← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 12

Máy bay ném bom của Đức đáp xuống Cardiff và Plymouth đầu tiên. Chúng tấn công những bến tàu và châm ngòi nhiều cuộc không chiến với Không quân Hoàng gia Anh. London vẫn tạm thời yên bình nhưng nỗi sợ sẽ trở thành mục tiêu tiếp theo vẫn luôn lơ lửng trong suy nghĩ của tất cả mọi người.

Những bản tin của đài BBC được nghe đi nghe lại và xuất hiện thường trực trong mọi cuộc thảo luận. Người ta nhắc tới nhắc lui những gì đã nghe để phân tích về nguy cơ thành phố của họ bị đánh bom.

Mặc dù không biết George đang đóng quân ở đâu nhưng Grace biết rõ một phi công chiến đấu như anh chắc chắn sẽ phải dấn thân vào nơi nguy hiểm.

Cô đã nhận được một bức thư khác của George. Nó cũng bị người kiểm duyệt cắt nham nhở giống như thư trước, chỉ còn chừa lại phân nửa nội dung nhưng đủ để Grace yên tâm rằng anh vẫn ổn. Thư của Viv chỉ có những tin tức định kì bị bôi bằng mực đen nhưng Grace cũng dễ dàng đoán ra là bạn mình vẫn an toàn, cho dù cô đang hoạt động ở đâu đi nữa.

Nhưng người khiến cô lo lắng nhất lúc này chính là bác Weatherford. Từ khi quen biết mẹ của Colin đến nay, bác vẫn luôn là người hăng hái hành động với sức sống tràn trề. Chưa từng có giải pháp nào mà bác không tìm ra hay vấn đề nào mà bác không giải quyết được.

Vậy mà bây giờ, bác chỉ lặng lẽ lê bước trong nhà với cặp mắt thẫn thờ vô định. Đâu còn một người phụ nữ lạc quan, vui vẻ, sẵn sàng khuyên nhủ tư vấn cho tất cả mọi người - chẳng cần biết họ có cần lời khuyên đó hay không. Bác gầy rộc đi, mái tóc màu muối tiêu xõa xuống khuôn mặt nhợt nhạt. Nhìn bác chẳng còn chút sức sống nào.

Bác Weatherford chẳng thiết tham gia Hội Phụ nữ tình nguyện hay dọn dẹp nhà cửa tinh tươm nữa. Grace chưa bao giờ nghĩ rằng có một ngày, gian phòng khách bị mất luôn chút mùi xà phòng còn sót lại. Rồi khi biết tin trà và bơ thực vật cũng bị thêm vào danh sách thực phẩm hạn chế, bác cũng chẳng buồn reo vui vì đã dự trữ sẵn một đống đồ, mà chỉ gật đầu với vẻ cam chịu.

Tuy nhiên, toàn thành phố London lại đang sôi sục khí thế trước cuộc chiến dường như chắc chắn sẽ oanh tạc trên mảnh đất này. Có lẽ thật lạ lùng khi người ta lại háo hức ra trận ngay sau thảm bại ở Dunkirk, nhưng “cuộc chiến tẻ nhạt” này có vẻ giống một chiếc đồng hồ mới vừa tự động lên dây cót.

Bây giờ, một điều gì đó rốt cuộc cũng đã đến.

Vào một ngày thứ Bảy đầy nắng, cuối cùng Grace đã nỗ lực chuyển xong khu sách thiếu nhi ra phía sau cửa hàng. Ngày càng có nhiều trẻ em bị đưa đi sơ tán lần nữa nên vị trí cửa sổ chính sẽ trở thành nơi đọc sách hấp dẫn nhất dành cho những người lớn còn ở lại quê hương.

Chiều hôm ấy, sau khi rời khỏi tiệm, Grace không về nhà ngay. Cô tắm mình trong ánh nắng chiều rực rỡ và tìm một quán cà phê ngoài trời để nhâm nhi chút trà với bánh mứt. Quy định hạn chế thực phẩm đối với hàng quán được nới lỏng hơn một chút so với người dân, bởi vậy nên trà đậm đà và ngọt hơn, đến cả bơ thực vật cũng được phết phủ gần kín cả chiếc bánh ngọt.

Grace hi vọng nỗ lực giải khuây đó có thể khiến tâm trạng khá lên một chút, nhưng có vẻ điều này vẫn vô ích. Nó chỉ càng khiến cô nhớ da diết những ngày còn có Viv ở cạnh bên, những ngày tràn ngập tiếng cười và đủ mọi câu chuyện phiếm của khu mua sắm Harrods. Nó khiến cô đau buồn khi nghĩ tới bác Weatherford, người chẳng còn chút sức sống nào để tận hưởng một buổi chiều đẹp trời như hôm nay, huống hồ chỉ là những niềm vui khác trong cuộc sống.

Và làm sao Grace có thể vui khi Colin đã ra đi mãi mãi?

Quyết tâm không để nỗi buồn bám lấy mình trong một ngày đẹp trời như vậy, Grace tìm đến công viên King Square Gardens. Những người bán hàng đứng cạnh chiếc xe đẩy được sơn màu bắt mắt để thu hút khách qua lại. Người người nằm ườn trên những chiếc ghế dài hay ghế xếp căng vải bạt, đặt dọc theo thảm cỏ xanh mướt.

Xung quanh công viên là những vạt rau được trồng để hưởng ứng chiến dịch Canh tác vì chiến thắng. Mấy bụi đậu hoa leo thế chỗ cho hoa nhài, và nơi từng có những khóm hoa hồng khoe sắc nay đã thay bằng bắp cải.

Grace ngồi vào một chiếc ghế xếp còn trống, thoải mái ngả đầu ra sau. Lớp vải bố dày dặn được ánh nắng chiếu vào thật ấm áp. Mùi cỏ ngọt ngào quyện với mùi xúc xích thơm phức của người bán hàng gần đó, tiếng bước chân qua lại đều đặn, tiếng thầm thì trò chuyện tan vào hư không. Một bầu không khí thật dịu dàng và êm ái.

Đột nhiên, tiếng còi báo động không kích rền rĩ vang lên, xé toạc sự thanh tĩnh, yên bình.

Grace vẫn nằm yên, cố chịu đựng âm thanh dai dẳng khó chịu đó. Bây giờ nó đã trở thành chuyện bình thường giống như vô số bao cát ngoài kia vậy.

Khi cuộc chiến mới nổ ra, tiếng còi khẩn thiết ấy có thể khiến ruột gan cô rối tung lên nhưng đến lúc này, nó chẳng qua chỉ là một sự phiền toái.

Một vài người miễn cưỡng đứng dậy để tìm chỗ nấp, nhưng thật sự chỉ lác đác mấy người. Hầu hết vẫn bình chân như vại, tận hưởng ánh nắng dễ chịu.

Sau quá nhiều lần báo động giả, còi báo hiệu không kích đã bị xem như lời kêu cứu của cậu bé chăn cừu.

Rốt cuộc, tiếng còi đã ngừng kêu, nhưng Grace cảm giác hình như còn một chiếc máy bay không người lái uể oải bay trên trời, giống như chú ong vò vẽ say mật hoa đang lảo đảo lượn lờ trong không khí. Có vẻ nó phát ra âm thanh ngày càng to hơn, khẩn thiết hơn.

Grace hé một mắt, nheo nheo nhìn lên bầu trời đầy những đám mây trắng như bông.

“Cái gì vậy?” Ai đó bên cạnh cô hỏi, họ đang nghển cổ nhìn lên.

Grace chớp chớp mắt cho đỡ chói. Những chấm màu đen rải rác trên nền trời xanh biếc. Xa xa, một tiếng ầm vọng lại, sau đó là vài tiếng nữa rồi nhiều cột khói đen cuồn cuộn bốc lên từ nơi nào đó trong thành phố.

Phải mất một lúc sững sờ Grace mới nhận ra những đốm đen ấy chính là máy bay. Chúng đang rải bom xuống khu vực hình như là East End.

Mạch máu trong người cô như đông cứng lại bất kể dưới trời nắng nóng, cảm giác râm ran lan khắp cả người khiến những sợi lông nhỏ xíu trên hai cánh tay dựng hết cả lên.

London đang bị ném bom.

Grace đứng bật dậy nhưng mọi chuyển động bỗng rề rà như thể cả người đang bị dìm trong nước. Lẽ ra cô phải chạy, phải hối thúc mọi người xuống hầm trú ẩn gần đó ngay lập tức, phải lấy tên của họ để đảm bảo thông báo cho giám sát phòng không khu vực họ ở. Grace phải làm gì đó.

Bất cứ việc gì.

Suy cho cùng, cô được huấn luyện suốt mấy tháng qua chính là để ứng phó với giây phút này.

Nhưng Grace vẫn chôn chân một chỗ trong lúc tiếng bom vẫn nổ không ngừng. Liên tục. Triền miên.

Một bàn tay vỗ lên vai Grace. “Cô gái, cô nên tìm chỗ trốn đi.” Người đó nói.

Grace gật đầu nhưng không buồn nhìn lên người vừa nói. Cô làm sao có thể đi được khi không thể rời mắt khỏi cảnh tượng rải bom hãi hùng này?

Một người phụ nữ gần đó thét lên đầy hoảng loạn. Ngay lập tức, Grace tìm lại được cảm giác trên đôi chân của mình nhưng cô không chạy đến hầm trú ẩn. Bác Weatherford đang ở nhà, rất có thể bác cũng phớt lờ còi cảnh báo như tất cả bọn họ ban nãy.

Một giám sát viên phòng không đi khập khiễng đang hướng dẫn mọi người đến hầm trú ẩn gần nhất. Chắc hẳn vì bị tật ở chân nên ông không phải đi lính. Ông quay sang Grace, đôi mắt mở to trên khuôn mặt xanh xao, ra hiệu cô nên đi theo ngay lập tức.

Grace lắc đầu, “Tôi sẽ chạy về nhà, vài phút thôi. Chúng tôi có hầm trú ẩn rồi.”

Ông nhìn lướt về phía đám máy bay vẫn đang oanh tạc tàn nhẫn vào khu East End rồi im lặng quay đi như ngầm đồng ý. Grace không để phí thêm một giây nào, cô ba chân bốn cẳng chạy về hướng phố Britton gần đó.

Khi cô về đến nơi, bầu trời xám xịt đã chuyển sang màu đỏ cam giận dữ, như thể một phần London đã biến thành chốn địa ngục đang rung chuyển. Grace xô cửa vào nhà, thất thanh gọi tên bác Weatherford.

Cô bước luôn qua chồng thư đặt ngay ngưỡng cửa, không buồn nhặt nó lên để xếp vào núi thư ngày càng cao trên bàn như thường lệ.

Grace nhìn thấy ngay đôi chân bác Weatherford sau bức tường phòng khách, có lẽ bác đang ngồi trên ghế Morris.

“London bị đánh bom rồi.” Grace chạy đến bên cạnh người bạn của mẹ mình, cố gắng không để lộ sự sợ hãi qua giọng nói. “Chúng ta phải xuống hầm ngay.”

Nhưng bác Weatherford không chịu nhấc người lên, bà muốn ngồi yên một chỗ, ánh mắt trống rỗng nhìn xa xăm đầy chán nản. Sau vài lần nỗ lực đưa bà đến nơi trú ẩn nhưng bất thành, Grace đành để bác ngồi trong phòng khách, còn cô chạy ra trước thềm nhà để quan sát tình hình của máy bay Đức. Nếu chúng kéo lại gần hơn, bằng mọi giá cô sẽ phải đưa bác Weatherford xuống hầm, cho dù có phải kéo bà đi chăng nữa.

Nhưng những chiếc máy bay đã không tiến lại. Giống như Grace, người dân ở phố Britton đều đổ ra đứng trước cửa nhà, im lặng quan sát máy bay địch tiếp tục cuộc không kích triền miên trên bầu trời rực lửa.

Chứng kiến cảnh đó, Grace không thể không nghĩ đến những người khác. Liệu cư dân ở đó đã kịp trốn xuống hầm như những người London hay chưa? Và liệu những căn hầm đó có đủ sức bảo vệ họ an toàn dưới cuộc công kích tàn bạo như thế?

Bao nhiêu người đã thiệt mạng?

Cô rùng mình khi nghĩ đến con số thương vong.

Sau một lúc lâu, tiếng bom rơi ầm ầm cuối cùng cũng ngừng lại, tình huống nguy hiểm đã qua đi. Grace quay người bước vào nhà và nhìn thấy bà Nesbitt đang đứng bất động trên chiếc cầu thang nhà kế bên. Bà ta nhướng mày nhìn Grace, “Đó, có thế thôi, tôi biết mà.”

Cô không nói gì, tiếp tục bước vào trong nhà. Bác Weatherford vẫn ngồi yên trên chiếc ghế Morris ban nãy.

Đêm đó, Grace không có ca trực ở đội giám sát không kích, cô chỉ đi tuần ba buổi một tuần. Nhưng cô còn chưa kịp chuẩn bị đi ngủ thì còi báo động một lần nữa lại vang lên.

Nỗi khiếp sợ trỗi dậy khắp người Grace. Lần này cô không cho phép bác Weatherford bướng bỉnh nữa. Sau khi mở tung hết cửa sổ, ngắt điện và xả đầy nước tất cả các bồn chứa, cô buộc bác phải xuống chỗ trú ẩn. Trong bóng tối nhập nhoạng, hai bác cháu lụp chụp vấp ngã mấy lần, đụng đổ các xô chậu và dụng cụ làm vườn trên đường đi đến hầm.

Hầm trú ẩn bốc lên mùi kim loại ướt, mùi đất và đồ phế thải. Nó giống cái nhà kho hơn là nơi để tạm trú trong một khoảng thời gian. Tiếng còi báo động đứt quãng, xen giữa là các khoảng im lặng. Đó là sự yên lặng đầy triển vọng và được trông mong sau tất cả những gì London đã gánh chịu trong ngày hôm ấy. Mọi thớ cơ trên người Grace vẫn căng như dây đàn, và cả làn da như cũng bị kéo căng hết mức.

Cô đánh một que diêm và thắp sáng ngọn nến đã mang theo cùng với mặt nạ phòng độc. Ngọn lửa tí hon bập bùng thắp sáng cả căn hầm chật chội không khác nào đèn điện. Từ đằng xa vọng lại tiếng động cơ quen thuộc của những chiếc máy bay không người lái. Âm thanh nhấn nhá đáng sợ của chúng còn được khung kim loại khuếch đại lên, khiến lồng ngực Grace thật sự run lên bần bật.

Những tiếng đì đùng lại vang lên chứng tỏ càng nhiều bom đang giội xuống. Tất cả những điều Grace có thể làm là cố gắng không khiếp sợ mỗi lần nghe một tiếng “ầm” từ xa dội lại.

“Cháu có nghĩ đây là những âm thanh cuối cùng mà Colin nghe thấy không?” Bác Weatherford trầm ngâm, đăm chiêu nhìn ngọn nến đang cháy. “Cháu có nghĩ nó cũng rất sợ hãi không?”

“Cháu nghĩ em ấy rất can đảm.” Grace tự tin đáp. “Chúng ta đều hiểu Colin, có lẽ em ấy đã cố gắng cứu giúp ai đó.”

“Bác biết chứ.” Người mẹ tội nghiệp gật đầu, đôi mắt bà ngân ngấn nước. “Chính bác đã giết nó, không khác gì bọn Đức.” Bà sụt sùi. “Bác đã để nó trở thành người quá tốt bụng, quá dịu dàng. Đáng ra bác không nên cho phép nó… nhạy cảm như vậy.”

Grace đang ngồi tựa vào bức tường kim loại nhấp nhô. Cô đứng dậy, “Như vậy bác sẽ ép Colin trở thành một con người khác, không phải là chính bản thân em ấy.”

“Đúng,” bác Weatherford gay gắt. “Nhưng nó sẽ sống sót.”

“Nhưng sẽ không phải người con trai mà chúng ta rất mực yêu quý.”

“Bác biết.” Người phụ nữ đáng thương úp mặt vào hai tay và bắt đầu thổn thức. “Bác biết chứ.”

“Bác Weatherford, bác đã nuôi dạy Colin rất sáng suốt.” Grace chuyển sang chiếc ghế đối diện, dịu dàng xoa xoa đôi vai của người bác đang đau buồn vì mất đi đứa con trai ngoan ngoãn khi nó còn quá trẻ. “Bác đã để Colin tự do trở thành người mà cậu ấy muốn trở thành, bác luôn ủng hộ và yêu thương cậu ấy. Colin sẽ không bao giờ tìm được tình thương nào giống như thế cả.”

Grace ngừng lại, cô biết rằng những lời mình sắp nói sẽ gây đau lòng nhưng dù thế nào đi nữa cô vẫn phải nói ra. “Và bác biết cậu ấy sẽ không muốn nhìn thấy bác như thế này.”

Bác Weatherford cúi đầu.

Họ không nói gì với nhau suốt thời gian còn lại của buổi tối. Cuối cùng, Grace trở lại chỗ ngồi ở phía đối diện. Bằng cách nào đó, cô cũng có thể chìm vào giấc ngủ mặc kệ tiếng bom đằng xa vọng lại. Đầu Grace ngoẹo sang một bên và cả người tê rần rần vì ép vào bề mặt cứng. Sáng sớm hôm sau, tiếng còi báo hiệu an toàn khiến cô giật mình thức giấc trên băng ghế chật chội.

“Chúng không đến gần đây.” Bác Weatherford khó nhọc đứng dậy, một tay ấn vào lưng dưới. “Để bác đi đun ấm nước.”

Grace thu dọn giá nến, bên trong có một vũng sáp nóng chảy và sợi bấc đã cháy hết đen thui. Cô khập khiễng rời khỏi hầm và cũng đi vào nhà bếp, nhưng không thiết đến trà nước. Cả người Grace đang khó chịu vì cả đêm nằm cong vẹo, hai mắt nặng trịch vì mệt mỏi. Chưa bao giờ cô cảm thấy biết ơn khi được nghỉ làm ở hiệu sách đến vậy.

Grace thức dậy lần nữa nhờ một mùi quen thuộc như mùi hắc ín. Hương xà phòng ngày càng nồng hơn khi cô mở cửa phòng ngủ và bước xuống những bậc cầu thang sáng bóng. Dưới nhà, bác Weatherford chào cô bằng một nụ cười buồn đầy áy náy. Bác mặc một chiếc váy tối màu, không đeo trang sức hay phấn son nhưng mái tóc muối tiêu đã được búi lại gọn gàng.

“Cảm ơn cháu vì những lời cháu nói tối qua.” Bác ngượng ngùng đưa tay vuốt lại tóc mình. “Cháu nói đúng, Colin sẽ không muốn bác rầu rĩ như vậy. Bác phải sống.” Bà nuốt khan. “Vì thằng bé.”

Grace ôm lấy bác Weatherford thật chặt. “Chúng ta đều sẽ sống.”

Bác gật đầu trên vai cô. Họ dành cả ngày hôm đó để dọn dẹp nhà cửa và chăm chút cho khu vườn lúc này đã lên xanh nào đậu, nào dưa chuột, nào cà chua lẫn ớt.

Sau những trận oanh tạc, một đám mây u ám trùm lên cả vùng East End trong hình hài tấm vải liệm bọc lấy thi thể các nạn nhân.

Trưa ngày hôm đó lại xảy ra một cuộc không kích nữa, kéo dài gần ba tiếng đồng hồ. Chỉ riêng lần này, ngoài tiếng ồn của máy bay còn có tiếng đì đùng phản kích của súng phòng không.

Những lời đồn đại trong khu phố còn ầm ĩ hơn cả tiếng động cơ của máy bay từ xa vang lại. Người ta truyền tai nhau rằng hàng trăm người đã thiệt mạng trong cuộc tấn công ở East End. Nhiều người mất hết nhà cửa và đám cháy từ đêm qua vẫn chưa thể kiểm soát.

Grace chăm chú lắng nghe mỗi một mẩu tin, chắp nối chúng trong tâm trí như may một tấm chăn bông đáng sợ để hình dung được toàn bộ câu chuyện. Nhưng bất kể đã nghe ngóng bao nhiêu, bất kể tin tức được lặp đi lặp lại rất nhiều lần, cô vẫn sốt ruột muốn biết nhiều hơn. Grace không phải là người duy nhất khao khát thông tin. Tất cả các radio ở London đều dò sóng đài phát thanh, và tất cả quầy báo chẳng mấy chốc đã bán hết sạch.

Tối hôm đó, Grace có lịch trực giám sát phòng không với ông Stokes, thời gian bắt đầu từ 7 giờ 30 phút và kết thúc vào 8 giờ sáng ngày hôm sau. Tuy chỉ có ba ngày một tuần và ông Evans đã cho phép cô đi làm trễ sau ca trực nhưng Grace vẫn thường rất mệt mỏi.

Tuy nhiên đêm nay, cô đã sức cùng lực kiệt. Đầu óc và mí mắt nặng trịch như đeo đá. Nhưng dù thế nào đi nữa, Grace bắt buộc phải tỉnh táo trong ca trực. Sau vụ tấn công đã xảy ra ở East End, đây là một trong những đêm quan trọng nhất cần phải giám sát việc tắt điện thật nghiêm ngặt.

“Lửa vẫn cháy,” ông Stokes nói qua hơi thở rồi nheo mắt nhìn về đằng xa, nơi quầng sáng đỏ ẩn hiện nhấp nháy. “Tôi có người bạn làm trong đội Hỗ trợ Cứu hỏa gần đó, anh ta nói cảnh tượng không khác gì địa ngục.”

Grace không cảm thấy ganh tị với những thành viên trong đội Hỗ trợ Cứu hỏa khi họ đang nhận một nhiệm vụ phi thường là dập tắt ngọn lửa điên cuồng này.

Cô nhìn theo ánh mắt của ông. “Cháu không thể tưởng tượng nổi nó khủng khiếp đến mức nào.”

“Rất kinh khủng,” ông Stokes đáp, “Harry bảo có hàng trăm người chết, nhiều người bị bom nổ tan xác, quần áo của họ đều bị cháy sạch.”

Grace ngừng bước, cô không thể tin nổi mọi chuyện lại tàn khốc đến vậy.

“Các mảnh thi thể la liệt khắp đường phố.” Ông Stokes dang tay quét qua không khí. “Họ phải liên tục dừng lại để dọn sạch những thi thể đó thì mới có thể lái xe đi tiếp.”

Trước giờ ông Stokes vẫn luôn nói quá những tình tiết bạo lực nhưng trong trường hợp này, Grace nghĩ ông không hề phóng đại. Mặc dù chưa bao giờ lên tiếng phàn nàn nhưng việc ông thường nhiệt tình chú ý vào những sự kiện man rợ khiến Grace cảm thấy rợn người.

Không để ý đến thái độ im lặng của cô, ông tiếp tục thao thao, “Một căn hầm bị đánh bom. Trên đường Columbia. Quả bom rơi thẳng xuống ống thông gió và…” Ông chậm rãi dang hai tay ra và mô phỏng tiếng nổ ầm ầm, “Toàn bộ các gia đình ở đó chết ngay tại chỗ.”

“Bác Stokes,” giọng Grace sắc lạnh. “Làm sao một cựu chiến binh như bác lại có thể bình thản nói về cái chết sau những gì bác đã tận mắt chứng kiến như vậy?”

Ông cau có và lắc đầu, “Tôi chẳng phải cựu chiến binh gì sất. Họ không cho tôi tham gia vào cuộc Chiến tranh Thế giới thứ Nhất.” Người giám sát phòng không nhún đôi vai, bộ ria mép của ông giật giật, “Họ bảo tôi bị yếu tim.”

Yếu tim?

Nếu họ chịu khó tìm hiểu kĩ hơn, Grace tin chắc họ sẽ phát hiện ra tim ông bác ấy chẳng yếu chút nào.

Một tiếng rền rĩ chói tai xé ngang không khí, âm thanh báo hiệu một đợt oanh tạc khác sắp ập đến. Máu trong người Grace lạnh đi vì kinh hãi.

Trong trận giội bom đêm qua, cô đã rút vào hầm trú ẩn an toàn. Nhưng người giám sát phòng không thì không thể chỉ lo cho an nguy của bản thân trong khi còn rất nhiều người cần được họ bảo vệ.

Không, họ phải tuần tra hết khu vực đã được phân công, phải dò tìm bom và mọi thiệt hại để kịp thời sơ cứu những người bị thương, họ phải hỗ trợ xác định danh tính các nạn nhân đã tử vong.

Grace sẽ phải phơi mình trên phố, thậm chí còn không được tấm mái nhôm mỏng manh của căn hầm trú ẩn che chắn.

Quá sức nguy hiểm.

“Đi ngay thôi, đừng nói với tôi là cô đang sợ đấy nhé.” Ông Stokes vỗ vai Grace.

Cô ném vào ông cái nhìn trừng trừng nhưng nó chẳng hề khiến ông áy náy. Ngược lại ông còn lắc đầu cười to. “Bởi vậy tôi đã nói không nên cho phụ nữ tham gia một công việc tình nguyện rõ ràng là dành cho đàn ông.”

Grace giận đến lặng người vì câu nói xúc phạm đó và định đáp trả bằng một câu đanh thép, nhưng ông Stokes đã hối hả hòa vào dòng người đang đổ xô tháo chạy ra khỏi nhà. Ông vẫy vẫy tay như một người phân luồng giao thông, hướng dẫn đám đông hoảng loạn của khu Islington đi đến hầm trú ẩn đã chỉ định của họ.

Grace nghiến răng nhớ lại những gì đã được huấn luyện. Cô đã biết phải nói gì, phải làm gì. Cô không thể để cho bọn Đức quốc xã khống chế mình.

Tiếng còi báo động đứt quãng. Người người nhốn nháo đặt ra vô số câu hỏi dồn dập cùng một lúc. Họ sẽ đi đâu? Cuộc không kích kéo dài bao lâu? Có lâu như đêm qua không?

Họ có bị ném bom không?

Cả Grace lẫn ông Stokes đều không thể trả lời được bất kì câu hỏi nào. Nhưng có điều gì đó trên những gương mặt nơm nớp lo âu và trong những giọng nói run rẩy hoảng sợ ấy đã nhắc nhở Grace về lý do cô có mặt ở đây. Cô đến đây là để giúp đỡ mọi người trong lúc họ cần, để làm gương về tinh thần bình tĩnh khi ai nấy đều hoảng loạn.

Nghĩ đến đó, Grace liền khẩn trương phối hợp với ông Stokes hướng dẫn mọi người. Bằng giọng nói điềm đạm, cô vừa chỉ dẫn một cách bài bản vừa tận tình hỗ trợ. Grace dẫn người dân vào tận hầm, số lượng người đông hơn nhiều so với bất kì cuộc oanh tạc nào từng xảy ra.

Khi mọi người đã vào hết khu hầm trú ẩn bằng gạch với những bao cát vây quanh, Grace tiến hành ghi lại tên tuổi của họ. Cô nhận ra được tất cả nhờ vào bảng phân công đi tuần hằng đêm có ghi số nhà của ông Stokes. Lúc này, Grace mới thấy việc cô có thể xác định địa chỉ của từng người, biết rõ ai đang sống ở đâu, ai đã vào hầm trú ẩn an toàn có ý nghĩa quan trọng như thế nào. Âm thanh của những chiếc máy bay không người lái khiến cô giật mình chú ý, nó dội vào tai và khiến sống lưng cô ớn lạnh.

Tiếng ồn mỗi lúc một to hơn, và gần hơn.

Ông Stokes liếc nhanh ra phía sau lưng họ và đóng sập cửa hầm lại. Grace cũng nhìn về hướng đó, cô cố tìm kiếm trong bóng tối một cái gì đó, bất cứ cái gì để xác định vị trí của những chiếc máy bay lân cận.

Những chùm tia sáng như hàng loạt mũi giáo đâm xuyên qua bầu trời đêm khi các khẩu súng phòng không lùng sục mục tiêu cần bắn hạ. Chùm sáng soi thẳng vào những đám mây đen dày đặc. Lúc ở công viên, Grace chỉ nhìn thấy đám máy bay lượn lờ đằng xa, nhưng bây giờ trông chúng đồ sộ hơn, gần hơn rất nhiều. Chúng y hệt những con chim khổng lồ đen sì bị xiên ngay giữa cây giáo bằng ánh sáng.

Một chiếc máy bay Đức.

Tuy không phải ngay trên đầu họ nhưng cũng đủ gần để khiến tóc gáy cô dựng hết lên.

Không một giây chần chừ, một khẩu súng phòng không ra tay ngay lập tức, tiếng bắn đinh tai của nó như xuyên thẳng vào xương Grace.

Một vật thể thuôn dài, đen sì trượt ra khỏi đáy máy bay và lao thẳng xuống dưới. Bom.

Grace và ông Stokes đứng chết trân nhìn nó lao về phía mục tiêu. Tiếng không khí rít lên trên đường quả bom rơi xuống, và một tích tắc im lặng, nhanh đến mức người ta chỉ kịp chớp mắt. Rồi ánh sáng lóe lên. Một tiếng nổ kinh thiên động địa làm rung chuyển mặt đất dưới chân họ. Làn khói bốc lên mù mịt giữa ánh lửa đỏ rực.

Như vậy tức là ngôi nhà của ai đó đã mất. Một gia đình nào đó có thể đã bỏ mạng.

Chứng kiến thảm kịch xảy ra ngay tại thành phố của mình, đối với những người có thể mình quen biết, Grace cảm giác như bị một con dao đâm thẳng vào ngực. Nhưng cô không thể nhu nhược đứng yên trước cảnh tượng tàn khốc này. Cô có nhiệm vụ phải làm.

Rất khó để xác định vị trí họ đang đứng trong trường hợp trái bom rơi trúng ngay khu vực này. Nỗi hồi hộp lẫn sợ hãi thiêu đốt khắp người. Grace lao qua con đường vắng tanh đang được thắp sáng bằng ánh lửa gần đó cũng như những ngọn lửa vừa được đốt lại ở khu East End. Rõ ràng nơi đó đang oằn mình hứng chịu một đợt tấn công nữa.

Khi Grace rẽ vào các dãy phố mà cô chịu trách nhiệm giám sát, những âm thanh chiến tranh ngày càng dữ dội. Chỉ có lần này, tiếng bom rơi riết róng và tiếng nổ long trời lở đất đã hoàn toàn át hẳn tiếng máy bay ầm ầm. Tiếng súng phòng không triền miên đối chọi với tiếng va chạm của lực lượng Không quân Hoàng gia quyết chiến không kích với Đức. Khi tình hình tạm lắng xuống, âm thanh còi the thé của xe cứu hỏa lao về hướng một trong những đám cháy đang hoành hành khắp London.

Grace vừa chạy vừa thở dồn dập, đôi chân cô lao đi như muốn tách rời khỏi cơ thể để chạy một mình. Bàn chân cô giẫm lạo xạo trên mặt đường rải rác hàng triệu mảnh thủy tinh vỡ vụn, tựa như những viên ngọc lấp lánh trong ánh lửa đỏ rực của địa ngục London. Tất cả cửa sổ của các ngôi nhà nằm bên trái con phố đều bị vỡ tung, những tấm rèm tả tơi buông thõng xuống như mái tóc đen xơ xác, và mọi cánh cửa đều bị bật khỏi bản lề.

Những lớp băng keo được dán cẩn thận trên từng ô cửa kính rõ ràng chẳng giúp ích được gì.

“Cô Bennett, chậm chậm thôi.” Ông Stokes đi bên cạnh cô, thở hổn hển. “Đừng quên là tôi bị yếu tim đấy.”

Nhưng Grace không hề giảm tốc độ. Những người đang hấp hối sẽ chẳng đếm xỉa đến trái tim của ông bác đâu. Cô vòng qua góc đường và đột ngột dừng lại.

Trước mắt Grace là một khoảng trống hoác khổng lồ nằm giữa dãy nhà gọn gàng, đằng sau lửa vẫn cháy. Đây chắc hẳn là đống đổ nát của một ngôi nhà, trong đó, lửa hãy còn âm ỉ.

Khu vực của họ bị đánh bom. Bây giờ, nhiệm vụ của một giám sát phòng không như Grace mới thật sự bắt đầu.