv cười toe toét, “Thu thập kiến thức là cách tốt nhất để chống lại nỗi sợ hãi. Bác đã nói như vậy mà.”

“Làm sao bác có thể từ chối một câu trả lời bạo dạn như thế nhỉ?” Bác Weatherford vuốt thẳng chiếc váy, hít sâu một hơi và kể cho họ nghe câu chuyện của nhiều năm về trước. Lúc đó, việc sử dụng thực phẩm bị giám sát khắt khe đến mức chỉ cần cho chim bồ câu trong công viên ăn cũng có thể bị phạt. Trước khi ném bom, những chiếc tàu bay Zeppelin và máy bay hạng nhẹ lượn lờ trên bầu trời giống như những quả khinh khí cầu. Chúng bay quá cao nên Không quân Hoàng gia Anh không thể tiếp cận nổi.

Nhưng bà cũng nói về chiến thắng - những chiếc tàu bay Zeppelin đã đại bại dưới tay loại máy bay mới có thể vươn đến độ cao cần thiết, phụ nữ được nhận vào làm ở nhiều vị trí trong công sở và được phép đi bỏ phiếu, và người dân Anh đã vượt qua giai đoạn thiên nan vạn nan đó bằng tình bằng hữu keo sơn.

“Điều tồi tệ nhất là gì ạ?” Viv lo lắng nhìn Grace. “Để chúng cháu chuẩn bị tinh thần.”

Bà Weatherford nhìn Colin bằng ánh mắt nghiêm trang hiếm thấy rồi thẫn thờ nhìn sang chỗ khác. “Những người đàn ông một đi không trở lại,” giọng bà trầm xuống.

Tiếng còi báo động rền rĩ chói tai đột ngột xuyên qua không gian lần nữa khiến họ giật bắn mình.

Ngay cả trong lúc hãi hùng tột độ, Grace vẫn nhận ra tiếng còi lần này khác với lần thứ nhất, nó kéo một hồi dài rền vang chứ không ngập ngừng thất thường như lúc nãy.

“An toàn rồi đó.” Bác Weatherford uống nốt ngụm nước chanh cuối cùng và cất cái chai rỗng vào thùng. “Tất cả chúng ta đã sống sót sau đợt cảnh báo không kích đầu tiên. Cầu trời đừng có thêm lần nào nữa.” Bà thu dọn mặt nạ phòng độc, Colin nâng chiếc thùng lên và họ cùng rời khỏi căn hầm tối tăm bẩn chật.

Vài tiếng sau, đài phát thanh thông báo rằng báo động không kích ngày hôm đó chỉ là giả.

Nhưng nếu lần tiếp theo là thật thì sao?

Những mối băn khoăn lo lắng liên tục nổi lên trong tâm trí khi Grace cố gắng ru mình vào giấc ngủ. Không gian tĩnh mịch nhấn chìm nỗi sợ vào những góc u tối nhất.

Ngày hôm sau, chuỗi tin tức lê thê bất tận trên radio cũng chẳng cung cấp thêm thông tin nào mới. Đã đến giờ Grace phải đi làm.

Ông chủ tiệm vẫn không ngẩng đầu lên khi cô bước vào. Grace biết bây giờ không nên mong đợi gì hơn. Nhiều mẩu rác vụn vứt bừa bãi trên mặt quầy tính tiền, những tấm rèm chắn sáng vẫn kéo kín bưng để che nắng và vài chồng sách mới mọc lên trên mặt sàn xám xịt hệt như đống cỏ dại.

“Dường như chúng ta đang có chiến tranh.” Grace nhẹ nhàng nói.

Ông Evans nhìn lên và nhướng mày, “Ông Pritchard bảo đến Giáng sinh sẽ kết thúc thôi.”

“Bác nghĩ sao về chuyện này ạ?” Grace hỏi.

“Chiến tranh thì không ai đoán trước được gì đâu, cô Bennett ạ.” Ông Evans kẹp một mảnh giấy vào giữa quyển sách của mình, sau đó đóng sổ cái và để lại một tờ giấy khác.

Grace nhặt mẩu giấy bị bỏ sót đó, toan trả lại cho ông nhưng ông đưa tay ngăn lại, “Đó là danh sách những cuốn đang bán ở đây và cách sắp xếp chúng theo chủ đề.”

Grace khá phấn khởi và tập trung nhìn danh sách. Một dãy tựa sách được viết tay gọn gàng, bên cạnh kèm theo tên thể loại, “Cháu sẽ tìm thấy mấy quyển này ở đâu ạ?”

Ông Evans nhún vai, “Sau khi cô tìm được chúng thì việc bắt đầu phân loại đống lộn xộn đó từ đâu cũng như nhau thôi mà, phải không?” Nói đoạn, ông quay lưng đi về đằng sau cửa hàng. “Nhớ là phải về trước 2 giờ,” tiếng ông vọng lại qua vai khi ông sải bước đi. “Tôi sẽ không để cô ở lại làm đến tối mịt tối mờ và mò mẫm về nhà trong bóng tối nữa đâu. Tôi cũng không chịu nổi bất kì cuộc gọi mắng vốn nào của bà Weatherford về vấn đề này.”

Grace nhăn nhó. Cô có thể tưởng tượng ra hai người họ đã cự cãi nhau thế nào. Thay vì suy nghĩ vẩn vơ và khó chịu về ông Evans, cô quyết định tập trung nghiên cứu tờ danh sách.

Trên cùng là hai mươi lăm tựa sách được phân loại vào nhóm tiểu thuyết kinh điển, tiếp theo là nhóm sách lịch sử, triết học và tiểu thuyết huyền bí. Đến chiều, Grace chỉ mới tìm được bốn cuốn tiểu thuyết kinh điển. Tiếng chuông của bất ngờ vang lên cắt ngang mạch làm việc của cô. Grace kéo mình ra khỏi chiếc kệ mà cô đang săm soi rồi chuyển ra đằng trước hiệu sách tiếp tục tìm kiếm để tiện giúp đỡ người khách mới đến.

Vị khách quen đó chẳng phải ai khác mà chính là George Anderson. Anh chào cô bằng một nụ cười quyến rũ, “Chào buổi chiều, cô Bennett.”

Trái tim Grace đập rộn ràng hơn, “Chúc một ngày tốt lành, anh George. Em có thể giúp gì cho anh không?” Cô suýt phì cười vì lời đề nghị của mình giống y hệt lần trước. “Hoặc anh có thể ngồi đây trong lúc em tìm mấy cuốn sách.”

“Cô đang cần tìm gì sao?” Chàng trai nhìn lướt qua danh sách trên tay Grace.

Cô giấu vội tờ giấy ra sau lưng vì nhận thấy anh có ý muốn giúp đỡ. Cô lắc đầu, “Không có gì đâu ạ.”

Đôi mắt xanh lục của anh nheo lại tỏ vẻ ngờ vực hài hước, rồi anh nở nụ cười trêu chọc, “Không có gì thật sao? Tôi không nghĩ vậy đâu.”

Grace định phủ nhận nhưng lại nghĩ biết đâu anh ấy hiểu rõ cửa hàng hơn cô thật thì sao? Cô chậm rãi xòe tờ giấy ra, “Em đang cố gắng sắp xếp lại hiệu sách và bác Evans đưa cho em những tựa sách này để bắt đầu.”

Anh cầm tờ danh sách và chăm chú nghiên cứu nó. Với bộ com lê ba mảnh được may khéo léo và mái tóc đen được chải gọn gàng, trông George như một luật sư đang đọc hồ sơ vụ án quan trọng hơn là một khách hàng đang giúp cô nhân viên kiểm kê sách vở thất lạc.

Anh làm nghề gì nhỉ?

Grace mím môi để không bật ra câu hỏi đó. Thay vì vậy, cô nói, “Em đã tìm thấy bốn quyển Đồi gió hú, Lý trí và Tình cảm, Hai thành phố và Frankenstein,” rồi cô đi vòng quanh anh để chỉ vào các tựa sách. Người anh tỏa ra một mùi hương sạch sẽ, tựa hồ mùi xà bông cạo râu và mùi gì đó cay cay mà Grace không biết tên. Thứ mùi hương thật hấp dẫn.

“Khởi đầu tốt đấy.” Anh nháy mắt với Grace. “Để xem chúng ta còn tìm được cuốn nào khác không.”

Hai người cùng bắt tay rà soát các kệ sách. Trong lúc làm việc, cô thú thật ý định muốn đến phố Paternoster Row để tìm cách quảng cáo ăn khách nhất cho hiệu sách Đồi Primrose.

“Paternoster Row là một địa chỉ xuất bản uy tín.” Hàng mi của George khẽ hạ thấp xuống trong lúc nhìn lướt qua dãy sách trước mặt. “Có nhiều nhà in, thợ đóng sách và đủ loại công ty xuất bản khác nhau. Số ít trong đó có khuynh hướng thiên về tôn giáo do ảnh hưởng bởi lịch sử của con phố này.”

“Lịch sử thế nào ạ?” Grace hỏi.

“Nhà thờ chính tòa Thánh Paul cũng ở đó.” Anh đưa ngón trỏ lướt dọc theo một dãy gáy sách đủ màu. “Người ta nói cách đây nhiều năm, các giáo sĩ thường diễu hành trên phố trong lúc đọc Kinh Lạy Cha, vì vậy mới đặt tên như thế.” Chàng trai dừng lại ở một quyển sách có gáy màu hạt dẻ với dòng chữ mạ vàng chạy dọc trên gáy. “Lý trí và Tình cảm. Tôi có thể mạo muội khẳng định đây là một câu chuyện xuất sắc. Một kiệt tác kinh điển.”

“Nhưng cũng là một câu chuyện tình yêu?” Grace nhận lấy cuốn sách và bổ sung nó vào chồng sách ít ỏi đến đáng thương sau một buổi sáng miệt mài “khai quật”.

Anh lại nở nụ cười sảng khoái, hào phóng, ấm áp mà cô rất yêu mến. “Cô sẽ không biến cửa tiệm này thành một nơi hợm hĩnh khoe khoang như những hiệu sách khác đâu, đúng không?” George nhăn mặt.

“Em chưa thấy chúng bao giờ.” Grace thừa nhận. “Nhưng dù sao em cũng nghĩ mình sẽ không bao giờ làm vậy. Em muốn biến nơi này trở nên ấm cúng và hiếu khách hơn.”

“Tôi luôn trân trọng cảm giác cổ kính mà nơi đây mang lại.” Người khách trẻ rướn một vai lên. “Thật đáng tiếc nếu nó trở thành hiệu sách Nesbitt’s Fine Reads thứ hai, mọi thứ đều mới toanh bóng lộn nhưng chẳng có chút cá tính đặc sắc nào.”

“Em sẽ tự mình đến đó xem để hiểu những gì anh nói. Em muốn làm hết sức để giúp hiệu sách Đồi Primrose hấp dẫn hơn. Có nhiều khách hơn.”

“Thật tốt vì cô tận tâm với nó như vậy.”

“Thật ra thì mục đích của em không cao thượng lắm đâu,” Grace thú nhận. Cô kể cho anh nghe về nhiều năm trời làm lụng vất vả để vực dậy cửa hàng của người chú, sau đó bất đắc dĩ chuyển đến London nhưng không có thư giới thiệu nên không thể đi làm ở nơi nào khác. Grace vốn ít khi chia sẻ chuyện riêng tư với người khác, nhưng ở George có một sự tử tế khiến cho anh dường như đáng tin cậy nên cô đã quyết định mở lòng.

Chàng trai lắng nghe và hơi nhíu mày, thỉnh thoảng gật gù tỏ vẻ thấu hiếu. “Tôi rất tiếc trước những gì cô phải trải qua. Tôi sẵn lòng giúp cô một tay trong việc tân trang cửa hiệu này để cô nhận được lá thư giới thiệu ấn tượng nhất từ trước đến nay.”

Hai má Grace nóng bừng lên và đột nhiên cô cảm thấy không còn buồn phiền vì hoàn cảnh khó khăn vừa qua nữa. “Thật ra anh có thể giúp em.”

George cầm tờ danh sách mà họ đang nghiền ngẫm lên, nhướng một bên mày ra vẻ thật tếu táo. “Bằng cách tìm cho ra tất tần tật đống sách này hả?”

“Thậm chí em còn không biết chắc kì tích như vậy có khả thi không.” Grace liếc về phía trước cửa hàng để xem có ai bước vào không. Cuộc trò chuyện của họ lôi cuốn quá nên dám chừng cô đã không nghe thấy tiếng chuông nào đó. “Em có thể hỏi anh vài câu về việc đọc sách không, để biết cách quảng cáo cho hiệu quả nhất ấy.”

“À, cô muốn ‘rà trúng đài’ của độc giả phải không?” Anh chàng chỉ ngón tay vào cô. “Xuất sắc.”

Một làn sóng ấm áp nữa lại tràn qua khuôn mặt cô gái trẻ. “Anh thích điều gì nhất trong việc đọc sách?”

George đan các ngón tay vào nhau và gõ nhẹ tay này lên tay kia trong lúc suy nghĩ. “Một câu hỏi khó đấy, không khác gì yêu cầu tôi mô tả tất cả màu sắc trong một ống kính vạn hoa đang xoay tít.”

“Thật sự phức tạp lắm sao?” Grace bật cười.

“Tôi sẽ cố gắng.” George nghiêng đầu và ánh mắt chăm chú nhìn xa xăm, rõ ràng anh đang cân nhắc câu trả lời một cách rất thận trọng. “Đọc sách sẽ…” Anh chau mày lại nhưng rồi vầng trán giãn ra khi những lời lẽ thích hợp đã lóe lên trong trí óc. “… sẽ đưa ta đến bất cứ nơi đâu mà không cần bắt xe lửa hay đón tàu. Sách mang ta đi chu du những thế giới mới mẻ ngoài sức tưởng tượng, cho ta sống một cuộc đời hoàn toàn khác với cuộc đời mà ta hằng quen thuộc và nhìn ngắm vạn vật dưới lăng kính của nhiều người khác. Đọc sách là cách học mà không phải đối mặt với hậu quả thất bại và là con đường tốt nhất để đi đến thành công.” Anh ngập ngừng giây lát. “Tôi nghĩ trong tất cả chúng ta đều có một khoảng trống, một khoảng trống đang chờ được thứ gì đó lấp đầy. Đối với tôi, thứ đó chính là sách và tất cả trải nghiệm mà chúng tặng cho người đọc.”

Grace nghe tim mình mềm đi trước giọng điệu trìu mến mơ mộng của chàng trai trẻ. Cô ghen tị với những cuốn sách lẫn niềm hạnh phúc đong đầy mà George tìm được trong đó. Cả cuộc đời Grace chưa bao giờ gặp được bất cứ điều gì khơi dậy niềm say mê đến thế.

“Em đã hiểu tại sao anh lại nói rằng mình đang cố gắng mô tả tất cả sắc màu trong chiếc kính vạn hoa đang xoay tít. Thật là đẹp đẽ.”

George bắt gặp ánh mắt cô lần nữa và nở nụ cười bẽn lẽn. “Tôi không biết câu trả lời vừa rồi có giúp được gì cho việc quảng cáo của cô không.” Anh hắng giọng.

“Chắc chắn là có ạ.” Grace ngừng lại để tập hợp những suy nghĩ đang rượt đuổi trong đầu. “Hừm, có lẽ là thắp sáng những ngày tháng tắt điện tăm tối bằng niềm vui khi thưởng thức các trang sách, hoặc đọc sách để bước vào một chuyến phiêu lưu mới mẻ, thoát khỏi cuộc chiến khắc nghiệt này.”

George mở hai tay ra như thể muốn cho cô xem một kiệt tác. “Ý tưởng tuyệt vời. Cô sẽ làm rất xuất sắc cho mà xem.”

“Cảm ơn anh.” Hơi nóng lan khắp hai má rồi xuống đến ngực Grace.

George liếc nhìn đồng hồ, “Thật xin lỗi cô, nhưng giờ tôi có cuộc hẹn nên phải đi ngay. Tôi rất muốn chúng ta tiếp tục trao đổi xem tôi có thể hỗ trợ cô thế nào. Lúc nào tiện, mình gặp nhau uống trà một chút được không?”

Lúc này hai má Grace đã nóng bừng tới nỗi cô chỉ muốn áp đôi tay mát lạnh lên để làm chúng dịu lại. Cô gật đầu, “Em rất sẵn lòng ạ.”

“Vậy trưa thứ Tư tuần sau nhé?” Anh đề nghị.

Hôm đó Grace vẫn đi làm nhưng nếu xin phép, có lẽ ông Evans sẽ đồng ý cho cô nghỉ một chút để ra ngoài uống trà. Grace hi vọng thế. “Dạ được.”

“Quán cà phê gần đây tiện cho cô chứ, P&V’s nhé?”

Cô gật đầu, “Em đã muốn thử tới đó mà chưa có dịp.”

George cười rạng rỡ, “Tôi rất mong đến hôm đấy.” Rồi anh khẽ cúi đầu chào Grace, “Chúc một ngày tốt lành, cô Bennett.”

Lòng Grace rộn rã reo vui nhưng cô vẫn kìm nén đủ lâu để bình tĩnh tiễn anh ra cửa. Chỉ khi chàng trai đi khỏi, cô mới cho phép mình đặt tay lên ngực để xoa dịu nhịp tim dồn dập rồi tiếp tục áp tay lên má để hạ bớt cái nóng bừng bừng.

“Thứ Tư cô có thể đi uống trà,” giọng ông Evans vọng ra từ một chỗ nào đó trong hiệu sách.

Grace sửng sốt, đôi tay vẫn áp trên má và mắt mở tròn xoe. “Bác… bác nói gì ạ?” Cô ấp úng hỏi lại.

“Tôi không cố ý nghe trộm đâu, nhưng hai cô cậu nói to quá.” Ông Evans mặc chiếc áo thun sẫm màu xuất hiện từ phía bên kia cửa tiệm, và hai tay ông đang khoanh trước ngực.

Grace vội vàng đứng thẳng người lên, thả hai tay xuống.

Ông Evans liếc nhìn đống sách mà họ đã nỗ lực thu gom được. “Cô nên chọn những người như George Anderson. Anh ta là kĩ sư nên rất có thể sẽ không bị gọi đi tham chiến. Nhưng cũng chưa biết được đâu, anh chàng vốn là kẻ ưa xung phong tình nguyện bất chấp.”

Lời nhắc nhở về cuộc chiến khắc nghiệt nghe thật chói tai. Trong giây phút ngắn ngủi, Grace đã quên mất sự hiện diện của nó. Trong khoảnh khắc chớp mắt ấy, cô tưởng như thế giới lại quay về cuộc sống yên bình hạnh phúc như xưa.

Nhưng không, ngoài kia, những quả khí cầu phòng không vẫn lơ lửng trên bầu trời để ngăn cản địch đánh bom. Biết bao đứa trẻ đã bị đưa sang đất khách quê người để sống với người dưng nước lã. Những người đàn ông lên đường ra trận và biết đâu một đi không trở lại, còn Hitler, ông ta có thể giội bom thành phố bất cứ lúc nào.

Cảm giác đó như vừa sực tỉnh sau một giấc mơ đẹp và bàng hoàng nhận ra bây giờ cơn ác mộng mới bắt đầu.

Ở đâu đó bên ngoài, một đám mây che khuất mặt trời, phủ lên cửa tiệm một màu xám xịt u ám.

“Tôi chỉ mong cô đừng tính chuyện ngu ngốc với Anderson.” Ông Evans nhìn cô bằng ánh mắt nghiêm khắc của một người cha nhìn con gái. “Các cô gái đều hấp tấp lấy chồng trước khi đàn ông bị lôi cổ ra trận.” Miệng ông chành ra hăm dọa. “Liệu hồn mà tỉnh táo đấy.”

Grace cố gắng đứng yên chịu trận. Có thật là ông đang khuyên bảo cô về chuyện yêu đương không? “Cháu không có ý định cưới xin gì sớm ạ,” cô từ tốn đáp.

Ông già làu bàu rồi lại biến mất sau lối đi. Grace không biết như vậy nghĩa là ông có tin lời cô hay không. Buổi chiều hôm đó, Grace chỉ tìm thêm được hai quyển nữa trong danh sách được giao. Cuộc tìm kiếm rõ là kém hào hứng khi vắng bóng anh George.

Cuối cùng cũng đã đến giờ nghỉ nhưng cô không đi về phố Britton ngay. Không, lần này Grace quyết tâm tìm đường đến Paternoster Row để xem những người London khác quảng cáo hiệu sách của họ như thế nào.