CHƯƠNG 11
Mối nghi ngờ của Grace nhanh chóng được xác nhận. Một sự thật đau đớn. Điều đáng buồn nhất là người xác nhận nó lại không phải đài BBC hay báo chí mà chính là bác Weatherford.
Đêm đầu tiên tham gia hỗ trợ Hội Phụ nữ tình nguyện đón những người lính từ Dunkirk trở về, bác Weatherford về nhà khá muộn, lúc đó tất cả rèm cửa của mọi nhà đều đã được kéo kín như bưng. Grace rất muốn đi cùng, nhất là trong lần này nhưng theo quy định chỉ có thành viên của Hội mới được phép thực hiện công tác hỗ trợ. Vì vậy, cô đành ngồi chờ ở phòng khách, cuốn sách Pigeon Pie nằm lọt thỏm trong lòng. Nếu như chẳng còn ai mua nữa thì Grace cũng có thể góp phần dọn bớt một quyển trong đống sách tồn kho ế ẩm. Câu chuyện này chắc hẳn rất hài hước, nếu độc giả xem xét đến việc nó được viết trước khi Hitler tấn công nước Pháp.
Chưa từng có tác phẩm nào ra đời sai thời điểm đến vậy.
Cánh cửa phát ra tiếng lách cách báo hiệu bác Weatherford đã về. Grace đứng bật dậy khỏi ghế và chạy ra đằng trước.
Ánh mắt người phụ nữ đăm đăm nhìn xa xăm, hai tay bác lần lên khung cửa rồi thả người tựa hẳn vào trong lúc cởi đôi giày gót thấp.
“Bác Weatherford?” Grace đưa tay đỡ lấy bác. Cô ngạc nhiên vì bác không hề phản đối khi cô ôm lấy cánh tay mềm mại của bác. Thật ra bác gần như bất động.
“Bác Weatherford?” Grace hỏi lại, lớn tiếng hơn một chút. “Có chuyện gì vậy ạ?”
Tuy Grace lên tiếng hỏi nhưng cảm giác căng thẳng đang bóp nghẹt lồng ngực khiến cô không hề muốn nghe câu trả lời.
“Hmm?” Cặp lông mày của bác nhướng lên rất cao.
“Bác gặp những người lính chưa ạ? Của BEF ấy?” Grace không thể kìm được, buột miệng hỏi.
Bác chậm rãi gật đầu. “Rồi.” Bác hít mạnh một hơi, ngẩng đầu lên và lại hướng mắt về phía xa xăm. “Rất… rất… rất…” Bác nuốt khan. “Rất kinh khủng. Trông họ như sắp chết.” Giọng bác run run. “Mắt họ đầy hãi hùng. Ai cũng sức cùng lực kiệt đến nỗi ngủ thiếp đi trong lúc nhai mấy quả trứng luộc và táo mà bọn bác mang đến. Cả đời bác chưa bao giờ nhìn thấy sự thảm bại nào kinh hoàng đến vậy.”
Grace đã lường trước tin xấu này nhưng những chi tiết cụ thể vẫn khiến cô choáng váng. Colin cũng đóng quân ở Pháp, cậu ấy có đến Dunkirk không?
Grace không nói ra nỗi lo lắng đó vì sẽ càng khiến mẹ Colin nóng ruột thêm.
Sau đó, ngày nào bác Weatherford cũng cùng với các chị em tình nguyện viên khác hỗ trợ chăm sóc những người lính viễn chinh quay về London, và đêm nào bác cũng trở về trong trạng thái mệt mỏi mất hết tinh thần.
Trong một vài lần bác ở nhà, điện thoại đổ chuông liên hồi. Những người phụ nữ có chồng con đang làm chung đơn vị với Colin tại Pháp truyền tai nhau nhiều câu chuyện rợn người và bàn ra tán vào những thông tin bên lề đến từ một vài anh lính hồi hương.
Những lời tường thuật vô cùng khủng khiếp - binh lính bị bỏ lại trên bãi biển, không có nơi ẩn nấp hay che chắn trước trận mưa bom bão đạn mà máy bay Đức trút xuống. Một số người cố sức bơi hàng dặm để ra đến thuyền nhưng rồi thuyền bị đánh bom - chiếc phao cứu hộ cuối cùng của họ cũng vỡ tan. Một số người tháo chạy trên đường rút lui mà như ông Stokes miêu tả thì đó là một cuộc tắm máu.
Bất chấp tất cả sự thật rùng rợn đó, bất chấp nỗi hoang mang tột độ, bác Weatherford vẫn bám lấy niềm hi vọng mong manh.
Tuy những người phụ nữ khác vẫn cố gượng gạo vui vẻ nhưng Grace có thể đoán được bác Weatherford đang chịu đựng như thế nào. Ngay chính cô còn không thể ngăn mình tưởng tượng đến cảnh Colin đang oằn mình giữa tình cảnh loạn lạc ấy.
Colin, một chàng trai hiền lành, tử tế, chỉ muốn cưu mang những con vật tội nghiệp, một người có nhân cách vàng. Nếu rơi vào tình cảnh buộc phải lấy mạng ai đó để tự cứu mình, chắc chắn Colin sẽ tình nguyện nhận thay họ viên đạn ấy. Colin không bao giờ bỏ rơi đồng đội khi họ cần cứu giúp.
Chiến tranh không dành cho những tâm hồn tử tế.
Nhất là những người như Colin.
Trên khắp nước Anh, vô số bức điện tín đã được chuyển đến trước cửa nhà, nhắn gửi thông điệp đau thương về những người lính đã tử trận hoặc bị bắt làm tù binh.
Ngày càng có nhiều chuyến tàu đưa các quân nhân trở về thủ đô nhưng tuyệt nhiên không thấy bức điện nào được gửi đến ngôi nhà trên phố Britton. Không có tin tức có lẽ cũng là điều may mắn vì nó càng kéo dài sự mong mỏi của hai bác cháu, đến nỗi chỉ cần một tiếng lộp bộp hay cọt kẹt trong nhà cũng khiến cho Grace và bác Weatherford giật mình.
Phải đến hai ngày sau Thủ tướng Churchill mới xác định được tổng số tổn thất khổng lồ của họ. Hơn 335.000 quân lính được cứu khỏi quân Đức với thương vong dự kiến khoảng 30.000 người, bao gồm trường hợp mất tích, đã chết hoặc bị thương. Một con số hãi hùng đối với tất cả những người mẹ, người vợ, người chị, người em đang nơm nớp trông ngóng tin tức người thân của mình.
Nhưng đâu chỉ có thiệt hại về người. Toàn bộ khí giới đều bị bỏ lại để giành lấy sự sống mong manh. Grace nghĩ đó là sự hi sinh xứng đáng nhưng vẫn quá tốn kém và nguy hiểm.
Đứng trước những con số thê lương như vậy, báo đài vẫn tường thuật sự kiện theo góc nhìn tích cực. Những người dân mang thuyền đánh cá và tàu bè riêng ra khơi, đưa hàng nghìn lính viễn chinh vượt qua eo biển Manche về nước an toàn đều được tung hô như các bậc anh hùng. Một hành động biểu tượng nhằm tuyên bố rằng nước Anh tuyệt đối không khuất phục.
Thủ tướng Churchill truyền đi thông điệp mới. Giọng nói hùng hồn của ông khơi dậy tinh thần quyết tâm mạnh mẽ trong Grace và khiến bác Weatherford gật đầu, rưng rưng nước mắt.
Phải, họ đã thảm bại nhưng họ sẽ kiên cường tiến lên. Khí thế trong lời nói của ông vụt qua London như một tia chớp chói lòa thổi bùng lên sức mạnh.
Những ngày sau đó tiếp tục trôi qua. Vào một buổi chiều tĩnh lặng hiếm hoi, Grace đang ngồi trong phòng khách đọc quyển sách mới nhất, Of Human Bondage (Kiếp người), một câu chuyện cảm động kể về cuộc đời của một người phải trưởng thành dưới mọi nghịch cảnh tàn nhẫn bất công. Cuốn tiểu thuyết đánh thức những tổn thương mà Grace đã chôn sâu tận đáy lòng, nơi mà cô nghĩ rằng tất cả mọi người đều giữ kín cho riêng mình, một nơi rất mong manh, nhạy cảm dù cho người đó có thành công hay mạnh mẽ đến thế nào. Bác Weatherford bất ngờ bước vào phòng khách.
Grace nhìn lên, thấy bác đang mặc bộ quần áo cũ của Colin. Nó đã lấm lem bùn đất sau nhiều lần họ cày cuốc trồng rau củ, “Cháu có thấy găng tay ở đâu không?”
“Nó trong hầm trú ẩn, cả xẻng và bình tưới cũng trong đó.” Đúng ra họ không nên sử dụng hầm trú ẩn làm nhà kho để dụng cụ làm vườn, nhưng việc đặt chúng trên băng ghế bên trong hầm khá thuận tiện, nhất là khi sàn nhà đang bị ngập vì đợt mưa gần đây nên ngay lúc này cũng không thể dùng cho việc gì khác. Chưa kể trong nhà chỉ có hai bác cháu nên nếu chỉ để một ít nông cụ thì hầm vẫn còn khá rộng rãi.
Thỉnh thoảng vẫn có vài tiếng còi báo động không kích vang lên nhưng tất cả đều là vô cớ. Một chiếc máy bay vô hại bị nhầm là máy bay của Đức hoặc đại loại thế. Thậm chí mọi người còn chẳng buồn trốn xuống hầm. Có ích gì đâu.
Grace tung chiếc chăn bông ra, chuẩn bị phụ bác làm vườn. “Để cháu thay đồ rồi ra với bác.”
“Không cần cực vậy đâu, con gái.” Bác Weatherford khoát tay. “Gần đây cháu đã làm nhiều rồi, bác chỉ nhổ cỏ với tưới cây một chút thôi.”
Grace nở nụ cười biết ơn với người bác tốt bụng rồi đắp lại tấm chăn lên chân, rúc mình sâu hơn vào chiếc ghế nệm và tiếp tục đọc sách. Nhưng cô chưa kịp đọc được mấy dòng thì bên ngoài một tiếng thét kinh hãi vọng vào. Trong khu vườn phía sau nhà.
Bác Weatherford.
Grace bật dậy khỏi chiếc ghế đang lùng nhùng trong đống chăn bông, cô suýt vấp phải cuốn sách vừa đánh rơi trong lúc hấp tấp và lao thẳng ra cửa sau nhà bếp.
Lẽ nào quân Đức ập đến?
Có tin đồn rằng nhiều tên lính đã giả dạng làm tu sĩ hoặc cảnh sát, rồi nhảy dù xuống Hà Lan và xả súng thẳng vào người dân. Chúng lợi dụng lòng tin của mọi người làm thứ vũ khí lợi hại nhất. Tuy những tin tức đó do ông Stokes nói ra nhưng Grace không dám liều lĩnh xem thường. Cô dừng lại trong bếp để lấy một con dao to tướng.
Cách luống rau diếp vài bước chân, bác Weatherford đang đứng đó, đôi tay đeo găng co quắp lại trước ngực. Bác nhìn chằm chằm những cây rau với vẻ khiếp sợ.
“Có chuyện gì vậy ạ?” Grace lao đến cạnh bác, chĩa lưỡi dao về phía khu vườn.
Bác Weatherford chậm rãi thở ra một hơi dài, nhắm chặt mắt lại và rùng mình. “Sâu.”
“Sâu?” Grace ngờ vực hỏi lại. Trong đầu cô đã nghĩ đến cảnh bọn Đức quốc xã đổ bộ xuống khu vườn, súng ống lăm le sẵn sàng tàn sát người dân London.
“Bác đang đi xem tại sao rau diếp lại héo…” Bác run rẩy. “Giờ bác đi ngắt lá để trừ sâu bệnh,” người phụ nữ uể oải nói rồi quay lại hầm trú ẩn. Trong hầm, những tờ rơi tuyên truyền cho chiến dịch Canh tác vì chiến thắng được xếp gọn gàng vào một hộp thiếc sơn màu xanh da trời.
Lòng hoang mang sợ hãi, Grace rón rén bước lại cây rau diếp gần nhất, dùng mũi dao nhấc một chiếc lá lên. Những con sâu múp míp, nâu xỉn đang uốn éo cuộn tròn giữa các gốc rau, hệt như cây xúc xích béo ú, trông chúng muốn vỡ bung ra vì quá háu ăn. Một con mập hơn hẳn rơi từ trên lá xuống, rớt bụp lên mặt phẳng của lưỡi dao.
Grace khiếp đảm thở hổn hển và đi giật lùi lại, đánh rơi cả con dao.
Cô thật anh hùng.
Bác Weatherford chui ra khỏi căn hầm với tờ truyền đơn trên tay. “Đây rồi. Chúng gọi là…” bà liếc vào tờ giấy. “Giun đốt. Lạy Chúa, nghe gớm quá.” Mắt bà lướt qua trang giấy. Càng đọc, miệng bà càng chảy dài trên khuôn mặt nhăn nhó vì kinh tởm.
“Nó nói gì ạ?” Grace cố gắng nhìn ké tờ giấy. “Làm sao diệt được chúng?”
Bác Weatherford cau có, “Ta phải cắt đôi, bóp nát hoặc băm nát chúng.”
Hai bác cháu nhìn nhau hoảng hốt và quay về phía luống rau diếp. Con dao đang nằm trước cây rau mà Grace vừa kiểm tra, lưỡi dao lóe sáng dưới ánh nắng mặt trời.
“Hay là chúng ta ăn đậu?” Grace đề nghị.
“Bác chưa bao giờ thích ăn rau diếp cả,” bà Weatherford đáp. “Bác sẽ đi hỏi ông bán hóa phẩm xem có thứ gì diệt được lũ sâu bọ gớm ghiếc đó không. Chúng ta có thể giết hết bọn chúng.”
Ông bán hóa phẩm quả thật có giải pháp. Ông ta đưa cho bác một thứ bột trắng gì đó có thể diệt chết lũ sâu đốt, nhưng ông dặn đi dặn lại rằng phải rửa rau thật kĩ trước khi ăn, tuyệt đối không được để sót lại hóa chất này.
Đến tuần thứ hai của tháng Sáu, Ý nhảy vào cuộc chiến với sự hậu thuẫn của Đức. Nguồn năng lượng vừa tràn về London chưa được dùng đến nay đã tìm được nơi phát huy quyền lực. Một đêm nọ, trong lúc Grace và ông Stokes đang tuần tra trên các con phố tối tăm thì bên kia đường phát ra tiếng bước chân rầm rập, theo sau là âm thanh ẩu đả và tiếng la khóc thảm thiết.
Máu nóng dồn lên đầu khiến Grace chú ý ngay đến cảnh đó. Mắt cô mò mẫm trong bóng tối. Cô lấy chiếc đèn trùm đầu trong túi ra - loại đèn hình quả chuông phát ra thứ ánh sáng mờ mờ. Họ ít khi dùng đến nó vì ông Stokes kiên quyết rằng họ nên cố gắng tập làm quen với bóng tối.
Thật đáng buồn khi quy định tắt điện đã đẩy người dân vào hoàn cảnh cực kì nguy hiểm. Bóng đêm luôn cám dỗ và trở thành đồng lõa với những hành vi cướp giật, hành hung độc ác. Ông Stokes xông lên chắn giữa Grace với âm thanh hỗn độn đó, chờ xem họ có phải ra tay can thiệp bằng quyền hạn khiêm tốn và tiếng còi đanh thép của mình hay không.
Sau một thời gian làm việc cho đội giám sát phòng không, Grace đã học được cách quan sát chuyển động trong bóng tối thông qua những cái bóng mờ mờ phản chiếu dưới ánh trăng. Tuy đêm đó chỉ có chút tia sáng bạc mong manh nhưng cô vẫn nhìn ra hai cảnh sát, một người đàn ông xách vali bên cạnh một người phụ nữ.
Đó không phải vụ cướp mà là một vụ bắt bớ.
Người đàn ông đó nói liến thoáng nhưng không phải bằng tiếng Anh mà nghe như tiếng Ý.
“Chúng tôi không muốn sử dụng vũ lực,” một trong hai cảnh sát tuyên bố bằng giọng lạnh lùng. “Đi theo tôi ngay.”
Người đàn ông quay về phía ông cảnh sát như đang định đi theo họ. Nhưng người phụ nữ vội níu lấy anh, bật khóc nức nở.
“Chuyện gì vậy ạ?” Grace hỏi.
“Không phải việc của chúng ta.” Ông Stokes ra hiệu cô nên đi tiếp.
Grace không đi, “Họ đang vây bắt anh ta sao?”
“Chứ còn gì nữa,” ông Stokes nóng nảy kêu lên. “Chí ít bây giờ phải bắt hết đám đàn ông. Phải lùa hết bọn Ý ra khỏi nước Anh để chúng không thể tuồn thông tin của ta cho Hitler.”
Một tiếng rầm vang lên trên phố, tiếp theo là tiếng loảng xoảng của cửa kính vỡ. Grace và ông Stokes vội lao về phía phát ra âm thanh và nhìn thấy một nhóm hơn hai chục người đang trèo qua ô cửa sổ vỡ vụn của một quán cà phê Ý, chửi rủa thậm tệ những người Ý đã về phe Đức quốc xã.
Một người đàn ông tẩu thoát từ ô cửa sổ vỡ, trên tay vác theo chiếc ghế.
“Cướp.” Grace vừa nói vừa đưa cái còi lên miệng định thổi.
Ông Stokes giữ chặt tay cô và rút chiếc còi ra khỏi miệng Grace. “Trả thù.” Ông bình tĩnh nói.
Cô giật mình nhìn ông bằng ánh mắt sắc bén, và thấy rõ cặp mắt lấp lánh của ông giữa lúc tranh tối tranh sáng. “Xin ông, hãy giúp họ đi.”
“Ý đã đặt cược lòng trung thành của họ,” ông Stokes lạnh nhạt đáp. “Và họ không đứng về phía chúng ta.”
Grace nhìn ông chằm chằm, kinh sợ. “Nhưng đó là người Anh!”
“Chúng là người Ý.” Ông hất đầu cao hơn khi một người đàn ông nữa vác theo một bao gì đó có lẽ là bột mì chạy ra ngoài. “Hầu hết đều có thể là nội gián.”
“Những người chủ tiệm đó đã rất vất vả mới xây dựng được cửa hàng riêng của họ ở London. Họ cũng yêu thành phố này không khác gì chúng ta.” Grace cao giọng phản đối quyết liệt, mặc dù đầu óc cô đang quay cuồng vì cảnh hỗn loạn trước mắt.
“Chúng ta phải ngăn lại.” Cô xăm xăm tiến lên nhưng ông Stokes vội túm lấy cánh tay cô và nhẹ nhàng kéo lại.
“Cô Bennett, thông minh lên đi,” ông rít lên. “Ở đó có đến hơn chục gã đàn ông trong khi cô chỉ là một giám sát viên.”
Grace trừng trừng nhìn ông bằng cặp mắt loang loáng nước. “Chỉ một thôi à?” Cô hỏi.
Ông né tránh cái nhìn của cô.
Một tiếng va chạm khác vang lên trong quán cà phê, tiếp theo là ngọn lửa sáng rực bùng lên dữ dội.
“Dừng lại ngay,” Grace thét lên trong đêm. Đáp lại mệnh lệnh của cô chỉ có tiếng cười hả hê và những lời giễu cợt.
“Hãy nghĩ cho mình đi, bằng không cô sẽ bị coi là ủng hộ bọn Đức đấy,” giọng ông Stokes trầm tĩnh và thận trọng để giúp Grace lấy lại bình tĩnh.
Cô siết chặt tay thành nắm đấm, nước mắt nóng hổi tuôn ra trên má, cô căm phẫn vì sự bất lực đáng thương của chính mình. Grace xô mạnh ông Stokes ra. “Sao ông có thể đứng yên nhìn cảnh đó?” Cô lên tiếng.
“Dập lửa đi,” ông Stokes lạnh lùng, cáu kỉnh ra lệnh cho những người đàn ông. “Nếu không chúng sẽ giội bom cả lũ chúng ta đấy.”
Ông không nhìn Grace thêm một lần nào nữa đến khi ngọn lửa được dập tắt, và một màu đen đáng kinh ngạc đã thế chỗ cho ngọn lửa đỏ rực được đốt lên bằng nỗi căm thù.
Sau ca trực hôm đó, Grace thao thức suốt đêm. Cô không chỉ sốt ruột vì Colin vẫn bặt vô âm tín mà còn đau khổ vì sự vô dụng của bản thân.
Grace tham gia đội giám sát phòng không là để giúp đỡ người dân, vậy mà đêm đó cô chỉ có thể khoanh tay đứng nhìn. Việc không thể ra tay ngăn cản những người đó cướp phá quán cà phê, Grace cũng phải chịu một phần trách nhiệm.
Cô cố gắng vùi đầu vào những trang sách nhưng ngay cả sách cũng không thể giảm bớt gánh nặng trong tâm hồn cô.
Ngày hôm sau, Grace xin nghỉ làm ở hiệu sách. Bác Weatherford vẫn ở nhà vì lính BEF ở Dunkirk ngày càng ít trở về. Niềm hi vọng cũng bắt đầu tắt dần, nhất là khi số người hồi hương từ đơn vị của Colin mỗi lúc một thưa thớt.
Grace dành hầu hết buổi sáng để làm vườn, nhổ cỏ và kiểm tra các luống rau củ. Cây cà chua đã trổ mấy bông hoa màu vàng, còn bông bí bắt đầu kết thành những quả nửa xanh nửa vàng. Grace vốn hi vọng việc chăm sóc cây cối và hít thở không khí trong lành có thể khiến đầu óc mình thanh thản hơn nhưng cô vẫn không thể ngừng chọc ngoáy vào những suy nghĩ tổn thương, khiến chúng rỉ máu và tấy lên nhức nhối.
Sau khi xong việc, Grace cởi găng tay, tháo dép rồi bước vào bếp để rửa sạch bụi đất bám trên tay. Cô vừa rửa xong thì tiếng gõ cửa vang lên, chen giữa tiếng nước chảy ra từ vòi. Máu trong người Grace lạnh đi.
Sẽ chẳng có ai ghé chơi giờ này.
Nếu là thư thì sẽ được nhét vào khe nhận thư ngay trên cửa.
Chẳng có lý do gì để người ta phải gõ cửa, trừ phi…
Grace vẩy nước khỏi các ngón tay và vội vã lau khô. Tiếng mạch đập trên tay cô thình thịch nhưng không đủ lớn để át đi tiếng bước chân ngập ngừng của bác Weatherford đang tiến ra phía cửa. Grace bước ra khỏi bếp và thấy bác đang nhận một thứ nằm trong chiếc phong bì hình chữ nhật màu cam từ tay cậu bé giao hàng.
Một bức điện tín từ bưu điện gửi đến.
Hơi thở dồn dập đau nhói thoát ra từ phổi Grace.
Có một số lý do khiến bác Weatherford không muốn nhận điện tín, trong đó chẳng có lý do nào tốt lành.
Bác bần thần đóng cửa lại, mắt đăm đăm dán vào chiếc phong bì màu cam. Grace rón rén lại gần nhưng bác không hề nhận ra sự có mặt của cô.
Cả hai chờ đợi một lúc lâu, không một tiếng nói hay tiếng thở. Họ đều bị đông cứng lại trong khoảnh khắc lơ lửng có thể thay đổi cả quãng đời còn lại. Lẽ ra Grace nên đề nghị để cô đọc thư, nhưng một sự nhút nhát nào đó đã khiến cô không dám đối diện với tờ giấy bên trong bức điện tín này.
Bác Weatherford hít sâu và chầm chậm thở ra, khiến chiếc phong bì rung lên trong bàn tay nắm chặt run rẩy của bà. Một cảm giác áy náy nhói lên trong Grace, tuy không thể át đi nỗi sợ nhưng đủ để thôi thúc cô hành động. Suy cho cùng, việc để bác Weatherford đối mặt với nhiệm vụ mở thư quả thật quá tàn nhẫn.
Grace lấy hết can đảm và thì thầm đề nghị, “Bác để cháu mở cho nhé?”
Bà Weatherford lắc đầu. “Để bác…” Giọng bác nghẹn lại. “Chúng ta cần phải biết.”
Đôi tay bác run lẩy bẩy nhưng vẫn có thể bật chiếc ghim dưới phần nắp để mở phong bì ra. Khi bác còn chưa kịp nhận ra mình đang làm gì, Grace đã nắm lấy cánh tay của bác và bấu chặt hơn khi những dòng chữ trên bức điện từ từ hiện ra “Chúng tôi vô cùng thương tiếc báo tin…”
Người bác hít một hơi thật mạnh rồi chậm rãi kéo hết phần còn lại của bức điện ra ngoài.
Thông báo được viết trên mảnh giấy màu trắng, tất cả các chữ đều in hoa thật đậm như muốn tuyên bố rằng chúng có sức mạnh thay đổi cuộc đời họ vĩnh viễn.
“Chúng tôi vô cùng thương tiếc báo tin rằng con trai bà, anh Pte Colin Weatherford, hiện được báo cáo là đã hi sinh trong cuộc tấn công tại Dunkirk…”
Cả phong bì và bức điện rơi khỏi tay bác Weatherford, bay lả tả trên sàn nhà. Không quan trọng nữa. Grace không cần đọc thêm bất cứ chữ nào.
Colin hi sinh rồi.
“Con tôi,” người mẹ tội nghiệp rên rỉ. “Con tôi. Con tôi. Thằng con tử tế tốt bụng của tôi.” Bác nhìn đôi tay trống không đang run rẩy như thể không tin được mình vừa cầm lá thư đó.
Cổ họng Grace nóng rát như bị thiêu đốt. Những giọt nước mắt cay đắng khiến cô gần như nghẹt thở.
Nỗi đau mất đi Colin khoét vào lòng Grace một hố sâu vô tận. Giận dữ. Đau buồn. Bất lực. Cơn sóng cảm xúc như nhấn chìm Grace. Colin không nên chết như vậy. Một người phi thường như cậu sao có thể là một trong 30.000 chiến sĩ đã hi sinh đó.
Từ nay Colin sẽ không bao giờ cứu một con vật bị thương nào về nhà, không bao giờ chào đón Grace bằng vẻ mặt bẽn lẽn đỏ bừng nữa. Thế giới tối tăm mịt mù của họ cần có ánh sáng của Colin soi rọi nhưng giờ đây, ánh sáng đó đã vĩnh viễn tắt lịm.
Tiếng khóc xé lòng tràn ngập căn phòng. Bác Weatherford khuỵu xuống, mò mẫm tóm lấy chiếc phong bì rồi vò nát nó trong tay như thể việc đó có thể giữ cho trời đất đừng sụp đổ dưới chân mình.
Trên khắp nước Anh, hàng nghìn phụ nữ khác cũng nhận được những bức điện tương tự. Vài dòng chữ đánh máy lạnh lùng trên giấy đã xé toạc phần mỏng manh nhất trong trái tim họ và để lại hố sâu mất mát không thể chữa lành.
Chưa bao giờ Grace khao khát biết tin của Viv và George như lúc này. Liệu họ có được an toàn giữa hoàn cảnh đau buồn và đầy biến động như vậy không?
Sáng hôm sau chỉ có một mình Grace rời khỏi nhà. Bác Weatherford thì nằm liệt trên giường. Bình thường bác vẫn để những tách trà hong khô trong rây lọc trước khi cô thức dậy, nhưng hôm nay chúng không còn nằm ở đó. Sau khi mang trà lên tầng và cố gắng mời bác Weatherford nhưng không nghe thấy bác trả lời, Grace đặt cái khay nhỏ cạnh cửa phòng với hi vọng nó sẽ giúp bác dễ chịu hơn một chút.
Lẽ ra Grace nên gọi điện cho ông Evans để xin nghỉ nhưng cô không muốn ở nhà để mắc kẹt trong mớ suy nghĩ bế tắc và nỗi buồn đau. Chúng đã giày vò cô suốt đêm qua, khiến ngực cô phừng phừng lửa đốt hệt như quán cà phê Ý từng bị thiêu rụi và nặng trịch vì sự ra đi đột ngột của cậu em Colin đáng thương này.
Grace muốn lấp đầy một ngày của mình bằng những đơn hàng sách mới và những cuộc trò chuyện với khách hàng ở hiệu sách Đồi Primrose. Trời đã ấm lên. Không khí làm khô đôi mắt còn đỏ mọng và sưng húp của Grace, dù cô đã chuốt thêm mascara và dặm dày phấn lên mặt.
Ông Evans đang cúi người xem xét cuốn sổ kế toán. Thấy cô bước vào, ông liền lập tức đứng thẳng lên. Ông hỏi, “Có chuyện gì với cô vậy?”
“Có điện báo.” Đó là tất cả những gì Grace có thể thốt ra.
Miệng ông đông cứng lại. “Colin?” Ông hỏi lại.
Grace gật đầu.
Ông Evans nhắm chặt đôi mắt sau cặp kính một lúc lâu rồi mở ra. “Cậu ấy quá tử tế so với những thứ như cuộc chiến đẫm máu này.”
Cổ họng Grace như mắc nghẹn vì nỗi đau đớn lại trào lên qua nước mắt.
“Về nhà đi, cô Bennett.” Đầu mũi ông ửng đỏ. “Tôi sẽ trả lương tuần sau cho cô.”
Grace lắc đầu mạnh mẽ. “Cháu muốn làm việc. Làm ơn.” Thậm chí Grace có thể nghe được sự van nài tuyệt vọng qua giọng nói của mình.
Ông chủ tiệm chăm chú nhìn cô, chần chừ một lúc lâu và cuối cùng cũng gật đầu. “Nhưng nếu cô muốn về, cứ nói với tôi là được.”
Grace gật đầu, vô cùng biết ơn vì có cơ hội tạm thời thoát khỏi nỗi đau.
Nhưng hóa ra không ai có thể chạy trốn một nỗi đau lớn như vậy. Nó bám chặt Grace như hình với bóng, lượn lờ sau lưng và len lỏi vào suy nghĩ mỗi khi tâm trí cô rảnh rỗi. Nó nhắc cô nhớ đến hình ảnh Colin đang nâng niu chăm sóc những con vật bị thương trong đôi tay to lớn, dịu dàng, hay ô cửa sổ của quán cà phê Ý vỡ tan tành trong buổi tối ẩm ướt đó. Nó còn nhắc đi nhắc lại việc Grace đã vô cùng bất lực và yếu đuối như thế nào khi không thể ngăn cản vụ trừng phạt ấy.
Grace đi vào căn phòng nhỏ phía sau hiệu sách để nghỉ một chút rồi bật khóc. Ông Evans bước vào. Ông khựng lại, nhìn cô gái chằm chằm, đôi mắt mở to đầy bối rối. Grace quay mặt đi, mong sao ông cũng tế nhị tránh mặt như ông từng làm đối với người mẹ trẻ đã khóc nức nở trong cửa tiệm hôm trước.
Nhưng không, ông từ tốn bước lại gần rồi chìa chiếc khăn tay ra trước mặt Grace. Tuy cũng có khăn và đã khóc thấm ướt cái khăn của mình, nhưng cô vẫn nhận lấy và chấm lên mắt. “Cháu xin lỗi…” Cô lên tiếng.
“Đừng xin lỗi vì cảm xúc của bản thân.” Ông tựa vào một chồng sách gần cô nhất. “Đừng bao giờ xin lỗi vì cảm xúc. Cô có muốn… nói về chuyện đó không?” Ông Evans mở đôi tay ra trong một cử chỉ mơ hồ.
Grace lặng lẽ quan sát để xác định mức độ chân thành của ông. Ông nhìn cô không chớp mắt cùng với vẻ mặt thật sự nghiêm túc. Ông đang rất nghiêm túc.
Grace đã định từ chối. Dẫu có nói bao nhiêu đi chăng nữa cũng không thể đưa Colin trở về. Thật ra cô còn không biết nỗi đau đang siết chặt cổ họng mình có chịu giãn ra một chút để cô nói về nó hay không.
Cô chợt nhớ về quán cà phê Ý, về sự câm lặng bất lực của mình và cảm giác tội lỗi bùng lên như ngọn lửa thiêu đốt tâm can. Cô mở lời, “Bác đã bao giờ làm việc gì khiến bản thân cảm thấy hổ thẹn chưa?”
Cặp lông mày rậm rạp của ông nhướng lên như thể ông rất bất ngờ vì không nghĩ Grace sẽ hỏi câu đó. “Rồi,” người chủ tiệm đáp sau một lúc suy nghĩ. “Tôi nghĩ hầu hết ai cũng đã từng.” Ông khoanh tay lại. “Nếu chuyện này liên quan đến Colin, tôi tin cậu ấy sẽ tha thứ cho cô. Cậu ấy là người như vậy.”
Grace lại thấy cổ họng đau rát. Cô nuốt khan và lắc đầu. Rồi không thể ngăn được, cô kể hết cho ông Evans nghe về cái đêm quán cà phê Ý bị đốt, kể tường tận từng chi tiết đã cắn rứt lương tâm và để lại trong cô những vết sẹo không thể xóa mờ.
Trong lúc nghe cô nói, ông vẫn đứng dựa vào tường, hai tay khoanh lại trước ngực một cách thoải mái. Sau khi Grace kể xong, ông từ tốn đứng thẳng người, bê một thùng sách lớn lại gần cái bàn và ngồi lên để có thể gần như ngang bằng với cô.
Đôi mắt người đàn ông trong sáng, sắc sảo và kiên định hơn bao giờ hết, “Cô Bennett, chiến tranh đang diễn ra. Cô chỉ là một cá nhân nhỏ bé. Đúng, đôi khi ta phải chấp nhận rằng quán cà phê bị cướp, nhưng điều đó không có nghĩa là hết hi vọng. Cô không thể cứu cả thế giới này nhưng hãy tiếp tục cố gắng bằng mọi cách mà cô có thể dù chỉ là nhỏ nhất.”
Miệng ông nhếch lên thành một nụ cười hơi ngượng ngùng, “Chẳng hạn như một ông già đi thu thập những cuốn sách bị đốt, bị hủy hoại để bảo vệ những tư tưởng còn sống mãi.” Ông Evans đặt bàn tay già nua lên tay Grace, truyền cho cô hơi ấm đầy an ủi. “Hay một cô gái tìm ra cuốn sách nào đó để giúp người mẹ trẻ quên đi nỗi đau của mình.” Ông buông tay ra và đứng thẳng dậy. “Không quan trọng cô chiến đấu như thế nào, chỉ cần cô không bao giờ ngừng lại.”
Grace gật đầu, “Cháu sẽ không bao giờ dừng lại.” Lòng quyết tâm lan tỏa khắp người khiến Grace rùng mình. “Không bao giờ.”
“Đây mới là cô gái mà tôi biết.” Ông Evans đứng lên khỏi chiếc thùng. “À sẵn tiện, tôi vừa lập được một chiến công nho nhỏ nhờ vào kế sách mà tôi mượn của cô. Có muốn xem không?”
Vì cảm thấy tò mò, Grace bất giác lau sạch mắt để tẩy đi lớp phấn lem nhem rồi theo ông Evans bước ra cửa hàng.
“Có lẽ cô đã thấy nó rồi.” Ông chỉ tay vào chiếc bàn nhỏ với cuốn sách Pigeon Pie đang đặt ở góc phía sau.
Thật ra cho đến lúc này Grace vẫn luôn né tránh cái bàn trưng bày thất bại của bản thân, nhưng bây giờ, những gì bày ra trước mắt khiến cô sửng sốt.
Nơi từng xếp một chồng cả trăm quyển sách ế giờ chỉ còn lèo tèo vài cuốn. Chính giữa bàn đặt một tấm bảng ghi: Được viết khi Chamberlain còn đương nhiệm chức thủ tướng.
Ông Evans cười toe toét, “Kể từ đó nó bán đắt như tôm tươi.”
Grace bất giác bật cười, “Một ý tưởng thiên tài.”
Đôi má nhăn nheo của ông Evans ửng hồng dưới cặp kính khi ông nghiêng đầu, khiêm nhường đáp, “Tôi khá tự hào về nó. Nhưng đây là ý tưởng của cô, tôi chỉ thêm thắt chút tẻ nhạt của mình vào thôi.”
Rồi thời gian cũng thấm thoắt như thoi đưa, cuối cùng họ cũng bán hết những cuốn Pigeon Pie xấu số còn lại và Grace ngày càng thấm thía sâu sắc lời khuyên của ông Evans.
Trong những tuần tiếp theo, nước Pháp hoàn toàn thất thủ. Và điều mà tất cả mọi người khiếp sợ nhất rốt cuộc đã đến: Nước Anh bị ném bom.