CHƯƠNG 10
Không có Viv, cuộc sống trở nên vô cùng quạnh vắng. Chẳng những mất đi người bạn đồng hành thân thiết nhất, Grace còn cảm thấy mình đã bỏ lỡ một điều gì đó lớn hơn khi từ chối tham gia ATS.
Cô cũng không đăng kí làm giám sát không kích trong thành phố mà nghe lời thuyết phục của bác Weatherford đến tham dự vài buổi họp mặt của Hội Phụ nữ tình nguyện.
Ở đó, cô tìm được sự đồng điệu cảm thông với các bà nội trợ. Một số người lớn tuổi hơn nhưng cũng có nhiều cô gái trạc tuổi Grace đã lập gia đình. Cô giúp họ băng bó vết thương trong lúc nghe họ than vãn về đống tã lót bẩn thỉu, về tốc độ thư từ giữa tiền tuyến với hậu phương chậm như rùa và về nỗi vất vả chật vật mà họ phải tự mình vượt qua. Nhưng bất chấp tất cả, họ vẫn hăng hái động viên nhau và xoay xở cách nấu nướng để thích nghi với mọi quy định hạn chế thực phẩm, nhất là khi thịt được thêm vào danh sách thắt chặt nguồn cung kể từ tháng Ba. Dẫu sao đi nữa, với hơn trăm lạng thịt thì người ta cũng chỉ nấu được đến thế là cùng.
Trong hai cô gái, trước giờ Viv vốn là người vô tư, hoạt bát còn Grace thì dè dặt, kín đáo và cô thoải mái chấp nhận tính cách của mình. Bây giờ, khi Viv không có ở đây, Grace cảm thấy vô cùng lạc lõng khi phải ở giữa một căn phòng đầy người xa lạ hết tuần này sang tuần khác.
Bởi vậy nên sang tháng Tư, cô bắt đầu tìm cớ thoái thác những cuộc gặp gỡ ở Hội Phụ nữ tình nguyện. Thật may vì bác Weatherford không phản đối, thế là Grace được cuộn tròn trên giường với một cuốn sách bên cạnh.
Ngoài những lúc phụ giúp bác Weatherford chăm sóc khu vườn, Grace dành thời gian còn lại để ngấu nghiến tất cả các tác phẩm khác của Jane Austen, sau đó cô chuyển sang đọc vài cuốn tiểu thuyết của Charles Dickens, rồi đến Frankenstein của Mary Shelley và cuối cùng là một tựa sách nào đó gần đây của Daphne du Maurier.
Hễ thấy cuốn sách nào hay, Grace đều nhiệt tình giới thiệu cho khách hàng ở hiệu sách Đồi Primrose. Doanh thu của cửa hàng liên tục tăng nhanh một cách đáng kinh ngạc đến nỗi ông Evans quyết định cho Grace mượn sách về đọc miễn phí. Ban đầu cô từ chối lời đề nghị đó nhưng khi nhận ra thói quen đọc sách mới hình thành của mình đã giúp cửa tiệm làm ăn phát đạt thế nào, Grace đồng ý nhận sự biệt đãi hào phóng của ông Evans với lòng biết ơn sâu sắc.
Grace vừa giới thiệu xong quyển Rebecca, tác phẩm mới nhất của Daphne du Maurier mà cô đã đọc gần đây cho một nữ khách hàng trong Hội Phụ nữ tình nguyện (hình như người đó không nhớ ra cô), thì ông Stokes bước vào. Trước đây, mỗi khi thấy ông Stokes đến, ông Evans đều lo lắng không biết mình có vi phạm quy định tắt điện gì chăng. Nhưng từ sau khi vị khách trung niên với đôi lông mày vĩ đại cau có ấy trở thành khách quen của tiệm thì ông Evans đã không còn băn khoăn nữa. Ông Stokes cũng có thói quen đọc sách nhanh y hệt như Grace vậy.
“Đã ba ngày rồi không thấy bác ghé đây,” Grace chào hỏi sau khi bán quyển sách mà cô vừa giới thiệu cho người phụ nữ ở Hội tình nguyện. “Không biết bác đã có thời gian đọc Bá tước Monte Cristo chưa?”
Grace không buồn giấu đi nụ cười. Ông Stokes từng nói muốn mua một cuốn sách đủ dài để đồng hành với ông lâu hơn một đêm. Nhìn quầng thâm dưới mắt vị khách, Grace biết chắc ông đã cố “ngốn” hết cuốn sách đồ sộ ấy rồi.
Khi giới thiệu tác phẩm này với ông Stokes, Grace đã biết nó sẽ khiến ông say mê không rời mắt. Có lẽ khi George tặng cho cô cuốn Bá tước Monte Cristo cũ, anh cũng biết chắc như vậy. Grace chợt khao khát được trò chuyện với anh biết nhường nào. Từ lâu, cô đã muốn chia sẻ với anh về tác động mạnh mẽ của món quà ấy đối với cô. Giá như Grace biết địa chỉ của George để viết thư cảm ơn anh thì hay biết mấy.
“Cuốn tiểu thuyết đó quả thực đã ngốn kha khá thì giờ của tôi.” Ông Stokes xoa xoa gáy. “Nó dài hơn mấy quyển khác nhiều và hay lắm.” Ông thở dài. “Anh chàng làm chung với tôi vừa đi lính nên giờ tôi phải gánh công việc của cả hai người. Cô có biết ai muốn tham gia làm giám sát không kích không?”
“Cô Grace đang cân nhắc đấy,” giọng ông Evans vang lên đâu đó từ trong dãy sách Lịch sử.
Cửa hàng bây giờ đã được sắp xếp gọn gàng nên có thể nhìn ra ngay ông chủ tiệm đang quan tâm đến thể loại sách nào. Lịch sử và Triết học. Ông Evans thường dành phần lớn thời gian trong ngày để kiểm tới kiểm lui kho sách vở, nhằm đảm bảo phát hiện không sót bất cứ lỗi in ấn nào.
Grace giả vờ bận rộn với công việc ở quầy tính tiền và chăm chú dọn dẹp mặt bàn vốn không cần phải dọn vì đã rất gọn gàng rồi. Cô nhăn mặt lại, tự nhắc nhở mình là còn phải chăm sóc bác Weatherford. Nhưng dù sao đi nữa, tốt hơn hết Grace vẫn nên đối diện với ông Stokes và đáp lại lời nài nỉ của ông rằng cô sẽ tham gia.
Mặc dù Grace đã nỗ lực hỗ trợ Hội Phụ nữ tình nguyện nhưng rốt cuộc cô vẫn không thể thích nghi được. Tệ hơn nữa, cô còn cảm thấy lúng túng và khó hòa nhập với mọi người. Biết đâu trở thành giám sát viên phòng không lại là lựa chọn phù hợp hơn? Các cuộc không kích thỉnh thoảng vẫn xảy ra, bom đạn oanh tạc trong vài giờ rồi im tiếng, để lại những ô cửa kính vỡ trống hoác và bầu không khí ngột ngạt mịt mù khói. Thậm chí mọi người còn chẳng buồn tìm nơi trú ẩn nữa.
Từ sau khi Viv đi đến giờ, Grace đã nhận được hai lá thư. Vì bạn cô đóng quân ở Anh nên thư từ thường xuyên hơn so với Colin đang đóng quân tại nước ngoài. Dịch vụ bưu chính đang quá tải nên chậm trễ cũng là chuyện thường tình. Ít nhất qua thư hồi âm, Grace biết rằng dường như Viv đang vui vẻ làm quen với những nhiệm vụ mới, chắc hẳn điều đó dễ chịu hơn nhiều so với công việc của Grace ở Hội Phụ nữ tình nguyện.
“Cô Bennett, cô định tham gia giám sát phòng không thật à?” Ông Stokes hỏi.
Grace dựng thẳng quyển sách Bobby Bear’s Annual lên. Nó nằm trong dãy sách thiếu nhi được bày bán ngay quầy thu ngân nhằm thu hút các bà nội trợ tiện tay mua thêm một cuốn sách bắt mắt. “Cháu đang suy nghĩ ạ.”
Bộ ria mép của ông Stokes giật giật, “Nhưng cô là phụ nữ mà.”
Grace sững người, tức giận vì hàm ý xem thường trắng trợn của ông khách.
“Nếu ông cho rằng cô ấy không làm được thì ông thật dở hơi.” Ông Evans bước ra từ dãy sách Lịch sử, trừng trừng nhìn ông Stokes qua cặp kính dày cộm. “Cô Bennett có thể làm tất cả những việc của bất kì đàn ông nào, thậm chí còn làm tốt hơn nhiều đấy.”
Ông Stokes tỏ vẻ mỉa mai.
Cách phản ứng mập mờ của ông cộng thêm lời khen ngợi của ông Evans khiến Grace tự tin ngẩng cao đầu hơn một chút. “Cháu sẽ tham gia.”
Trán ông Stokes nhăn lại nhiều hơn. “Cô sao?” Ông nói.
“Stokes, ông đừng có làm như ông cũng đang cạnh tranh công việc này chứ.” Ông Evans mỉm cười với Grace rồi tiếp tục bận rộn với những quyển sách.
“Tốt quá. Vậy chiều nay cô hãy đến đồn giám sát rồi xin phép vào trong.” Ông Stokes hắng giọng. “Tôi muốn mua một cuốn khác, cô giới thiệu cho tôi nhé.”
Chiều hôm đó sau khi hết ca làm việc ở hiệu sách Đồi Primrose, Grace theo lời ông Stokes đến đồn giám sát trình diện. Vài ngày sau, cô được phát một chiếc mũ thiếc có sơn chữ W màu trắng thể hiện vai trò giám sát của cô trong đội, một cái còi, một dụng cụ báo động để cảnh báo mọi người khi xảy ra tấn công bằng hơi độc, một cuốn Cẩm nang Đào tạo Giám sát viên Phòng không có bìa màu cam, và cuối cùng là mặt nạ phòng độc chuyên dụng. Nhìn thấy chiếc mặt nạ, Grace sợ chết khiếp vì loại chuyên dụng cồng kềnh hơn nhiều so với loại thường mà cô đang mang, lại còn thêm cặp mắt kính to đùng và ống lọc khí có gắn tai nghe. Làm sao một thứ dị hợm như vậy lại nằm gọn trong túi xách của Grace được chứ?
Bởi vậy trong bốn ca trực đêm đầu tiên với ông Stokes, cô đã để mặt nạ trong chiếc hộp đeo lòng thòng vô duyên trên vai chứ không cho vào cái túi xách gọn nhẹ bên cạnh mình. Grace mặc chiếc áo khoác mỏng để cản bớt cái lạnh se se của những ngày tháng Tư. Nhưng sợi dây đeo chết tiệt vẫn không chịu nằm yên trên vai cô, cũng may là còn có huy hiệu ARP bằng kim loại giữ cho chúng ở đúng vị trí.
Khi Grace và ông Stokes ra khỏi văn phòng sạch bóng của đồn giám sát, lệnh tắt điện đã có hiệu lực trên toàn thành phố. Mặt trăng gần như bị che khuất hoàn toàn, không còn chút ánh sáng nào xuyên qua được màn mây dày đặc.
Trời tối đen như hũ nút, chẳng thể nhìn thấy gì.
Mồ hôi vã ra trong lòng bàn tay Grace bất chấp tiết trời lạnh lẽo.
“Đi thôi.” Ông Stokes tự tin sải bước về phía trước.
Grace dè dặt nhích lên từng chút.
“Cô Bennett, chúng ta không thể đêm nào cũng nấn ná mãi trước đồn như vậy.” Ông Stokes nóng nảy.
Cảm giác hối hận nhói lên trong lòng Grace. Lẽ ra cô không nên đăng kí tham gia đơn vị phòng không. Làm sao cô có thể đối diện với bóng tối dày đặc hằng đêm chứ?
Grace nặng nề lê bước lại gần chỗ tiếng nói của ông Stokes phát ra.
Tiếng cười của ông vang lên giữa đêm, “Đám giám sát viên tò te đều y như cô hết, mù tịt. Cô Bennett, cứ tìm những vạch trắng trên vỉa hè, mắt cô sẽ quen dần với bóng tối rồi có thể dễ dàng lần theo chúng.”
Thái độ chỉ đường của ông trịch thượng hơn trong sách hướng dẫn nhưng Grace vẫn ngoan ngoãn nghe theo. Đúng như ông nói, mắt Grace từ từ làm quen và xác định được những vạch kẻ đường được sơn đậm.
Grace và người giám sát phòng không dày dạn kinh nghiệm cẩn thận đi qua hết những con đường tối thui thuộc khu vực họ được phân công. Ban ngày, các con phố này vốn quen thuộc với Grace như lòng bàn tay nhưng khi đêm xuống, nó lại trở nên xa lạ đến nỗi không thể nhận ra. Vừa đi ông Stokes vừa chỉ cho cô vị trí những hầm trú ẩn cũng như các khu vực có thể gây nguy hiểm cho nhiều người nếu chẳng may bị đánh bom.
Khi đi qua mỗi nhà dân, ông đều nêu tên từng người cho Grace biết. Trong trường hợp bị ném bom, họ cần nắm rõ danh sách cư dân trước khi mọi người chui xuống hầm.
Ngoài việc xác định địa điểm và nêu tên người dân trong khu vực, ông Stokes còn nhắc lại với Grace tất cả thông tin đã được trình bày trong cuốn Cẩm nang Đào tạo Giám sát viên Phòng không. Tuy nhiên những đoạn viết về tác hại của khí độc trong sách không sống động bằng và các mô tả về thương tích cũng không máu me quá mức cần thiết như lời của ông Stokes.
Nếu có thể nhìn thấy khuôn mặt Grace, ông Stokes sẽ biết những gì ông nói khiến cô cực kì chán ghét. Có lẽ mục đích của ông chính là vậy. Nhưng Grace nhất định sẽ không để ông làm cho cô nản lòng bỏ cuộc.
“Nhà Taylor đó,” ông càu nhàu với giọng hằn học qua hơi thở. “Cô thấy chưa?” Ông hỏi, lần này to rõ hơn.
Grace đưa mắt tìm kiếm trong bóng tối trước mặt, cố gắng phớt lờ màn đêm nặng trịch đang đè chặt lên mắt. Xa xa đằng kia, một quầng sáng vàng le lói chiếu ra từ ô cửa sổ vuông.
Grace suýt bật cười. Ánh đèn nhỏ như hạt đỗ đến mức gần như không thấy được. “Chắc chắn máy bay Đức không phát hiện ra đâu ạ.” Cô nói.
Tiếng bước chân của ông Stokes rảo đi gấp gáp hơn. “Không quân Hoàng gia Anh đã kiểm tra những vi phạm thế này và xác nhận rằng ban đêm khi bay trên trời họ vẫn có thể nhìn thấy ánh đèn. Mới hôm qua bọn Đức đã tấn công Na Uy và Đan Mạch. Tiếp theo rất có thể đến chúng ta. Cô có muốn nhà mình bị ném bom chỉ vì nhà Taylor không che kín các cửa sổ không?”
Câu hỏi đó khiến Grace gai hết cả người, “Chắc chắn không ạ.”
“Lại còn ‘bỏ lỡ thời cơ’ nữa chứ”, ông Stokes cằn nhằn, nhắc lại tuyên bố gần đây của Thủ tướng Chamberlain. “Nếu ta thua trong cuộc chiến này thì là do chính phủ hành động lù đù như rùa.”
Grace cũng có nghe chương trình phát thanh đó. Thủ tướng tuyên bố Hitler đã “bỏ lỡ thời cơ” vì lẽ ra hắn nên tấn công sớm hơn, trong thời gian nước Anh đang ráo riết chuẩn bị còn quân Đức đã sẵn sàng. Quả là sự khoe khoang ngạo mạn không đúng lúc. Vài ngày sau, Hitler liền đánh vào Na Uy và Đan Mạch. Trận sau chỉ cách trận trước có vài tiếng đồng hồ.
Toàn nước Anh đều phẫn nộ trước cách phản ứng của Chamberlain đối với cuộc chiến.
Ông Stokes phi lên cầu thang trước mặt bằng một tốc độ mà Grace e rằng cô không bao giờ đạt được trong hoàn cảnh tối đen như mực thế này.
“Ông Taylor, tắt đèn đi ngay. Tôi đã nói nếu ông để hở một lần nữa thì sẽ bị phạt…”
Grace cố hết sức nhấn chìm bản thân vào bóng tối, hi vọng màn đêm đủ sâu để nuốt chửng cả người cô. Grace có thể sẵn sàng đối mặt với việc bị quân Đức tấn công nhưng nhất quyết từ chối việc hăm hở phạt những người dân London vì lỗi không chịu kéo kín rèm cửa.
Trong tháng tiếp theo, Grace lại đội chiếc mũ giám sát viên bằng thiếc và miễn cưỡng đi tuần với ông Stokes ba buổi tối một tuần, chứng kiến ông hăm dọa những người dân London tử tế nhưng chưa nỗ lực thực hiện quy định tắt đèn đạt yêu cầu.
Vào khoảng thời gian này, bác Weatherford nhận được thư của Colin. Anh nhắc đi nhắc lại rằng mình đang sống rất tốt và hoàn thành xuất sắc khóa đào tạo. Grace cũng nhận thêm một lá thư nữa từ Viv. Sự hân hoan hồ hởi tuôn ra từ trang giấy sống động đến mức Grace tưởng như nghe được giọng nói động viên của bạn vang lên trong đầu. Mặc dù tất cả nhiệm vụ mà Viv nhắc đến trong thư đều bị đánh dấu và bị người kiểm duyệt bôi đen, nhưng nhìn chung mọi thứ đều ổn và phù hợp với cô. Biết vậy Grace cũng được thở phào nhẹ nhõm.
Sau những lá thư qua lại với Viv, Grace không khỏi trăn trở về anh George. Thật lòng cô đã rất mong ngóng nhận được chút tin tức của anh và hơi thất vọng vì mãi vẫn bặt vô âm tín. Tuy vậy, cô vẫn luôn đọc kĩ tất cả thư từ đưa đến hiệu sách Đồi Primrose vì biết đâu anh có gửi thư về.
Một buổi chiều nọ, trong lúc Grace đang xem gói bưu phẩm mới gửi đến thì ông Pritchard đẩy cửa bước vào, bàn tay xương xẩu của ông nắm chặt một tờ báo. Tabby lo lắng quấn lấy cổ chân người chủ trong lúc ông lớn tiếng thông báo tin tức vừa nhận. “Evans! Bọn Đức đến Pháp rồi. Cả Hà Lan với Bỉ nữa. Nhưng là Pháp đó, Evans - là Pháp!”
Nỗi sợ hãi chạy dọc sống lưng Grace. Trước đây, Hitler vẫn chưa dám đụng đến Pháp, nhưng đến giờ hắn đã tràn vào tất cả các nước giáp biên giới với Anh. Nếu Pháp thất thủ thì hắn chỉ còn cách đất nước này một eo biển Manche mà thôi.
Một cơn ớn lạnh len lỏi trên da thịt. Cô lập tức nghĩ đến những người bạn ngoài tiền tuyến. Sau đó cô mới nhớ ra là ngay cả bản thân mình và tất cả người dân ở London cũng đang bị hiểm nguy rình rập.
Ông Evans nhanh chóng chạy ra trước cửa tiệm. Grace chưa từng thấy ông vội vã như vậy bao giờ. Thậm chí ông còn không kịp đánh dấu trước khi gấp cuốn sách lại và để nó lên quầy. “Chamberlain từ chức chưa?” Ông lên tiếng hỏi.
Ông Pritchard lắc đầu. “Tôi không đọc được.” Ông nhìn tờ báo với vẻ bất lực. Để tuân theo chính sách tiết kiệm giấy, khổ báo bây giờ đã bị thu nhỏ lại chỉ còn một nửa so với năm ngoái.
“Lạy Chúa phù hộ chúng ta nếu ông ta không chịu từ chức.” Ông Evans tháo kính ra và véo vào sống mũi, nơi cặp kính đã hằn lên làn da già nua của ông những vết lõm không thể mất đi.
Ngoài cửa vang lên tiếng chuông vui vẻ báo hiệu có khách. Một âm thanh lanh lảnh, tươi sáng phá tan bầu không khí tịch mịch đáng sợ vừa ập xuống. Cậu bé giao hàng của Simpkin Marshalls bước vào, đôi tay gầy guộc của cậu ôm một cái thùng lớn.
Đó là thùng sách Pigeon Pie mà họ mới đặt gần đây, cuốn sách là một tác phẩm châm biếm mang tính chính trị về “cuộc chiến tẻ nhạt này” của tác giả Nancy Mitford.
Suýt nữa thì Grace đã kêu lên.
Một cuốn sách như vậy không thể chấp nhận vào thời điểm này.
Grace đã muốn đặt quyển sách này trước khi nó ra mắt vài ngày nhưng ông Evans còn do dự. Ông khẳng định mình chỉ bán những tác phẩm kinh điển có giá trị lâu dài chứ không chạy theo xu hướng nhất thời. Nhưng rồi cuối cùng ông đồng ý đặt hàng và bây giờ, Grace sẽ phải trả giá cho sai lầm đó.
Vài ngày sau, tình hình chiến sự tiếp tục leo thang. Đúng như dự đoán, cuốn Pigeon Pie thất bại thảm hại. Doanh thu tuột dốc vì ai cũng ở nhà, dán chặt người trên ghế sô pha và tuyệt vọng trông ngóng từng tin tức trên báo đài.
Hầu như chẳng có tin nào khả quan.
Điểm sáng duy nhất chính là Chamberlain từ chức thủ tướng. Chiến thuật phòng thủ kéo dài của ông chẳng những gây mệt mỏi mà giờ đây còn đẩy nước Anh vào tình trạng nghìn cân treo sợi tóc. Người kế nhiệm chính là Đệ nhất Đô đốc đại thần Winston Churchill. Hầu hết người dân trên Vương quốc Anh đều thở phào nhẹ nhõm.
Chiến tranh trở thành đề tài thường trực trên môi, đè nặng tâm trí của tất cả mọi người, hiện diện trong mỗi cuộc trò chuyện và ám ảnh toàn bộ cuộc sống. Những chi tiết được thêu dệt xung quanh các câu chuyện trà dư tửu hậu càng gây hoang mang dữ dội. Trong đó kinh hoàng nhất chính là đợt thả bom xuống Rotterdam, Hà Lan, nghe phong thanh là nó đã cướp đi sinh mạng của hơn ba mươi nghìn người.
Ông Stokes thông báo con số thương vong kinh khủng đó với Grace bằng giọng điệu hân hoan đầy đáng sợ. Cuối cùng, cuộc chiến án binh bất động không hồi kết này đã có chuyển biến và điều đó thổi bùng lên ngọn lửa trong ông. Ông bắt đầu xử lý quyết liệt những vi phạm nhỏ nhặt của mọi người và không ngừng nhắc nhở Grace về nhiệm vụ của cô trong việc bảo vệ thành phố khỏi bị đánh bom.
Tuy nhiên, điều gây tò mò hơn hết chính là thời tiết đẹp lạ thường. Grace chưa bao giờ nhìn thấy một tháng Năm tươi tắn rạng rỡ đến vậy. Ánh nắng chan hòa, bầu trời xanh trong rực rỡ. Chồi non trong vườn vươn mình thành những chiếc lá mơn mởn và những đóa hoa khỏe khoắn bung nở, hứa hẹn một mùa rau củ tốt tươi.
Hình ảnh các bức tường bao cát vây quanh hầm trú ẩn công cộng hay những tấm áp phích kêu gọi nhập ngũ dần dần phai nhạt trong tâm trí Grace. Giờ đây trong đầu cô chỉ còn tiếng chim ca rộn ràng với những ngày nắng ấm áp. Thật khó lòng tưởng tượng rằng các nước đồng minh láng giềng đang oằn mình hứng chịu mưa bom bão đạn, thứ cướp đi biết bao sinh mạng mỗi ngày.
Thế nhưng tháng Năm thanh bình ấy chỉ là ảo ảnh, là lớp vỏ bọc xinh đẹp, mỏng manh đang chực vỡ tan để buộc họ phải đối diện với hiện thực khắc nghiệt. Đội quân của Hitler nhanh chóng xé toạc nước Pháp và đang hừng hực khí thế bên kia eo biển Manche.
Nước Anh sẽ là mục tiêu kế tiếp của chúng.
Và nhiều tin đồn về những cuộc sơ tán dọc bờ biển để đưa bọn trẻ ở London ra nước ngoài lần nữa đang dần xuất hiện.
Trong khi cuốn sách Pigeon Pie đã thất bại nặng nề thì quyển What Hitler Wants lại đắt hàng như tôm tươi. Không chỉ có những người khách quen thường lách mình qua cánh cửa hiệu sách mới nôn nóng tìm hiểu về tư tưởng của Hitler mà đến cả các bà nội trợ cũng thường xuyên ghé qua. Bồn chồn vì chồng đang chiến đấu ở Pháp, đau buồn vì phải gửi con cái đi xa lần nữa, những người vợ, người mẹ này khao khát tìm một thứ gì đó khiến cho họ phân tâm, một thứ lôi cuốn sự chú ý để họ có thể tạm thời quên đi nỗi phiền muộn đang đè nặng trong tim mình.
Có một người khách nữ đặc biệt - một cô gái tóc nâu trạc tuổi Grace đã nán lại cửa hàng hơn một tiếng đồng hồ. Ban đầu, cô ấy bảo không cần được giúp đỡ nhưng khi thấy vị khách đã ở trong góc sách tiểu thuyết kinh điển khá lâu, Grace buộc phải đến hỏi thăm lần nữa.
“Chị có chắc là không cần em giúp gì không?” Grace hỏi.
Người phụ nữ giật mình, sụt sịt nghẹn ngào rồi quay đầu đi. “Tôi xin lỗi. Tôi… tôi không nên…” và rồi cô đột ngột òa lên khóc.
Ông Evans lúc ấy đang đứng ở dãy kệ kế bên liền hấp tấp chạy sang phía đối diện cửa hàng, để Grace ở lại một mình với người khách đang nức nở đó.
Những bà nội trợ đến cửa hiệu ông Evans mua sách hầu như đều đeo lên vẻ mặt lạnh lùng như cố che giấu sự đau khổ đằng sau lớp mặt nạ lịch thiệp đoan trang. Chưa từng có ai bộc lộ cảm xúc mãnh liệt đến thế.
Nhìn thấy cảnh đó, sâu thẳm trong lồng ngực Grace nhói lên một nỗi đau tê tái.
“Đừng cố chịu đựng một mình.” Cô lần tay vào túi và rút ra một chiếc khăn đưa cho người phụ nữ. “Đây là giai đoạn khó khăn đối với tất cả chúng ta.”
Cô gái tóc nâu nhận lấy chiếc khăn tay và nở nụ cười áy náy, khuôn mặt cô đỏ ửng lên gần như hòa với màu son của cô vậy. “Mong chị thứ lỗi.” Cô chấm khăn lên mắt. “Chồng tôi đang ở Pháp, còn tôi…” Người phụ nữ nuốt khan một cách khó nhọc, mím chặt môi để ngăn một cơn sóng tuyệt vọng khác chuẩn bị trào lên. “Tôi vừa mới gửi con gái của mình đi vào hai ngày trước.” Cô ngước đôi mắt nâu to tròn nhìn vào mắt Grace, hai hàng mi ướt nhòe. “Chị có con không?”
“Em không,” Grace dịu dàng đáp.
Người phụ nữ đau đáu nhìn chiếc khăn tay lúc này đã lấm lem mascara, son môi và cả nước mắt đau buồn của cô. “Đợt đầu tôi không chịu gửi bé đi. Tôi biết như vậy là ích kỉ, nhưng tôi không thể xa con được. Nhưng bây giờ cuộc chiến đã đến nước Pháp… Hitler đến quá gần rồi…”
Người mẹ trẻ chặn hai tay lên ngực và khuôn mặt rúm ró lại. “Tôi không thể chịu được nỗi nhớ con. Tôi vẫn nghe thấy giọng nói bé xíu của nó đang gọi mình, đang hát những bài hát ngây ngô mà nó nghĩ ra. Hôm nay tôi giặt đồ và không kìm được nên lại ngửi mùi hương trên gối của con bé.” Nước mắt cô trào ra giàn giụa. “Con bé lúc nào cũng thơm cái mùi ấy, giống như bột với mật ong. Nó giống cái mùi này này. Y như bé con nhà tôi.” Người phụ nữ cúi mặt xuống chiếc khăn đang nâng niu trên tay và tiếp tục thổn thức.
Cổ họng Grace nghẹn lại vì xúc động. Tuy chưa làm mẹ nhưng cô hiểu rõ sự mất mát khiến ta đau đớn quặn thắt như thế nào. Grace không nói nên lời, lúc này cô chỉ còn biết lặng lẽ ôm lấy người phụ nữ.
“Tôi nhớ con bé nhiều lắm,” người mẹ tội nghiệp nức nớ.
“Em hiểu.” Grace dịu dàng ôm lấy người phụ nữ đang chìm trong nỗi buồn đau. “Mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp hơn. Chị đã làm những điều tốt nhất để bảo vệ con gái mình được an toàn.”
Cô gái tóc nâu gật đầu rồi đứng thẳng lên, lau đi lớp phấn son lem luốc. “Lẽ ra tôi không nên ra ngoài trong tâm trạng xúc động thế này. Xin hãy thứ lỗi cho tôi.” Cô sụt sịt và chấm khăn lau nước mắt, chỗ lớp mascara bị lem ra khiến cho làn da của cô xám đi. “Một người bạn khuyên tôi nên tìm một cuốn sách đọc để giải khuây, nhưng tôi không thể tập trung nổi để chọn được cuốn nào.”
Grace kín đáo thở phào. Đây là nghề của cô mà. “Vậy để em giúp chị.” Cô dẫn vị khách đến một kệ sách và rút ra quyển Emma của Jane Austen. Óc hài hước của bà đã khiến Emma trở thành một trong những tác phẩm mà Grace yêu thích nhất. “Cuốn sách này sẽ khiến chị bật cười nhưng rồi thở dài tiếc nuối ngay sau đó.”
Người phụ nữ cầm lấy quyển sách. “Là tiểu thuyết kinh điển sao?” Cô hỏi.
“Và cũng là một câu chuyện lãng mạn.” Grace buột miệng nhắc lại những lời của George mà chưa kịp suy nghĩ.
Cô nội trợ hết lời cảm ơn về cuốn sách và xin lỗi vì đã làm phiền, sau đó trả tiền rồi vội vàng rời đi. Cô ôm chặt quyển sách trong tay như một bảo vật quý giá.
Vài ngày sau, Grace chợt phát hiện một phong thư méo mó được gửi cho cô. Nó nằm trên cùng xấp thư để trong góc quầy tính tiền.
Tim cô đập lỡ một nhịp.
Chắc chắn không thể nào là George đâu. Sau ngần ấy thời gian, cô không nên ấp ủ hi vọng nữa. Tuy nghĩ thế nhưng bàn tay Grace vẫn run rẩy khi với lấy phong thư và đọc dòng địa chỉ người gửi - Trung úy phi công George Anderson - được viết tay thật gọn gàng.
Grace hít một hơi thật mạnh rồi lật đật mở phong thư, cô cố gắng không làm rách nó trong lúc vội vàng.
Là George viết thư cho cô.
Sau chừng ấy thời gian, cuối cùng anh đã thật sự gửi thư cho cô. Có phải anh đang ở Pháp không? Anh có an toàn không? Khi nào thì anh trở về?
Grace mở thư ra và dừng lại. Các khoảng trống lỗ chỗ trên trang giấy chứng tỏ đã có nhiều phần bị cắt ra. Những gì còn lại chỉ là một mẩu thư ngắn nham nhở với gần phân nửa nội dung bị lược bỏ. Dòng ngày tháng trên cùng cho biết nó đã được viết từ hồi tháng Hai.
Trong hoàn cảnh này, thư từ khó lòng được bảo đảm còn đầy đủ thông tin, nội dung bên trong hầu như đều bị cắt. Grace trải tờ giấy mỏng manh lên mặt quầy phẳng để giữ nó nguyên vẹn và bắt đầu đọc.
George xin lỗi về việc chậm trễ viết thư cho Grace vì một lý do nào đó mà cô không thể đọc được. Anh mong rằng cô thích quyển Bá tước Monte Cristo và than thở vì ở nơi công tác của anh chẳng có sách để đọc. Anh chỉ có một quyển sách đã đọc đi đọc lại, và tên của nó cũng bị cắt khỏi lá thư. George hi vọng năm nay sẽ được quay về London và ngỏ lời hỏi xem lúc ấy Grace có rảnh để hẹn gặp anh không.
Tim cô đập ngày càng nhanh khi đọc đến những dòng cuối cùng. Anh chàng thậm chí còn chẳng cần “ngụy trang” lời mời bằng lý do giúp đỡ cô quảng bá hiệu sách nữa.
Một buổi hẹn hò.
Hồi ở làng Drayton, Grace từng hẹn hò với một vài anh chàng nhưng tất cả đều chẳng đi đến đâu. Tom Fisher thì chán ngắt, Simon Jones đòi hôn cô một cách thô bạo, còn Harry Hull chỉ lăm le để tiếp cận Viv.
Chưa một ai trong số họ khiến trái tim Grace rộn ràng, xao xuyến như George Anderson.
Suốt cả ngày hôm đó, tâm trí Grace cứ mãi vương vấn về lá thư bị cắt vụn từng mảnh. Nụ cười vẫn nở trên môi Grace cho đến khi về tới nhà. Vừa bước vào, cô nhìn thấy bác Weatherford đang ngồi trong phòng khách giữa một đống băng cuộn với đủ mọi hình thù và bao bì khác nhau.
Bác ngồi trên sàn nhà, trước một thùng băng cuộn và hồ hởi nói, “Họ đang về đây.”
Grace cầm một dải vải lanh lên rồi bắt đầu cuộn lại. Cô đã quen làm việc này với vô số những người khác trong các buổi họp mặt của Hội Phụ nữ tình nguyện. “Ai về ạ?” Cô hỏi lại.
“Những người đàn ông của chúng ta.” Gương mặt bác Weatherford sáng bừng lên mà ngay cả ông Stokes cũng không thể dập tắt vẻ rạng rỡ ấy. “Lực lượng BEF đang từ Pháp trở về, Hội Phụ nữ tình nguyện chúng ta được thông báo chuẩn bị chào mừng họ. Chúng ta sẽ hỗ trợ những nơi cần thiết để tạo nên bầu không khí thật thoải mái và dễ chịu.” Bác thở hổn hển như đang cố lấy hơi. “Grace ơi, Colin sắp về rồi.”
BEF là tên viết tắt của British Expeditionary Force - Lực lượng Viễn chinh Anh. Nếu họ đang từ Pháp trở về thì chỉ có thể vì một trong hai khả năng: Pháp đã đánh bại quân Đức, hoặc Pháp thất thủ và quân Anh đang tháo chạy. Từ những báo cáo chính thức lẫn thông tin bên lề mà Grace nghe được, cô nghiêng về lý do thứ hai hơn.
Grace cố che giấu nỗi lo lắng khi nghe tin này. Cảm giác cồn cào sốt ruột mách bảo cô rằng việc BEF trở về chẳng phải dấu hiệu tốt lành. Nếu những người lính phải hồi hương, nghĩa là họ rút lui trước kẻ địch và Hitler đang giành phần thắng.
Nếu đúng như vậy, nước Anh sẽ ra sao?