← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 9

Grace không thể xua tan nỗi hụt hẫng khi nghĩ đến việc sẽ không được làm ở hiệu sách Đồi Primrose nữa. Đã ba tuần trôi qua, cô vẫn chưa gom đủ dũng khí để đề nghị ông Evans cho mình làm tiếp, nhất là khi ngay từ đầu ông đã cảnh báo rằng cô đừng quyến luyến nơi này.

Tuy nhiên, Grace đã đọc xong cuốn Bá tước Monte Cristo và say mê nó đến nỗi nhiệt tình giới thiệu với khách hàng. Mọi người hào hứng mua hết năm cuốn dự trữ ở tiệm nên cô phải đặt thêm sách. Ông Evans rất thích thú bình phẩm về việc này.

Grace đã háo hức như không thể chờ nổi đến trang cuối cùng để xem liệu Edmond có thể trả thù và được đền đáp bằng cuộc sống hạnh phúc hay không. Mặc dù rất say mê câu chuyện nhưng chẳng ai giúp cô chuẩn bị tinh thần đón nhận một cái kết vui buồn lẫn lộn. Cũng chẳng ai nói cho Grace biết sau khi đọc hết một quyển sách lại có cảm giác hụt hẫng đến thế. Cứ như thể ta vừa tạm biệt một người bạn chí cốt mãi mãi. Khi cô chia sẻ điều này với ông Evans, ông chỉ mỉm cười và khuyên cô hãy thử đọc cuốn khác. Thế là Grace chuyển sang đọc Emma với hi vọng làm nguôi ngoai nỗi buồn. Đó quả là liều thuốc an ủi kì diệu nhất.

Grace say sưa với những trang sách nhưng không thể không nhận ra dạo này Viv đang có tâm sự. Điều đó thể hiện rõ ràng nhất vào một bữa trà chiều trong gian bếp trắng tinh tràn ngập ánh nắng. Mới đầu Viv quên bật bếp, để ấm nước nằm trên bếp lạnh tanh rồi cô bưng khay trà lên mà chẳng có cái tách nào.

Thật không giống Viv chút nào. Bình thường cô luôn thích chăm chút phô trương cho mọi sự kiện, kể cả một hoạt động quen thuộc như uống trà chiều.

Grace nhanh tay lấy hai chiếc tách và chăm chú nhìn bạn, “Cậu đang lo lắng phải không? Chuyện gì thế?”

Viv thả mình xuống chiếc ghế đối diện rồi thở dài. Cô đưa mắt nhìn khu vườn xơ xác ngoài cửa. Những luống rau mà Colin nỗ lực tự trồng theo chiến dịch “Canh tác vì chiến thắng” đã hoàn toàn đóng băng dưới cái rét khắc nghiệt của ngày đông tháng giá. Một gò đất nhô lên giữa các luống hoa khô cằn, ngay cạnh chỗ hầm trú ẩn. Nếu như bình thường, khu vườn sẽ được ngủ say suốt những tháng mùa đông lạnh lẽo, nhưng giờ đây nó chỉ còn trơ trụi mấy mảnh đất trống huơ trống hoác, bị đào bới sạch sẽ đến tiêu điều.

“Cậu có bao giờ cảm thấy những gì chúng ta làm vẫn chưa đủ không?” Viv nhấp một ngụm trà, đôi môi cô để lại một vết son hình bán nguyệt trên miệng tách.

Grace vòng tay ôm quanh tách trà hãy còn nóng. Tuần vừa rồi, thời tiết đủ lạnh khiến tuyết trên mặt đất đều đóng băng. Tuy gian bếp vẫn là nơi ấm áp nhất trong nhà nhưng cô cảm thấy dường như đôi tay mình vẫn chưa thật sự hết đông cứng.

“Chiến tranh vẫn cứ kéo dài nếu như chúng ta không chịu làm gì đó.” Đôi mắt nâu to tròn của Viv lộ vẻ hoang mang.

Dù Viv sắp nói gì đi nữa, thì cô cũng biết chắc rằng Grace sẽ không thích nghe.

Nỗi lo lắng siết chặt trái tim Grace. “Vậy cậu định làm gì?”

Viv cắn nhẹ môi khiến miệng cô hơi méo đi. Mỗi lần trăn trở, Viv vẫn thường làm như vậy. “Tớ không thể chịu đựng thêm nữa. Cậu biết mà, tớ chưa bao giờ chịu ngồi yên để mọi chuyện ập đến.”

Grace đặt tách trà sang bên cạnh. Cô hiểu chứ. Viv luôn là người chủ động, sẵn sàng đối mặt với bất cứ điều gì. “Gia nhập ATS sao?” Grace đoán chừng.

Viv gật đầu. “Tớ biết đồng phục của họ xấu lắm, nhưng nhiệm vụ ở đó phù hợp với khả năng của tớ, và chắc chắn là tốt hơn nhiều so với tham gia Hội Nông nghiệp Nữ thanh niên.”

Hội Nông nghiệp Nữ thanh niên trực thuộc Lực lượng Phụ nữ hỗ trợ nông nghiệp - một tổ chức phụ nữ hỗ trợ phát triển canh tác. Tuy đây là hoạt động tình nguyện nhưng rất có thể người ta sẽ ép buộc Viv tham gia nếu họ biết cô xuất thân từ gia đình nhà nông.

Kể từ khi lên thành phố, Grace chỉ biết bố mẹ Viv có liên lạc duy nhất một lần. Trong thư, mẹ Viv rất tức giận vì cô con gái đột ngột bỏ nhà ra đi và bảo Viv không cần quay về nữa. Cô lạnh lùng dẹp nó sang một bên với lời giễu cợt nhẹ tênh, nhưng Grace biết rõ lá thư đó đã khiến Viv tổn thương sâu sắc đến nhường nào.

“Không đâu, cậu nhất định sẽ là một nữ thanh niên trồng trọt giỏi giang.” Grace cười đáp lại.

Viv há hốc miệng ra vẻ bị xúc phạm đầy khoa trương. “Grace Bennett, cậu thật độc ác.” Cô vờ đá vào ngón chân Grace. “Nhưng cậu có thể đi với tớ.” Viv vừa nhướng đôi lông mày nâu vàng cong cong được chăm chút tỉ mỉ mỗi ngày vừa mời mọc. “Cậu tưởng tượng nhé, chúng ta sẽ cùng tham gia ATS, chấp nhận mặc bộ đồng phục nâu xỉn xấu xí đó lên người khiến hai đứa trông như hai hình chữ nhật dài sọc biết đi, rồi hi sinh tuổi thanh xuân và thời trang để hoàn thành nghĩa vụ với nước Anh.”

Grace bật cười, “Chà, nếu mà hấp dẫn như vậy…” Nhưng đằng sau vẻ tếu táo ấy, cô hiểu mình cần làm gì cho đất nước. Những người đàn ông được triệu tập đi lính, những người mẹ cắn răng hi sinh con trai mình để bảo vệ quê hương, những người xa lạ đồng ý chăm sóc cho các em nhỏ, phụ nữ xung phong đi tình nguyện. Còn Grace đang làm gì?

Chẳng gì hết.

“Đi với tớ nhé, Vịt con.” Viv nháy mắt, khoe hết vẻ quyến rũ qua nụ cười rạng rỡ. “Tụi mình có thể cùng góp sức.”

Tham gia Lực lượng Nữ tình nguyện Quốc gia dĩ nhiên là để góp sức bảo vệ đất nước, nhưng điều đó cũng có nghĩa là Grace phải bỏ lại hiệu sách Đồi Primrose, và sẽ không đến Harrods làm khi không có Viv bên cạnh. Nhưng sau tất cả, Grace sẽ được gắn bó với bạn mình giống như từ thời niên thiếu đến nay.

Nhưng nếu vậy cô sẽ phải để bác Weatherford ở nhà một mình. Hội Phụ nữ tình nguyện địa phương đã tạm thời nâng đỡ tinh thần cho bác, và cuộc sống của bác đang bắt đầu tươi sáng trở lại. Bác Weatherford thích nhận nhiệm vụ quản lý người khác nhưng rốt cuộc phải nhường lại cho nữ thủ lĩnh đội tình nguyện vì người đó vốn không định từ bỏ vai trò lãnh đạo. Bởi vậy, bác chuyển sang tìm kiếm niềm vui trong chuyện quán xuyến nhà cửa.

Bác miệt mài lau dọn hằng ngày khiến cho tất cả các bề mặt trong nhà đều nồng một mùi xà phòng, rồi thoảng như thể mùi hắc ín. Khăn khố được vắt ngay ngắn chính giữa giá treo, những hộp thức ăn xếp hàng đều tăm tắp với nhãn dán quay ra ngoài trông hệt như hàng lính. Thậm chí tay cầm của các tách trà cũng được sắp đồng loạt quay về một hướng.

Nếu đến cả Grace cũng ra đi, bác Weatherford sẽ chẳng còn ai bên cạnh, và cô đã hứa với Colin là sẽ chăm sóc mẹ cậu chu đáo.

Grace lắc đầu, “Tớ không đi được.”

“Vì bác Weatherford?” Viv đoán.

Grace đăm chiêu nhìn vào tách trà như thể đang tìm kiếm đáy tách bên dưới mặt nước màu đen sẫm. “Tớ không thể bỏ bác ấy ở lại một mình. Và cậu cũng biết tớ không được can đảm như cậu. Tớ không phù hợp với ATS hay bất kì đội ngũ nào cả.”

“Cậu dũng cảm hơn cậu nghĩ đấy, Grace ạ.” Viv nâng tách trà được vẽ trang trí mấy đóa hoa hồng lên môi và nhấp một ngụm nhỏ.

Lòng Grace lại nhói lên cảm giác tội lỗi.

Viv không hề cố ý khiến cô cảm thấy như vậy nhưng Grace biết mình vẫn chưa nỗ lực hết sức để góp phần chấm dứt cuộc chiến này. Càng có nhiều người cố gắng, chiến tranh sẽ càng sớm kết thúc.

Một cuộn hơi nước bốc lên trước mặt Viv khi cô đặt ly trà xuống. “Tớ hiểu. Vậy là sắp tới cậu sẽ được một mình một phòng, tha hồ chong đèn đọc sách suốt đêm chứ không phải liên tục bật tắt đèn pin nữa.”

Grace bật cười trước câu pha trò hài hước đó. Dường như bây giờ cô không thể lùng ra được nơi nào mua pin nên việc sắm hẳn cây đèn mới chắc chắn sẽ dễ dàng hơn rất nhiều. Những buổi chiều và buổi tối sau đó, Grace dành trọn cho Viv để giúp bạn mình vơi bớt cảm giác buồn tẻ, vô vọng. Ban ngày họ uống trà, đi cà phê, xem phim và mua sắm, tối đến thì cùng nhau nghe đài.

Nhưng ngay cả trong lúc nghe đài, tâm trí của Grace vẫn rón rén quay về với những câu chuyện mà cô đang đọc giữa chừng. Không biết cô đã thức muộn bao nhiêu đêm để đắm chìm vào cuốn sách nào đó.

Ông Evans nói không sai. Grace nhanh chóng say mê Jane Austen và đang tìm đọc tất cả các tác phẩm của bà.

“Không có cậu, cân nhà sẽ trống vắng lắm.” Grace nói với bạn mình.

Viv với tay qua bàn và nắm lấy tay Grace. “Đến kì nghỉ phép tớ nhất định sẽ về.”

“Còn cha mẹ cậu thì sao?”

“Họ chắc chắn sẽ phản đối.” Viv đảo mắt và rút tay lại, đặt lên tách trà. “Họ đã nói tớ không cần phải về làm gì nữa, vậy tớ sẽ không đặt chân về đó. Tớ muốn quay lại đây gặp cậu còn hơn là đâm đầu đi nghe một bài lên lớp dài lê thê rằng tớ đã khiến họ thất vọng thế nào.”

“ATS chắc chắn sẽ tốt hơn rất nhiều khi có được cậu.” Grace lại ngồi xuống ghế và nhìn bạn mình bằng ánh mắt tự hào chưa từng có. “Cậu thật dũng cảm.”

Viv nhún nhường nhận lấy lời khen và hớp một ngụm trà. “Tớ chỉ tiếc là tụi mình không được làm chung ở Harrods. Trước khi đi chắc chắn tớ sẽ giới thiệu cậu vào. Nếu họ cho cậu thay thế vị trí của tớ thì vui biết mấy?”

Grace chỉ gật đầu và cố gắng nặn ra một nụ cười chân thành. Cô không muốn đến Harrods làm việc. Nhất là khi không có Viv.

Đến lúc này, Grace biết chắc rằng mình muốn tiếp tục công việc ở hiệu sách hơn. Bây giờ, điều duy nhất cô cần làm chính là thuyết phục ông Evans.

Sáng hôm sau, khi bước vào tiệm, Grace nhìn thấy một chiếc thùng lớn được đặt trên quầy. Ông Evans chào cô trong lúc khệ nệ nâng một chồng sách ra khỏi thùng và xếp ngay ngắn sang một bên.

Trong thời gian Grace cất đồ đạc vào căn phòng phía sau rồi trở ra đằng trước, ông đã dỡ gần xong thùng hàng.

“Lô sách mới của Simpkin’s phải không ạ?” Grace cố giữ giọng bình tĩnh nhưng các dây thần kinh trong người đang căng lên như dây đàn.

Ông Evans gật đầu và lôi ra thêm ba quyển nữa.

“Chỉ còn chưa đầy một tuần nữa là hết thời gian cháu làm ở đây,” Grace đánh bạo mở lời.

“Tôi đang viết thư giới thiệu cho cô rồi. Không cần phải lo.” Ông cộc cằn đáp.

Cảm giác thất vọng xuyên vào ruột gan Grace. Việc ông đang viết thư giới thiệu khiến cho viễn cảnh nghỉ làm ở hiệu sách càng trở nên chắc chắn và thực tế hơn rất nhiều.

Nó sẽ trở thành sự thật.

Grace đang định thử mở lời lần nữa thì ông Evans đã cho tay vào hộp rồi rút ra một quyển sách được bọc trong lớp vải bố dài. Ông kính cẩn đặt nó lên quầy và cẩn thận rút tấm vải ra.

Quyển sách bên trong rất bẩn. Bụi bặm để lại một vệt màu nâu xỉn trên lớp bìa vàng vàng, lại có thêm một vết bẩn màu nâu đỏ như gỉ sắt thấm từ mặt bìa đã sờn xuống tận những trang sau. Grace nghiêng đầu đọc dòng chữ trên gáy sách.

Quantentheorie des einatomigen idealen Gases của Albert Einstein.

Cảm giác ớn lạnh lan khắp trên da khiến Grace phải đứng thẳng người. “Ông ấy là người Đức ạ?”

“Ừ.” Ông Evans mím chặt môi và nhíu mày lại. “Nó đã được giải thoát khỏi đống sách bị Đức quốc xã đem đốt vào khoảng bảy năm trước. Foyle quyết tâm ra tay giải cứu tất cả những cuốn sách đó cho bằng được, thậm chí không ngại thẳng thừng ra giá với Hitler. Có trời mới biết tại sao hắn làm vậy!” Ông Evans đưa tay lên trên bìa sách nhưng chỉ giữ yên đó mà không chạm vào. “Tôi rành Foyle lắm, có lẽ hắn sẽ nhét chúng vào những bao cát xung quanh cửa hàng, giống như cách hắn nhẫn tâm đối xử với đống sách cũ đã bị xài đến te tua vậy.”

Grace từng nhìn thấy những bao cát vuông vức trước cửa tiệm Foyles và thắc mắc làm sao chúng có được hình dạng đó. Thật không ngờ rằng chúng được nhồi bằng sách cũ. Grace nhìn lướt qua vệt màu nâu đỏ trên bìa tập sách đã xộc xệch. Trông nó thật hấp dẫn và khiến người ta tò mò.

“Cái gì đây ạ?” Cô chỉ vào cuốn sách.

Ông chủ tiệm hít một hơi dài rồi chầm chậm thở ra. “Máu.” Ông nhấc quyển sách ra khỏi tấm vải bọc. “Máu đã khô. Hitler chắc chắn không nương tay với những cuốn sách hắn ta muốn đốt nhưng lại bị mang giấu đi.”

Ẩn ý trong câu nói của ông khiến Grace kinh hoàng. “Ý bác là có thể có người đã hi sinh để bảo vệ nó?”

Cô theo ông Evans đi vào căn phòng phía sau. Tại đây, ông dời chỗ mấy chiếc thùng, để lộ ra một cái két sắt âm tường. Grace chớp mắt sửng sốt vì chưa hề biết đến sự tồn tại của nó.

“Có thể lắm.” Ông xoay núm cửa két sắt, không để ý đến chỗ tra chìa khóa bên dưới. Cánh cửa kim loại ì ạch mở ra, phát ra tiếng rên rỉ cọt kẹt. Bên trong tủ xếp gần chục cuốn có tựa đề tiếng Đức được viết dọc theo gáy sách. Tuy không còn mới nhưng không có quyển nào cũ kĩ tả tơi như tác phẩm của Albert Einstein.

“Có nhiều tác giả mà Hitler muốn bắt họ câm miệng, nhất là những người Do Thái.” Ông Evans đẩy cuốn sách mới vào bên cạnh những cuốn khác. “Nhiệm vụ của tất cả những người còn lại trên thế giới chính là bảo vệ tiếng nói của họ, để họ không bao giờ bị chết trong câm lặng.” Ông gõ gõ vào một gáy sách có dòng chữ Ahnansor được mạ vàng. “‘Nơi nào chúng đốt sách thì sớm muộn chúng cũng thiêu sống cả con người.’ Heinrich Heine không phải người Do Thái nhưng lý tưởng của ông ấy chống lại tư tưởng của Hitler.” Ông Evans đóng sập cánh cửa két sắt, khiến nó phát ra một tiếng kêu báo hiệu điềm chẳng lành. “Cuộc chiến này không chỉ có tắt điện hay hạn chế lương thực đâu, cô Bennett ạ.”

Grace nuốt khan.

Có những người sẵn sàng hi sinh tính mạng để cứu lấy sách, để bảo vệ những ý tưởng không bị chôn vùi và các tác giả không bị chìm vào quên lãng.

Cô vẫn chưa làm được gì cả.

“Có lẽ cháu sẽ tham gia ATS,” Grace bất ngờ nói.

Ông chủ hiệu sách chớp chớp đôi mắt to sau cặp kính, “Tôi nghĩ đó không phải quyết định sáng suốt đâu, cô Bennett ạ. Thay vì vậy sao cô không làm giám sát công tác phòng không?”

Grace cau mày khi nghĩ đến cảnh mình sẽ thực hiện nhiệm vụ giống như ông Stokes - săm soi theo dõi ánh sáng phát ra từ mỗi căn nhà và sốt sắng yêu cầu họ mau chóng tắt đèn.

Chiếc chuông cửa reo lên lanh canh báo hiệu khách đến. Grace và ông Evans lẳng lặng rời khỏi chỗ để két sắt để ra phía trước. Không có vị khách nào đang đợi cô cả, chỉ có bà Nesbitt.

Bà mặc chiếc áo khoác mackintosh màu be có thắt dây lưng ngay phần eo gầy tong teo, đội cái mũ đen ngay ngắn đúng chính giữa mái tóc, không chệch một li nào. Miệng bà giống như một đường rạch đỏ choét đầy tức tối giữa những nét cứng nhắc trên khuôn mặt.

“Tôi đến đây chỉ để gặp cái đồ khốn nạn nhà cô.” Bà rít lên đầy cao ngạo.

Cơn thịnh nộ của bà như tát vào mặt Grace, khiến cô đột nhiên lắp bắp, “Xin lỗi… bà nói gì ạ?”

“Đừng giả ngu trước mặt tôi, đồ gian xảo.” Bà Nesbitt sầm sập lao vào tiệm, đôi giày cao gót đen cứng ngắc của bà nện rầm rầm trên sàn y như đôi bốt. “Để xem. Gọn gàng sạch sẽ quá nhỉ. Khu nào khu nấy ngăn nắp quá nhỉ.” Bà dí ngón tay vào tấm bảng ghi thể loại sách Lịch sử. “Còn bày đặt phân loại nữa chứ.” Rồi bà liếc xéo qua cái bàn trưng bày hàng loạt sách trẻ em rực rỡ theo phong cách rất nghệ thuật.

Bà không buồn che giấu giọng điệu buộc tội gay gắt của mình, “Làm sao số hàng cô đặt ở Simpkin Marshalls lại tăng lên trong khi tất cả chúng tôi còn đang chật vật bán hết số sách thường ngày hả?” Lúc này, Grace không còn sự táo bạo để thẳng thừng đáp trả người phụ nữ chua ngoa này giống như lần trước, một phần vì cô chùn bước trước thái độ hằn học lộ liễu của bà, một phần vì cô muốn bảo vệ uy tín và thể diện cho hiệu sách Đồi Primrose.

Grace nắm chặt tay lại để giữ bình tĩnh và kiên nhẫn, sau đó cô đĩnh đạc trả lời, “Bằng tất cả sự tôn trọng, thưa bà Nesbitt, cửa hàng của bà không phải là nơi duy nhất trưng bày theo phong cách như vậy, và bà cũng không phải người duy nhất dán nhãn phân loại các khu vực để sách.”

“Cách bài trí của cô cũng có mục đích quá đấy chứ.” Bà cáu kỉnh.

Grace biết mình đã trang trí khung cửa sổ lớn khá đẹp mắt. Cô để những cuốn tiểu thuyết huyễn tưởng đang nổi tiếng xen kẽ với một số sách thiếu nhi nhằm thu hút các bà nội trợ dắt con cái đi theo. Đúng như bà Nesbitt đã nhìn ra, cách trưng bày này có mục đích nhưng sau đó nhiều hiệu sách trên phố Paternoster Row cũng bắt chước theo.

“Cảm ơn bà,” ông Evans lên tiếng. “Grace đã rất vất vả để sắp xếp nó cũng như chăm chút mọi thứ khác ở đây.”

Bà Nesbitt quay người lại đối diện với ông Evans. Hai người, một người cao nhòng và gầy nhẳng, một người thấp và đẫy đà. “Ý tôi là nó giống cách trang trí của tôi. Sao ông dám ăn cắp vậy?”

Ông ném cho bà cái nhìn chán nản. “Đừng có đổ thừa chuyện bà buôn bán ế ẩm là do chúng tôi ăn nên làm ra nhé.”

“Sao lại không?” Bà Nesbitt nói như đinh đóng cột. “Nếu không phải vì ông bắt chước cách sắp xếp cửa hàng của tôi thì làm quái gì mà hút khách được?”

“Sự cạnh tranh,” Grace mạnh dạn xen vào nhờ sự ủng hộ của ông Evans. “Trên phố Paternoster Row còn có rất nhiều hiệu sách khác, nhưng ở đường Hosier thì chỉ có một mình chúng tôi thôi.”

“Cộng thêm thái độ thân thiện niềm nở.” Hình như ông Evans vừa nở một nụ cười nhân hậu với Grace. “Do đó bà Nesbitt ạ, tôi mời bà rời khỏi đây ngay vì bà sẽ làm cho khách của tôi sợ đấy.”

Bà há hốc miệng vì bị xúc phạm trắng trợn, “Tôi chưa bao giờ…”

“Bị nói như vậy hả?” Ông Evans nhướng mày lên. “Chà, nếu bà chưa nghe điều đó bao giờ thì tôi e rằng cũng hơi muộn rồi đấy.” Ông chỉ tay ra cửa.

Bà Nesbitt khịt khịt mũi, hất đầu cao đến nỗi có thể không nhìn rõ đường đi rồi nhanh nhanh chóng chóng bước ra khỏi tiệm.

Ông Evans cau mày nhìn Grace.

Cô hết sức bối rối, nghĩ bụng lần này chắc chắn sẽ bị quở trách vì gây ra một vụ om sòm ngay trong tiệm để khách hàng nghe thấy.

“Cô Bennett, đừng tham gia ATS. Ở lại đây đi.”

“Ở London ạ?”

“Ở hiệu sách Đồi Primrose.” Ông Evans đút hai tay vào túi rồi cúi đầu. “Tôi biết cô định đến Harrods làm và tôi thật không phải khi đề nghị cô như vậy.” Ông nhìn lên, ngập ngừng. “Tôi rất biết ơn những việc cô đã làm cho cửa hàng này và hi vọng cô sẽ cân nhắc việc tiếp tục ở lại đây.”

Grace chăm chú nhìn ông, và không tin nổi vào tai mình. Chắc hẳn cô đang nằm mơ.

“Dĩ nhiên, tôi sẽ tăng lương cho cô.” Ông nói thêm.

Grace cười rạng rỡ, “Làm sao cháu có thể từ chối lời đề nghị hấp dẫn như vậy chứ?”

“Thật vui khi cô đồng ý.” Ông gật đầu, giống như nói với chính mình hơn là với Grace. “Tôi thật sự rất vui.”

Trong bữa trà chiều hôm đó, Grace hồ hởi khoe rằng Viv sẽ không phải giới thiệu cô đến Harrods làm nữa. Viv cũng đã thu thập đủ thông tin cần thiết để nộp đơn vào ATS. Cả hai đều có nhiều niềm vui đáng để ăn mừng.

Hóa ra nếu phụ nữ muốn tham gia tình nguyện thì không phải hoàn thành khóa huấn luyện cấp tốc như đàn ông. Trong thời gian Viv hoàn tất đơn đăng kí, tiến hành kiểm tra sức khỏe và chờ giấy bố trí địa điểm công tác, tháng Một đã nhường chỗ cho tháng Hai, và tiết trời lạnh lẽo băng giá dần tan, đủ làm cho đất đai mềm ra để chuẩn bị cho một mùa gieo trồng mới.

Một buổi sáng thứ Tư nọ, bác Weatherford xuất hiện trong căn bếp chan hòa ánh nắng. Bác mặc chiếc quần tây nâu rộng thùng thình, được thắt lại bằng thắt lưng ngay dưới ngực, ống quần xắn lên mấy lần quá mắt cá chân. Kết hợp với nó là chiếc áo thun màu rêu cũ kĩ, đường viền cổ đã bắt đầu bung ra.

Bộ đồ rất luộm thuộm và thùng thình, rõ ràng là của Colin. Nó khác xa với những chiếc đầm ôm vừa vặn với màu sắc, họa tiết hoa lá trang nhã mà bác vẫn thường mặc.

Grace và Viv đang ăn sáng với bánh mì nướng và bơ thực vật béo ngậy. Tuy đã ăn bấy lâu nay nhưng họ vẫn không thể nào nuốt trôi món này. Cả hai ngừng lại, sững sờ nhìn bác Weatherford.

“Colin đã phá hết khóm hoa của bác để trồng rau. Bác chắc chắn phải chăm cho chúng lớn lên.” Bác hất đầu về phía cửa sổ. Ngoài kia là mảnh đất khô cằn trống trơn. “Bác sẽ trồng rau ở chỗ Colin đã gieo hạt nhưng bị đóng băng trong mùa đông khắc nghiệt vừa rồi.”

“Bác biết trồng không ạ?” Grace hỏi.

“Bác biết trồng hoa.” Bác Weatherford kéo ống quần lên cao hơn một chút với khí thế đầy tự tin. “Còn Colin lúc nào cũng trồng cây, nhưng việc đó có gì khó đâu chứ?”

Viv suýt sặc khi vừa hớp một ngụm trà.

Bác Weatherford trải ra một tờ rơi, trên đó in hình đủ loại rau củ với màu sắc sặc sỡ và bên cạnh hình như là một biểu đồ. “Theo như trong này nói thì bác nên trồng hành tây, cải tây, củ cải với đậu vào tháng Hai.”

“Bác đừng trồng củ cải,” Viv bất đắc dĩ góp ý. “Những cây đó nên trồng vào mùa hè, thật ra thì bác nên đợi đến tháng Ba.”

Bà Weatherford lật tiếp mặt sau tờ rơi và nheo mắt đọc dòng chữ nhỏ xíu.

Grace nhướng mày nhìn Viv, tò mò xem bạn mình có giúp đỡ người bác hay không. Viv lắc đầu dứt khoát. Không bao giờ.

“À, đúng rồi, cháu nói đúng về củ cải đấy.” Bác đặt tờ giấy xuống và chụp cái mũ rơm lên đầu. “Thôi, bác đi trồng chúng đây. Đến lúc rồi, hay ít ra thì giờ bác đang có hứng.”

Bác hùng dũng đi ra cửa với dáng vẻ quyết tâm của một người lính.

“Cậu định để bác ấy làm một mình thật đó hả?” Grace trách móc.

Viv nhăn mặt lại và bĩu môi hờn dỗi. “Cậu thừa biết số phận của tớ là ngập dưới bùn đất từ trong máu rồi mà.” Cô nhìn ra ngoài cửa sổ. Bác Weatherford đang xếp một đống vật liệu trồng trọt sang bên cạnh trước khi bắt tay vào nhiệm vụ.

Bác bắt đầu ra giữa vườn, dùng ngón tay có đeo găng xoi một lỗ xuống đất.

“Cậu nghĩ bác ấy có biết mình đang làm gì không?” Grace hỏi.

Viv hớp một ngụm trà, chăm chú nhìn bác Weatherford đang tạo ra cái lỗ hình tròn. “Bác ấy không biết đâu.”

Grace nghiêng đầu nài nỉ Viv.

Nhưng bạn cô lùi sát vào ghế, tay siết chặt tách trà, “Không, tớ sẽ không giúp đâu.”

Bên ngoài, bác Weatherford kiểm tra ba túi hạt rồi bốc một ít hạt giống trong mỗi túi để gieo xuống đất.

“Có phải bác ấy định gieo hết tất cả không vậy?” Grace dựa vào chiếc ghế nệm mỏng dính để quan sát rõ hơn.

“Tớ sẽ không ra đâu.” Viv bắt chéo chân lại và tiếp tục uống trà.

Bác Weatherford gạt đất lấp lại những cái lỗ vừa được gieo hạt rồi tiếp tục xoi ngón tay xuống đất, xoáy một lỗ tròn thứ hai, cách lỗ thứ nhất hơn năm centimet.

Grace nhíu mày, “Bác ấy thậm chí còn không đánh dấu chỗ gieo hạt nữa.”

Viv dằn mạnh tách trà xuống bàn khiến vài giọt nước bắn ra ngoài, “Tớ không chịu nổi nữa. Tớ sẽ lên tầng thay bộ đồ cũ rồi ra giúp bác ấy.”

Grace nén cười rồi nhanh tay thu dọn ly tách, “Để tớ dọn chỗ này, sau đó đi thay cái quần rồi ra làm với cậu.”

Họ mất gần như cả buổi sáng để phân chia khu vườn thành nhiều khoảnh, rồi chừa lại đủ không gian để tiếp tục gieo hạt vào những tháng ấm áp hơn sắp tới.

“Bác thấy cháu làm còn giỏi hơn Colin nữa.” Bà Weatherford khen Viv sau khi họ làm xong xuôi. “Bác biết cháu rất muốn tham gia ATS nhưng bác nghĩ cháu chắc chắn sẽ là một thành viên xuất sắc trong Hội Nông nghiệp Nữ thanh niên.”

Viv chỉ mỉm cười gượng gạo trước lời khen đó.

Tuy làm vườn vô cùng vất vả và lấm lem nhưng ba bác cháu vẫn trò chuyện rôm rả trong lúc luôn chân luôn tay. Họ không hề biết đó là lần cuối cùng được cùng nhau tận hưởng niềm vui trọn vẹn như thế. Chiều hôm ấy, Viv nhận được thư triệu tập, họ yêu cầu cô đến cơ sở đào tạo tại Devon ngay vào ngày hôm sau.

Lần đầu tiên trong đời, Grace phải một mình đối mặt với số phận bấp bênh của London giữa cuộc chiến khốc liệt mà không có người bạn thân thiết nhất bên cạnh.