CHƯƠNG 7
Hai tháng tiếp theo ở London rề rà trôi. Tất cả dự đoán về chiến tranh vẫn chỉ là dự đoán. Mọi công tác chuẩn bị, những kì vọng hay nỗi căng thẳng sợ sệt xem chừng đều là công cốc. Còi cảnh báo không kích đã ngừng vang lên, chỉ thị thắt chặt nguồn cung không còn áp dụng, các cuộc tấn công bằng khí độc không còn xảy ra, và đài phát thanh dường như chỉ nhai đi nhai lại một vài tin tức nghe đến phát ngán.
George vẫn bặt vô âm tín. Grace không biết địa chỉ để liên lạc với anh nhưng cô vẫn thầm hi vọng anh sẽ gửi thư về hiệu sách cho mình.
Đối với Grace, thời gian thấm thoắt trôi qua theo guồng quay của việc sắp xếp sách vở, di chuyển các giá, kệ và dọn dẹp lau chùi túi bụi tất bật hơn cô nghĩ. Công việc cuốn chặt lấy cô lâu đến mức một hôm, Grace giật mình nhận ra đã sang tháng Mười Một tự lúc nào.
Hiệu sách Đồi Primrose vẫn còn nhiều điểm phải sửa sang lại nhưng Grace vẫn kiêu hãnh rướn thẳng người mỗi khi bước vào tiệm. Không gian rộng mở thân thiện này chính là thành quả mà cô đã nỗ lực tạo ra. Mấy chiếc bàn mới tinh được đặt ngay giữa cửa hàng, nơi trưng bày những cuốn sách quay bìa ra ngoài để chào đón khách quen. Trên tấm bảng trắng, các thể loại sách được ghi rõ ràng bằng mực đen nổi bật.
Thật ra Grace chỉ mới phân loại và sắp xếp khoảng chừng một phần tư số sách của tiệm. Nhưng số lượng đó cũng đã khá đáng kể so với kho sách khổng lồ của ông Evans. Phần còn lại đang chất đống ở đằng sau, khiến cho căn phòng vốn đã chật chội nay càng ngột ngạt hơn và gần như chẳng thể nhúc nhích khi bước vào. Ngoài ra trên tầng hai còn cơ man sách vở nằm la liệt chồng chất. Nơi này đã bị khóa lại khi Grace dọn dẹp đống lộn xộn trong cửa hàng.
Vào một buổi sáng se lạnh, Grace đang bê một cái thùng đi xuống chiếc cầu thang xoắn ốc nhỏ hẹp thì chuông cửa reo lên báo hiệu có khách. Cô vội vàng đặt chiếc thùng vào một hốc tường ngay chân cầu thang, gắn lại biển báo “Không được vào” ở lan can rồi đi ra phía trước.
Ông Pritchard thập thò ở lối vào, đầu ông rụt sâu vào chiếc áo khoác to tướng. Đằng sau ông, như thường lệ vẫn là chú mèo Tabby lon ton theo sát gót.
“Chúc bác một ngày tốt lành, bác Pritchard.” Grace mỉm cười. “Nếu bác cần tìm bác Evans thì ông ấy đang ở sau dãy sách lịch sử kia.” Trông người đàn ông lớn tuổi có vẻ quạu quọ khi đọc tấm biển báo.
“Mấy cái này mới có.”
“Cháu vừa mua chúng vài tuần trước.”
Ông Pritchard cáu kỉnh, “Tôi hi vọng nó giúp ích cho cô hơn là con mèo này giúp cho tôi.” Ông lừ mắt về phía Tabby -cậu nhóc đang liếm sạch sẽ bàn chân với vẻ thoải mái. “Nó chỉ giỏi ngủ mập thây chứ bắt chuột nỗi gì.”
Để đáp lại câu nói đó, Tabby xoa một bàn chân đầy lông lá lên tai và mặt mình.
“Cháu rất tiếc khi nghe điều này,” Grace đáp. “Nhưng trông nó có vẻ rất quý mến bác.”
“Cũng chẳng được tích sự gì với đám chuột bọ chỗ tôi.” Ông Pritchard tặc lưỡi phản đối. “Hình như cô khá bận nhỉ, cô Basset.”
Grace chẳng buồn chỉnh lại khi ông nói sai tên mình. Ông Pritchard tiếp tục chăm chú ngó nghiêng tấm biển đặt trên quầy. Đây là một trong những ý tưởng cô đã nghĩ ra sau khi trò chuyện với George, một câu quảng cáo “Hãy thắp sáng những tháng ngày tắt điện tăm tối bằng một cuốn sách hay”.
Grace vẫn thường nghĩ về anh. Mỗi lần như thế, lòng cô lại bứt rứt áy náy vì chưa đọc quyển Bá tước Monte Cristo được nhiều hơn. Tuy đã cố gắng hết sức nhưng khi thì cô bị sao nhãng không tập trung được, khi thì quá mệt nên không thể thức thêm, hoặc đôi lúc vì cả hai. Do đó, cuốn sách vẫn nằm im lìm trên chiếc bàn cạnh giường ngủ của Grace, và cô mới chỉ đọc được vài trang đầu tiên.
Chưa kể nó còn nằm bên cạnh một danh sách việc cần làm chừng như dài bất tận. Nếu không phải làm việc ở hiệu sách, có lẽ Grace sẽ tập trung ghi lại những ý tưởng quảng cáo hoặc luôn tay dọn dẹp nhà cửa. Cuối cùng, khi có thể vớt vát chút thời gian để thở thì cũng đã đến lúc đi ngủ và sáng ngày hôm sau, cô tiếp tục bị guồng quay công việc cuốn chặt lấy mình.
“Tôi nghe nói chỗ này đang ăn nên làm ra lắm.” Sau khi săm soi tấm biển, ông Pritchard đứng thẳng người lên và nhìn cô chằm chằm qua chiếc mũi nhọn hoắt. “Cô có nghĩ là nhờ vào những quảng cáo này không?”
Grace nhún vai một cách vô thưởng vô phạt vì không biết ông Evans có muốn để lộ thông tin gì không.
Ông Pritchard bước lại gần hơn, người ông tỏa ra mùi bạc hà và băng phiến. “Nếu cô đồng ý đến làm cho tiệm Pritchard & Potts, tôi sẽ trả cao hơn lương hiện tại của cô một shilling một giờ.”
“Ông Pritchard.” Ông Evans từ đâu xuất hiện đằng sau họ.
Grace chưa kịp từ chối lời mời mọc của ông Pritchard bất kể được tăng thêm một pound một giờ đi nữa, thì người chủ của cô đã nói tiếp bằng giọng đều đều. “Nếu ông tới đây tham quan cửa hàng của tôi, chúng tôi rất sẵn lòng chào đón. Ông có thể thoải mái phàn nàn than thở về thế giới hay mạnh miệng tuyên bố về cuộc chiến.” Cặp mắt xanh của ông Evans nheo lại sau cặp kính dày cộm. “Nhưng nếu ông định dụ dỗ cô Bennett thì mời ông ra khỏi đây cho.”
Cảm giác sung sướng tự hào chạy rần rần khắp người Grace. Chú của cô sẽ chẳng bao giờ bênh vực cô như thế.
Ông Pritchard rướn thẳng người lên và tặc lưỡi cau có, hành động đó khiến cho đám tóc trắng trên đỉnh đầu ông rung lên từng hồi. “Cô ta sẽ phát huy tốt hơn nếu được làm trong một hiệu sách trên phố Paternoster Row, một nơi danh giá hơn hẳn Hosier.” Ông cong môi khi thốt ra từ cuối cùng. Nói xong, cặp chân gầy đét của ông quay ngoắt bước ra khỏi cửa hàng và Tabby lăng xăng chạy theo chủ.
“Cháu sẽ không đồng ý đâu.” Grace nói.
“Tôi cũng nghĩ thế.” Ông cúi đầu nhìn cô qua vành kính. “Cô đã làm ở đây được hơn hai tháng theo thời gian cam kết rồi.”
Trong mấy tháng qua, sự hóm hỉnh lạnh lùng ấy là điều khiến Grace quý mến ông Evans. Cô cười đáp, “Bác có chắc là không muốn cháu làm ở đây lâu hơn không?”
Ông tùy tiện khoát tay và chậm rãi đi về phía quầy thu ngân, giở cuốn sổ cái mà Grace đã tổng hợp vài tuần trước để xem qua. Có chút thay đổi về cách tổ chức bảng biểu, theo dõi doanh số cũng như những tiêu đề phổ biến mà cô sử dụng. Ông Evans thường xuyên xem nó và so sánh doanh thu qua từng ngày.
Khi nhận lương vào cuối tuần đó, Grace nhận ra ông đã tự tăng thêm một shilling một giờ cho thù lao của cô. Một hành động tử tế mà ông chẳng cần được cảm ơn, chỉ muốn nhắc nhở cô hãy giữ đúng cam kết làm đủ sáu tháng. Sau đó, chắc chắn Grace sẽ nhận được một lá thư giới thiệu tuyệt vời.
Kết quả làm việc của Viv ở trung tâm mua sắm Harrods cũng xuất sắc không kém. Cô được quản lý khen ngợi vì sự tinh tế trong việc giúp các quý bà, quý cô chọn được bộ trang phục hợp ý. Hai cô gái đã dần quen với nhịp sống sáng đi làm, chiều 4 giờ tan sở, rồi ở trong bếp tán gẫu về một ngày vừa qua bên tách trà nóng hổi, đôi khi có thêm bác Weatherford góp chuyện nếu bác không bận tay mấy việc lặt vặt.
Một buổi chiều nọ, Grace và Viv lặng lẽ ngồi bên nhau ngắm mưa rơi tí tách tạt lên ô cửa sổ, một khoảng lặng thật dễ chịu. Bất chợt Viv thở dài, “Cậu không khó chịu chút nào sao?”
Grace đang mải mê ngắm những giọt nước mưa tan vào nhau trước khi rơi xuống cửa sổ. Nghe bạn hỏi, cô ngẩng lên thắc mắc, “Khó chịu cái gì?”
Viv nhìn ra ngoài bằng ánh mắt khát khao, “Sự nhàm chán.”
Grace suýt nữa đã phì cười. Cô không còn mong muốn nào khác ngoài việc vùi đầu vào núi công việc ngất ngưởng ở hiệu sách.
Viv tròn mắt, “Tớ biết cậu không thấy chán, nhưng cuộc chiến này có thể chẳng bao giờ chấm dứt.”
“Nhưng có chuyện gì xảy ra đâu.” Grace phản đối. Rốt cuộc họ không hề nghe thêm tiếng còi báo động không kích nào nữa. Cũng chẳng có cuộc tấn công hay lệnh thắt chặt nguồn cung. Mà chỉ còn những tin đồn, nhưng tin đồn thì lúc nào chẳng có và cho đến giờ tất cả đều vô căn cứ.
“Chính xác.” Viv mở to mắt nóng nảy. “Tớ nghĩ London rồi sẽ lại hào nhoáng, người dân sẽ lại nháo nhào đi mua vé xem kịch và khiêu vũ thâu đêm suốt sáng cho xem.”
“Chúng ta có thể thử đi xem phim lần nữa.” Grace dè dặt đề nghị.
Viv đăm đăm nhìn bạn bằng ánh mắt rầu rĩ, chắc hẳn cô đang nhớ lại buổi đi xem phim gần nhất đầy thảm họa. Tòa nhà chiếu phim tối đen như tấm áo choàng của tử thần. Hai cô gái loạng choạng suýt ngã vài lần vì va phải tấm vách ngăn tạo thành dãy hành lang dẫn đến quầy mua vé. Bên trong tối đen như mực đến nỗi họ không thể thấy đường để đếm tiền xu. Rồi trên đường về nhà, Viv và Grace suýt chút còn bị ô tô đâm trúng vì chiếc xe chạy vượt quá tốc độ theo quy định mới ban hành.
Nỗ lực khám phá rạp chiếu phim rốt cuộc đã thất bại thê thảm. Cả hai đã quên mang theo mặt nạ phòng độc, một sự cố thường tình khi bị trễ giờ và do đó họ không được phép bước vào rạp. Chưa hết, chẳng những gặp chuyện bực mình trên đường về mà vừa đặt chân vào nhà, hai cô gái còn bị bác Weatherford “lên lớp” một bài về tầm quan trọng của mặt nạ phòng độc và lý do không được phép bỏ quên chúng.
Grace cũng đã kinh qua đủ tình huống mạo hiểm thót tim khi lang thang ngoài phố vào giờ giới nghiêm tắt điện. Sau trải nghiệm khủng khiếp trong tuần đi làm đầu tiên, sau lần cả hai suýt bị đụng xe trên đường từ rạp chiếu phim trở về, cộng thêm tất cả báo cáo về tệ nạn trộm cướp hành hung trong thành phố vừa bị bóng tối giăng kín này, hai cô gái quyết định không bao giờ liều lĩnh ra ngoài lần nào nữa.
Nhưng Grace không thích nhìn thấy Viv rầu rĩ than thở vì cuộc sống quá tẻ nhạt.
“Họ đã sơn thêm sơn trắng trên lề đường.” Viv vuốt thẳng ve áo. Cô vừa may một chiếc váy mới nữa. Ít nhất là cứ cách hai tuần, cô lại may thêm quần áo, không chỉ cho mình mà còn cho cả Grace và bác Weatherford. “Và tớ nghe nói những người giám sát phòng không giờ đã được mặc áo choàng phản quang.”
Grace khuấy nhẹ tách trà, lớp bột dưới đáy ly được đánh lên tạo thành xoáy nước nho nhỏ. “Ừ, nhưng vẫn có hơn nghìn người bị đụng xe. Ban đêm trời tối đen như mực, các nhân viên ở bến tàu sẽ bị rơi xuống nước chết đuối mất.”
Ngoài cửa sổ, một tia chớp lóe lên. Nếu là hai tháng trước, có lẽ họ đã hốt hoảng nhảy dựng lên vì ngỡ là bom, nhưng bây giờ cả hai vẫn ngồi yên bình thản.
Viv nói đúng, chẳng có cuộc chiến nào xảy ra, hay nói đúng hơn, giờ đây họ đang chiến đấu chống lại những ngày tháng tẻ nhạt.
“Tớ nghĩ…” Viv gõ gõ móng tay sơn đỏ bóng bẩy lên miệng tách trà cong cong. “Tớ đang cân nhắc có nên tham gia ATS hay không.”
Chiếc thìa trên tay Grace rơi xuống va vào thành chiếc tách trà. Lực lượng Hỗ trợ Mặt đất là chi nhánh trực thuộc Quân đội Anh. Nếu gia nhập vào đó, Viv sẽ phải tham gia huấn luyện và rất có thể bị điều đến nơi khác công tác. “Sao cậu phải làm thế?”
“Sao lại không chứ?” Viv hất một bên vai. “Tớ nghe nói bây giờ phụ nữ đều đang làm thư kí hoặc bán hàng nhỏ lẻ. Giống như những việc tớ đang làm, nhưng ít ra tớ có thể góp sức để mau chấm dứt tình trạng này.” Cô vẫy vẫy tay trong không khí như ngầm khái quát về tình trạng hiện nay của họ. “Tớ sẵn sàng làm mọi thứ để chiến tranh nhanh chóng kết thúc, để chúng ta thoải mái đi xem phim, đi nhảy đầm mà không phải nơm nớp nháo nhào chạy về nhà, để sau khi tất cả đàn ông giải ngũ, ta có thể gặp gỡ một anh chàng đẹp trai lạ mặt hay thậm chí hẹn hò đâu đó. Tớ không muốn tiếp tục sống trong nỗi sợ bị đánh bom hay phải thắt lưng buộc bụng. Tớ muốn cuộc sống trở lại bình thường như trước.”
“Nhưng cậu thích Harrods lắm cơ mà,” Grace tìm cách phản đối.
“Làm ở đó rất vui.” Viv thu hai tay vào lòng. “Chí ít hồi đầu thì vui lắm. Nhưng bây giờ chẳng còn mấy ai thiết tha đến quần áo váy vóc nữa. Vài người phụ nữ còn ghé qua đó chỉ để than thở với tớ về nỗi đau khổ của họ. Ai cũng đứng ngồi không yên vì không biết người thân sống chết ra sao ngoài chiến trường và con cái họ phải gửi đến ở với những người xa lạ ở một đất nước xa xôi. Một số bà mẹ nhận được thư con mà lòng đau thắt. Bọn nhỏ van nài được trở về nhà, hứa rằng sẽ ngoan ngoãn để mẹ đừng đuổi chúng đi nữa.” Viv nhìn xuống đôi tay mình. “Tớ chỉ muốn kết thúc tất cả chuyện này.”
Sự tĩnh lặng của ngôi nhà trong một ngày mưa đột nhiên bị một tiếng khóc nghẹn ngào xé tan.
Viv và Grace giật mình, lo lắng nhìn nhau rồi đứng lên tìm hiểu xem tiếng khóc đó phát ra từ đâu. Bác Weatherford đứng cạnh cửa ra vào, dưới chân rải rác những phong thư và bàn tay chặn lên miệng. Colin đang đứng trước mặt mẹ, anh mặc chiếc áo sơ mi trắng có cổ, tay áo xắn lên và trên tay cầm một lá thư để mở.
“Chuyện gì vậy ạ?” Viv hỏi.
“Bác có sao không ạ?” Grace vội vàng chạy đến cạnh người bác. Thậm chí bà còn không nhận ra sự có mặt của Grace vì vẫn đang đăm đăm nhìn cậu con trai bằng đôi mắt mở to sau cặp kính.
Grace nhìn Colin. Đây là lần đầu tiên anh không đỏ mặt khi thấy hai người chị xuất hiện. Gương mặt anh vẫn hằn lên nét xúc động dữ dội đối với lá thư. Anh nuốt nước bọt và yết hầu trên chiếc cổ gầy guộc của anh nhấp nhô thấy rõ. “Cuối cùng chuyện gì đến cũng đã đến.”
Colin xoay bức thư về phía họ. Trên cùng là dòng chữ in đậm “Lệnh triệu tập tham gia nghĩa vụ quân sự quốc gia (Lực lượng vũ trang), năm 1939” do Bộ Lao động và Quân dịch gửi đến. Thứ Bảy, ngày 11 tháng Mười Một, anh Colin phải đến Hội đồng Y khoa Trung tâm để kiểm tra sức khỏe. Lệnh đã được đóng dấu xanh.
“Mẹ nghĩ nghề của con phải được đặc cách rồi chứ.” Bác Weatherford lắc đầu, bà nhìn chằm chằm tờ lệnh triệu tập với vẻ hoài nghi.
“Họ chỉ nói là sẽ cố gắng thôi, mẹ ạ.” Colin nhẫn nại giải thích. “Chưa hề có sự đảm bảo nào cả. Con không thể khoanh tay ngồi ở nhà trong khi những anh em khác đang liều mình chiến đấu.”
Bà Weatherford quắc mắt lên, “Vậy con có tự nguyện không?”
“Dạ không.” Colin xoay bức thư lại về phía mình và cúi mặt xuống. “Con biết mẹ không muốn con đi. Con cũng biết mẹ đang cố tìm mọi cách để con được phép ở nhà. Nhưng con không thể làm ngơ được mẹ ạ. Con sẽ không làm thế.”
Grace quan sát Colin trong lúc hai mẹ con anh nói chuyện. Tờ giấy khẽ rung lên trong đôi tay to lớn và dịu dàng của anh, mặc dù anh cố ưỡn vai lên bày tỏ lòng quyết tâm khi thực hiện một nghĩa vụ chính đáng. Trái tim Grace tan vỡ.
Những người như Colin vốn không dành cho chiến tranh.
“Họ triệu tập con vào Ngày Đình chiến.” Bác Weatherford vuốt nhẹ chiếc váy hoa màu xanh mà Viv đã may cho bác. Hẳn là bác đang cố gắng kìm nén sự xúc động vì trước đây Grace từng thấy bác làm như vậy.
“Cha của con đã hi sinh để chúng ta có được ngày này, làm sao họ lại có thể triệu tập con ngay trong ngày đó chứ?” Giọng bà rít lên đầy hãi hùng và đau đớn.
Grace đưa tay chạm vào người bác Weatherford lần nữa nhưng bác gạt cô ra. “Mẹ phải gọi cho ông Simons. Ông ta nói với mẹ là đã đưa tên con lên làm nhân viên thiết yếu của cửa hàng. Ông ấy có thể…”
Colin bước tới để ngăn mẹ lại. Cuối cùng bà đành đứng yên, rồi nhìn cậu con trai bằng đôi mắt mở to rưng rưng.
“Mẹ, con sẽ thực hiện bổn phận của con.” Anh ưỡn bộ ngực gầy. “Đất nước cần đến chúng con.”
Cổ họng Grace nghẹn lại. Chàng trai trẻ trung, rất đỗi dịu dàng và tử tế này, chàng trai vẫn còn đâu đó nét đáng yêu, trong sáng của tuổi mới lớn mà bây giờ lại bản lĩnh như thế đấy.
Grace không tưởng tượng nổi ngôi nhà sẽ ra sao nếu vắng bóng Colin, và bác Weatherford sẽ sống thế nào khi không có con trai bên cạnh. Bác đã dồn hết tình thương vào Colin và lúc nào cũng nhìn con bằng ánh mắt chứa chan tình thương lẫn tự hào.
Cằm bác Weatherford run run. Bác mím môi lại nhưng không kìm được và đôi mắt chớp chớp rất nhanh. “Mẹ không làm được. Mẹ…” bà nghẹn giọng, rồi bỏ chạy lên tầng.
Cánh cửa phòng ngủ trên tầng hai của bác đóng sập lại. Tiếng khóc đau đớn, tức tưởi vang lên, xé tan bầu không gian yên lặng.
Colin cúi đầu, cố giấu đi cảm xúc.
Grace đặt tay lên tay áo bông mềm mại của cậu em, “Lên với mẹ đi. Chị sẽ đun một ấm nước khác.”
Colin gật đầu mà không nhìn Grace, rồi anh nặng nề lê bước lên cầu thang trong lúc Grace dẫn Viv quay vào nhà bếp. Khi chỉ còn lại mình họ, Grace liền áp tay lên ngực. Một cơn đau âm ỉ bắt đầu dội lên.
Colin. Đi lính.
Đầu tiên là George. Giờ đến lượt Colin.
Có phải tất cả đàn ông ở London này sẽ nhanh chóng ra đi hết không?
Cô nhìn sang Viv, nghe nỗi đau trĩu nặng cả người, ngay cả Viv cũng sẽ sớm rời khỏi đây thôi.
Dường như đọc được suy nghĩ của bạn, Viv lắc đầu mạnh mẽ khiến những lọn tóc đỏ lúc lắc quanh khuôn mặt cô. “Lẽ ra tớ không nên nói những lời lúc nãy.” Viv hít mạnh một hơi. “Tớ sẽ không tham gia ATS. Colin đã phải ra đi rồi.”
Viv vòng tay ôm lấy bạn, mùi nước hoa thơm mát mang hiệu It’s You mà cô mới mua len lỏi quấn theo vòng tay của họ.
“Tớ sẽ không bỏ đi đâu,” Viv hứa. “Bây giờ bác Weatherford cần cả hai chúng ta.”
Grace gật đầu trên vai bạn, cô cảm thấy vô cùng cảm kích vì sau khi George và Colin ra trận, cô vẫn còn lại Viv. Nếu cả ba người đều phải đi thì quả thực cô sẽ không thể nào chịu đựng nổi.
Những ngày sau đó, Colin tất bật sửa sang, thu xếp cho ngôi nhà ổn thỏa trước khi lên đường. Anh xin nghỉ việc ở Vương quốc Thú cưng để dành thời gian đóng lại những chỗ ọp ẹp trên cầu thang hay tra dầu cho cái bản lề kêu cót két. Thậm chí Colin còn lo xa hơn khi hướng dẫn cho Grace và Viv cách sửa chữa một số sự cố lặt vặt trong lúc anh vắng nhà, chẳng hạn như vòi nước bị rò rỉ hay nắm đấm cửa bị lỏng.
Một ngày nọ, sau khi đi làm về, Grace bắt gặp Colin đang lom khom bên cạnh cửa sổ phòng khách, cẩn thận dán giấy lót lên tấm kính theo một kiểu mẫu hoa văn rất nghệ thuật. Anh làm vậy để phòng khi ngôi nhà bị đánh bom thì kính cũng không thể vỡ vụn. Nhưng dường như nguy cơ bom đạn không còn đáng lo nữa.
Viv đã báo trước hôm nay sẽ về muộn vì phải làm cho xong mấy việc lặt vặt. Grace để tờ giấy liệt kê những câu quảng cáo đang chờ cân nhắc sang một bên và quỳ xuống cạnh Colin. Cô không cần ngỏ lời đề nghị giúp một tay vì biết đằng nào anh cũng sẽ từ chối. Thay vào đó, Grace cắt một dải băng keo, thấm ướt mặt sau và dán lên kính, theo đúng mẫu hoa văn tỉ mỉ của Colin.
Chàng trai ngước lên, anh chăm chú nhìn Grace một lúc bằng đôi mắt xanh dịu dàng và nở nụ cười biết ơn.
“Chị nghĩ mẹ em sẽ không cho phép dán chằng dán chịt lên cửa sổ vậy đâu nhỉ?” Grace vừa hỏi vừa tiện tay cắt bỏ một đoạn vải lót dài.
“Nó sẽ bảo vệ mọi người an toàn.” Bàn tay to dày của Colin vuốt vuốt lên mảnh giấy mà Grace vừa dán, làm thoát ra những bọt khí nhỏ. “Chị nên xem em đã làm gì với những bông hoa còn lại của mẹ kia kìa.”
Grace há hốc miệng, “Em không định nói là em đã… đã biến nó thành đất trồng rau rồi chứ?”
Từ tháng Mười đến nay, chính phủ bắt đầu kêu gọi người dân hãy xới bỏ các luống hoa và trồng rau thay thế để hưởng ứng chiến dịch “Canh tác vì chiến thắng” (the Dig for Victory). Mặc dù chính sách thắt chặt nguồn cung vẫn chưa được ban ra như bác Weatherford từng tuyên bố chắc nịch, nhưng hành động khuyến khích nhà nhà tự trồng nhiều rau củ chứng tỏ chỉ thị này sắp được thi hành.
Ấy vậy mà bác Weatherford vẫn không đành lòng nhổ bỏ những cây hoa hồng và dạ lan hương đang khoe sắc rực rỡ trong khu vườn thân yêu của mình.
Colin từ tốn gật đầu và đưa mắt nhìn qua tác phẩm của anh. “Em không rành lắm về các loại rau, em chỉ đọc sách rồi cố làm theo thôi.” Anh nhún vai tỏ vẻ bất lực.
“Sao em không hỏi Viv, trước khi lên đây cô ấy từng làm việc trong trang trại.” Grace nói.
“Chính vì vậy em mới chọn lúc chị ấy không có nhà để tranh thủ làm.” Colin đứng lên và bắt đầu dán phần phía trên cửa tấm kính cửa sổ. “Chị ấy lúc nào cũng tươm tất xinh xắn. Em không thể để chị ấy ra vườn cho bụi đất lấm lem rồi hỏng hết móng tay được.”
Grace đứng lên với Colin. Cô chỉ cao ngang ngực anh nên không thể với tới phần cửa sổ cao hẳn phía trên tường.
“Và em cũng biết Viv quá cứng đầu nên không đời nào từ chối đâu.” Grace không cố gắng với lên để dán miếng giấy mà chỉ cắt ra, thấm ướt rồi đưa cho Colin.
Anh chàng cười toe toét và nhận lấy mảnh giấy. “Cái này là chị nói, không phải em nhé.”
“Mẹ em thấy khu vườn chưa?” Grace gỡ một mảnh giấy có keo dính khác ra khỏi cuộn giấy.
Colin lắc đầu. “Mẹ tham gia Hội Phụ nữ tình nguyện địa phương và đi họp buổi đầu tiên rồi. Chắc chắn mẹ sẽ bất ngờ khi thấy nó.”
Anh ngó ra ngoài cửa sổ, đăm chiêu nhìn phố phường bên dưới. Khuôn mặt anh dần mất đi nét tươi cười. “Chị Grace ạ, mẹ sẽ cần được đỡ đần nhiều lúc em vắng nhà.”
“Chị sẽ luôn ở đây,” cô trang trọng hứa.
Colin cúi đầu. “Em không bao giờ muốn bỏ mẹ một mình. Nếu quân Đức ném bom London thì sao? Mẹ và hai chị sẽ gặp nguy hiểm.”
Dù có Colin thì chắc hẳn cậu cũng không thể ngăn cản bom từ trên trời rơi xuống, Grace nghĩ vậy nhưng không nói ra. “Chúng ta đã có hầm trú ẩn ở sân sau, cửa sổ thì được dán băng keo kín mít. Em cũng đã trồng rau để mẹ và tụi chị có đủ thức ăn, và em cũng biết là mẹ có dự trữ sẵn khá nhiều vật dụng thiết yếu rồi.”
Chàng trai ngẩng đầu lên và khẽ cười, “Ừ, đúng nhỉ. Phải tranh thủ kẻo những người ưa tích trữ sẽ vơ vét hết.” Anh nháy mắt với Grace.
“Chính xác.” Cô đưa mắt nhìn Colin. “Em yên tâm, bác và hai chị ở nhà sẽ ổn thôi. Em nhất định phải tự bảo vệ mình. Chúng ta chắc chắn sẽ chuẩn bị một bữa tiệc hoành tráng nhất trần đời để mừng em trở về.”
Anh chàng đáp lại bằng nụ cười ngọt lịm khiến trái tim Grace muốn tan chảy.
“Em thích lắm,” Colin đáp.
Cánh cửa chính mở ra rồi đóng lại, tiếp theo là tiếng lách cách của đôi giày được tháo ra, tiếp theo là chiếc ví và mặt nạ phòng độc được treo lên.
Colin nhăn mặt lại và liếc ngang liếc dọc bức tường.
“Phải mẹ em về không?” Grace thì thào.
Colin cau mày gật đầu.
“Chúng ta có nên nói chuyện đó với bác không?” Grace hỏi.
Chàng trai lắc đầu lia lịa khiến Grace phải bụm cả hai tay lên miệng để không phì cười.
Tiếng cánh cửa đằng sau nhà mở ra rồi khép lại. Ngay lúc đó, hai chị em biết ngay là họ chẳng cần phải thông báo với bà Weatherford rằng những luống hoa của bà đã anh dũng hi sinh. Một tiếng thét xé tai vang lên cho biết bà đã phát hiện ra sự thật đau lòng.
Tuy nhiên, việc nhổ bỏ những khóm hoa của bác Weatherford hay dán kín bưng các ô cửa sổ (điều khiến bác nhăn nhó chê rằng “thật khó coi”) vẫn chưa phải nỗi mất mát lớn nhất. Điều khiến mọi người đau buồn hơn cả chính là thực tại rằng Colin phải lên đường nhập ngũ.
Buổi sáng Ngày Đình chiến, Colin đi kiểm tra sức khỏe. Hai ngày sau thì nhận được lệnh triệu tập đi nghĩa vụ.
Mọi việc xảy ra dồn dập tới mức đến ngày anh chuẩn bị lên đường, mọi người vẫn thức dậy trong nỗi bàng hoàng vì không tin đây là sự thật.
Viv cố gắng nặn ra một nụ cười để tiễn Colin và cô chính là người đầu tiên ôm tạm biệt cậu.
Tiếp theo, chàng trai ôm lấy Grace. Anh thì thầm, “Chị giúp em chăm sóc mẹ nhé.”
Grace gật đầu trên ngực đứa em, “Chị hứa.”
Cuối cùng khi nói lời tạm biệt mẹ, Colin rưng rưng nước mắt. Anh vội chớp chớp mắt, nặng nề khụt khịt mũi rồi rướn lưng thật thẳng và vội vã rời khỏi nhà. Tất nhiên, bác Weatherford rất muốn đi cùng nhưng rốt cuộc, Colin đã thuyết phục được mẹ rằng anh muốn một mình lên đường làm tròn nghĩa vụ với đất nước.
Sau lưng chàng trai trẻ, cánh cửa khép lại và cả ngôi nhà rơi vào sự vắng lặng khác thường, như thể nó cũng đang khóc thầm cho sự ra đi đó. Bà Weatherford đến bên cửa sổ lớn của phòng khách, dõi mắt nhìn con trai đi xuống phố. Cả ngày hôm ấy, bà không hề rời khỏi ô cửa, như thể bà vẫn còn nhìn thấy Colin đang đi và vẫy tay chào tạm biệt con mình.
Mới vài ngày trước, chiến tranh còn là một điều gì đó thật nhàm chán, tẻ nhạt, tưởng như mọi công sức chuẩn bị đều vô ích. Vậy mà giờ đây, hiện thực đã ập tới với họ một cách thật tàn nhẫn.
Sự hi sinh đã quá lớn. Nhưng đây mới chỉ là khởi đầu cho rất nhiều sự kiện đang sắp sửa diễn ra.