← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 13

Grace dừng lại đột ngột trước ngôi nhà bị ném bom nằm trên đường Clerkenwell. Các cơ và bắp chân cô giật giật vì vừa cố chạy nhanh hết sức. Địa chỉ nhà đã bị xóa sạch trong đống đổ nát nhưng dựa vào hai nhà kế bên, Grace vẫn xác định được con số bị mất. Cô đã thuộc nằm lòng số nhà và tên của các cư dân vì tuần nào ông Stokes cũng đều đặn nhắc lại trong cả ba phiên trực.

Ông bà Hews là một cặp vợ chồng già sống trong ngôi nhà đó từ khi họ cưới nhau, tính đến nay đã ngót nghét năm chục năm. Ông Stokes thường kể bà Hews rất thích ăn sôcôla và lúc nào cũng mang theo một phong kẹo để cho ông hồi ông còn bé.

Ông Stokes chậm rãi bước đến cạnh Grace. “Bà Hews,” ông thầm thì, nghiêm mặt lại khi quan sát đống hoang tàn.

“Họ đã vào hầm trú ẩn.” Grace nhớ lại những cái tên trong danh sách mà cô đã điểm danh khi mọi người đi qua cửa hầm. “Bác Stokes, họ an toàn rồi.”

“Tốt.” Ông gật gù. “Thế tốt rồi.”

Hai người bắt đầu dọn dẹp, dùng bơm cứu hỏa xách tay dập tắt những đám lửa nhỏ đang cháy bập bùng giữa đống đổ nát rồi tiếp tục xem xét phần còn lại của khu vực. Mặc dù chẳng còn ai kẹt lại trong phạm vi tuần tra của Grace và ông Stokes, nhưng càng về khuya bom càng rơi dữ dội. Phần lớn thời gian đêm đó họ dành để quét sạch những mảnh kính cửa sổ vỡ bắn tung tóe khắp các con đường xung quanh, sau đó họ còn phải đuổi những kẻ cơ hội đến vơ vét tài sản của ông bà Hews nữa.

Ông Stokes muốn chờ đôi vợ chồng già trở về khi nguy hiểm đã qua đi. Ông nghĩ rằng tốt nhất mình nên đích thân chia sẻ tin buồn với họ. Thật khó lòng đối diện với mất mát như vậy. Suy cho cùng, ngôi nhà chính là niềm tự hào đối với mỗi người phụ nữ. Bà Hews đã dành cả cuộc đời để chăm chút cho ngôi nhà nhỏ tuyệt đẹp này, nơi có những khóm bắp cải tím được trồng thay thế vào các chậu từng một thời rực rỡ hoa phong lữ.

Nhưng khi mọi chuyện tạm yên ổn, không chỉ có Grace và ông Stokes ở lại để giúp ông bà Hews đào bới đống gạch vụn đầy bụi bặm, những mong cứu được thứ gì hay thứ đó. Mà còn có cả cư dân của cả dãy phố cùng với nhiều người từ các con đường khác cũng xúm lại phụ giúp một tay. Họ mặc kệ cửa sổ nhà mình bị vỡ hay cửa lớn bị bung bản lề mà sốt sắng giúp đỡ những người đang phải gánh chịu nỗi đau khổ lớn hơn họ. Một cộng đồng xích lại gần nhau bởi sự mất mát.

Vài người bạn thân của ông bà Hews nhặt nhạnh chút tài sản ít ỏi và bảo quản giúp họ, còn Grace đưa đôi vợ chồng già vẫn chưa hết bàng hoàng đến trung tâm an dưỡng địa phương nương náu ít lâu trong thời gian chờ tìm một ngôi nhà mới. Sau khi kết thúc ca trực, Grace trở về phố Britton trong tình trạng kiệt sức. Hai chân cô không còn chút sức lực và loạng choạng níu vào nhau. Grace mặc nguyên bộ quần áo bẩn trên người, đổ ập xuống giường và ngủ ngay lập tức cho đến khi có thể thức dậy để chuẩn bị cho ca làm ở hiệu sách.

Việc tắm rửa quả là có tác dụng diệu kì. Khi Grace bước vào cửa tiệm Đồi Primrose, cô không còn mệt lả người như lúc mới về nhà nữa. Nhưng ông Evans vẫn cau mày khi thấy Grace đến.

“Cô đã ngủ đủ chưa?” Ông đặt cây bút chì ngay ngắn dọc theo đường nối của cuốn sổ cái.

“Làm gì có ai ngủ đủ đâu ạ?” Grace mỉm cười.

Ông Evans đưa tay khoanh trước ngực. Chính sách hạn chế lương thực đã “cắt xén” bớt thân hình mập mạp của ông Evans khiến chiếc áo thun nâu ông đang mặc trở nên rộng thùng thình. “Tôi nghe nói nhà ông bà Hews trên đường Clerkenwell bị đánh bom. Cô có ở đó không?”

“Sau đó cháu mới đến ạ.” Giọng nói nghiêm khắc của ông khiến Grace cảm giác mình giống như một đứa trẻ sắp bị la rầy.

“Có thể cô đã ở đó ngay khi xảy ra tấn công.” Hai hàng lông mày trắng của ông xích lại gần nhau. “Cô sẽ ra sao nếu ở gần ngay chỗ bom rơi hả?”

Grace ngập ngừng. Thật sự cô chưa hề nghĩ đến điều đó. Dù sao đi nữa thì East End dường như mới là mục tiêu của quân Đức nên nguy cơ Grace bị trúng bom có vẻ thấp đến nỗi không cần phải nghiêm túc cân nhắc.

“Tôi không thích như vậy đâu, cô Bennett.” Mặt ông Evans đỏ bừng lên. “Tôi nghĩ cô nên xin nghỉ ở đội giám sát không kích đi.”

Tiếng chuông bất ngờ vang lên, một khách hàng bước vào hiệu sách. Grace liếc qua vai và nhận ra người phụ nữ mới đến là khách quen của họ và hiếm khi cần nhân viên hỗ trợ.

“Lúc này đội đang cần cháu hơn bao giờ hết,” cô trầm giọng đáp.

“Hiệu sách này cũng thế.” Ông Evans giật lấy cuốn sổ cái, khiến cây bút chì bay ra khỏi gáy sổ, rồi ông sải bước ra phía sau cửa hàng mà không nói thêm lời nào.

Nỗi tuyệt vọng tràn ngập khắp người Grace, cộng thêm cảm giác mỏi mệt như lớp sương mù dày đặc bao quanh tâm trí. Rõ ràng ông Evans đang lo lắng nếu cô quá tập trung vào nhiệm vụ ở đội phòng không thì sẽ sao nhãng công việc ở tiệm sách.

Grace quyết tâm chứng minh cho ông thấy rằng ông đã nghĩ sai.

Đến khi cửa hiệu chuẩn bị đóng cửa vào tối hôm đó, cô đã thiết kế xong một số câu khẩu hiệu quảng cáo mới và có vài câu đã được in ngay ngắn trên giấy dán tường. Hãy thắp sáng hầm trú ẩn của bạn bằng một cuốn sách mới và Hãy để sách đồng hành cùng bạn vượt qua mọi cuộc không kích. Ý tưởng không thật sự xuất sắc nhưng ít ra đó là sự khởi đầu.

Tuy vậy, ông Evans chẳng hề nói với cô quá hai từ và chỉ ậm ừ lấy lệ khi nhìn thấy những câu quảng cáo mới.

Grace không có nhiều thời gian để lo lắng về thái độ lạnh lùng của ông chủ tiệm vì vừa về đến nhà, cô đã nhanh chóng chìm vào giấc ngủ. Đến khoảng 8 giờ tối, cô bị đánh thức một cách thô bạo khi tiếng còi báo hiệu không kích vang lên khẩn thiết. Grace lếch thếch chui xuống hầm trú ẩn cùng với bác Weatherford. Ở trong hầm, cơn buồn ngủ lại trốn biệt mặc dù Grace hết sức thèm ngủ.

Giống như đêm hôm trước khi Grace và ông Stokes hướng dẫn mọi người trong khu vực tuần tra đi đến nơi tránh bom an toàn, cuộc oanh tạc lần này cũng kéo dài cả đêm. Chỉ có điều bây giờ, cô đang bị nhốt trong cái kén tối tăm của căn hầm trú ẩn. Tuy không thể nhìn thấy chuyện gì đang diễn ra nhưng Grace vẫn nghe được mọi âm thanh gần xa vọng lại.

Tiếng súng nổ “pằng pằng” làm rung chuyển khung thép và tiếng bom nổ rất gần. Toàn bộ căn hầm rung lắc mạnh như thể sắp sập xuống. Thậm chí có lúc nó như bị nhấc lên khỏi mặt đất rồi rơi ập xuống vị trí cũ vậy.

Tiếng còi báo động vang lên lanh lảnh chói tai rồi tắt hẳn, tiếp theo là tiếng nổ kinh hoàng đến nỗi mặt đất rung lên bần bật. Đến sáng hôm sau, nguy hiểm vẫn chưa qua hết. Hai bác cháu quyết định trải chăn nệm lên băng ghế cứng để ít nhất cũng có thể ngả lưng thoải mái hơn. Họ đã dọn dẹp ngăn nắp các nông cụ để trả lại một căn hầm trú ẩn gọn gàng.

Xem chừng quân Đức đã dự định ném bom London hằng đêm.

Sáng hôm đó, Grace thức dậy muộn và biết tin bệnh viện St. Thomas bị tấn công. Một quả bom rơi thẳng xuống ngay khu vực chính. Ngôi trường lân cận cũng chịu thiệt hại nặng nề. Tuy đã biết Đức quốc xã rất tàn độc nhưng chúng thật sự quá đê hèn khi nhắm vào những người ốm yếu và trẻ em.

Ngọn lửa phẫn nộ thiêu đốt cả người Grace, nó thôi thúc cô tiếp tục công việc trong đội giám sát không kích. Cô nhất định phải hoàn thành nhiệm vụ để chống lại Hitler.

Cô dự định chia sẻ điều đó với ông Evans, nhưng khi đến cửa tiệm thì cô lại thấy cửa vẫn đóng im ỉm và khóa chặt. Vài tháng trước, ông đã đánh cho Grace một chùm chìa khóa. Cô lấy nó ra khỏi túi xách và mở cửa. Sau khi bước vào, cô lật tấm bảng hiệu sang mặt “Mở cửa”, kéo rèm ra để đón chút ánh nắng yếu ớt rồi lên tiếng gọi ông Evans. Nhưng ông không trả lời.

Nỗi sợ hãi siết chặt sống lưng Grace.

Từ khi cô vào làm ở đây, ngày nào ông Evans cũng đứng đợi ở quầy như một người lính gác, chờ cô đến rồi mới biến mất sau những kệ sách để tiếp tục công việc thường ngày. Và hồi năm ngoái, Grace từng đoán công việc thực chất của ông chính là đọc sách đến hết ngày.

Nhưng hôm nay, ông lại không có ở đây.

Tòa nhà không có vẻ bị hư hại, nghĩa là căn hộ bên trên vẫn bình an. Đầu óc Grace nhảy múa với vô vàn cảnh tượng, lại được bồi thêm bằng những câu chuyện khủng khiếp của ông Stokes. Nếu đêm qua ông Evans ra ngoài rồi bị bắt mà không ai biết thì sao?

Cô vừa gọi tên ông lần nữa vừa vội vã đi ra phía sau cửa hàng và đẩy cửa bước vào căn phòng nhỏ đằng sau.

Mùi rượu xộc vào mũi Grace.

Rượu Scotch.

Chú của Grace từng uống loại rượu này. Nó bốc mùi như dầu parafin nhưng vị thì tệ hơn nhiều, mặc dù cô chưa bao giờ nếm thử thứ dầu đó.

Ông Evans ngồi sụp xuống ghế, nửa người nhoài trên mặt bàn. Cạnh khuỷu tay gấp lại của ông là một chai đựng thứ chất lỏng màu hổ phách, tay ông mệt mỏi xoay xoay chiếc ly pha lê gần như trống không.

Giá không có chai rượu nằm cạnh ông, có lẽ Grace đã lo sốt vó, mặc dù tình trạng của ông lúc này cũng khiến cô vô cùng hoang mang.

“Bác Evans?” Grace bước vào căn phòng vắng lặng và đặt túi xách xuống.

Ông ngẩng đầu lên, rầu rĩ nhìn cô qua cặp kính nằm méo xẹo trên khuôn mặt. Mái tóc bình thường được chải rất gọn gàng giờ đã rối bù. Ông vẫn mặc nguyên chiếc áo len nâu ngày hôm qua bên ngoài áo sơ mi có cổ, và nó cũng nhàu nhĩ chẳng kém là bao. “Về nhà đi, cô Bennett.” Giọng ông lè nhè vì buồn ngủ và say rượu, rồi ông lại gục đầu xuống bàn.

“Cháu không về được. Trời đã sáng rồi và chúng ta phải mở tiệm.” Grace nhẹ nhàng cầm lấy ly rượu và kéo nó ra khỏi tay ông. Ông không cản lại mà chỉ nheo mắt nhìn cô dưới hàng lông mày rậm rạp. “Tôi đã kể với cô rằng tôi từng có một đứa con gái chưa?”

“Dạ chưa, cháu không biết ạ.” Grace nâng niu chiếc ly trong lòng bàn tay, trên đó vẫn còn đọng lại hơi ấm từ tay của ông Evans. Rõ ràng ông đã ngồi đây khá lâu rồi. “Cô ấy cũng sống ở London ạ?”

Ông chầm chậm đứng dậy, loạng choạng không vững rồi cất giọng trả lời, “Nó chết rồi.”

Grace nhăn mặt ngượng ngùng vì đã lỡ lời, “Cháu xin lỗi. Cháu không…”

“Nó mất vài năm trước, trong vụ tai nạn xe hơi cùng với vợ tôi.” Ông vụng về đưa tay chỉnh lại cặp kính rồi đẩy nó nằm ngay ngắn trên sống mũi. “Nếu Alice còn sống, nó cũng trạc tuổi cô bây giờ.”

Khóe miệng ông nhếch lên một nụ cười nhàn nhạt, “Cô rất giống nó. Có lẽ chính vì vậy mà bà Weatherford mới gửi cô đến đây. Cái bà ưa lo chuyện bao đồng. Thằng bé Colin đã bầu bạn với con gái tôi từ nhỏ đến lớn. Chắc hẳn bà ấy nghĩ rằng có cô ở đây sẽ giúp tôi xoa dịu nỗi đau mất đi Alice hoặc những lý lẽ đại khái như vậy. Vớ vẩn, thật vớ vẩn.” Đôi lông mày cau có của ông giãn ra một chút. “Nhưng bây giờ tôi nghĩ bà Weatherford đã hiểu ra rằng việc đó vô ích như thế nào.”

Đôi mắt ông ánh lên một nỗi buồn mà Grace có thể cảm nhận được từ tận đáy lòng, một nỗi đau buồn trống rỗng. Đó cũng là cảm giác vẫn âm ỉ trong cô kể từ ngày mẹ mất và chưa bao giờ chịu lặng im.

Grace cẩn thận đặt ly rượu lên một chồng hộp, xa khỏi tầm với của ông Evans, “Việc cháu giống Alice có khiến bác phiền lòng không?”

Ông lướt mắt nhìn Grace rồi ngừng lại như thể đang nghiêm túc quan sát ngoại hình của cô. Mắt ông ầng ậc nước và cằm bắt đầu run lên. Ông vội vã nhìn đi chỗ khác rồi tiếng sụt sùi buồn tủi tràn ngập khắp căn phòng.

“Mới đầu thì có.” Giọng ông run run nhưng ông cố hắng lên. “Mỗi lần gặp cô, tôi đều cảm giác như nhìn thấy Alice. Con bé có mái tóc vàng hoe giống tôi hồi trước.” Mấy ngón tay của ông bới trên mái tóc bạc bù xù.

Grace im lặng để yên cho ông nói.

“Tôi cứ ngỡ mình đã chôn con bé ở đây.” Ông đập bàn tay đang mở lên ngực rồi thở ra, và hơi thở đó dường như khiến ông đau đớn vô cùng. “Nhưng giờ tôi đã biết có những điều quá to lớn nên không thể nào chôn được. Và tôi cũng nhận ra tôi không chỉ đang cố gắng trốn chạy nỗi đau mà còn trốn chạy cả cảm giác ăn năn của mình.”

Những lời nói của ông trĩu nặng không phải vì rượu mà vì nỗi đau buồn, và điều đó khiến Grace cảm thấy đau đớn giùm cho ông.

Ông Evans nghiêng chai để vét nốt vài giọt rượu đọng lại dưới đáy. “Tôi mong con bé biết tôi thương nó rất nhiều và nó có ý nghĩa với cuộc đời tôi thế nào.” Ông dằn cái chai xuống bàn rồi ngước nhìn Grace.

“Tôi xin lỗi vì đã nổi nóng với cô về việc cô tiếp tục đi làm ở đội giám sát.” Miệng ông run run dưới hàng râu trắng lơ thơ. “Cô không phải Alice. Tôi biết. Tôi biết chứ.” Ông quay mặt đi. “Nhưng tôi không thể lại để mất cô.”

Cổ họng Grace như có một tảng đá cứng ngắc chặn ngang mà cô không thể nuốt được. Cả đời Grace chưa bao giờ nhận được điều gì tựa như tình cảm cha con. Cha cô đã hi sinh khi con gái ông còn chưa kịp chào đời. Chú của Grace thì càng không giống, ông chỉ xem cô như một con ngựa thồ chứ không phải một đứa cháu gái.

“Cháu nhất định sẽ cẩn thận, nhưng cháu phải tiếp tục công việc này. Bác Evans, chính bác đã nói với cháu rằng đừng bao giờ bỏ cuộc.”

Khóe môi ông nhếch lên một nụ cười nửa miệng, “Thỉnh thoảng tôi đưa ra những lời khuyên thật tồi tệ.”

“Không, lời khuyên của bác hay xuất sắc.”

Ông bác đứng dậy khỏi bàn và dừng lại giây lát, người hơi lảo đảo. Ông nói, “Ta chưa bao giờ nói với cháu điều này, Grace ạ. Ta rất tự hào về cháu.”

Cảm giác ấm áp nở rộ trong lồng ngực Grace trước lời khen đó. Trước giờ chưa từng có ai nói với cô những lời với thái độ trìu mến như vậy.

Ông Evans chống các đầu ngón tay lên bàn, “Bác nghĩ bây giờ bác nên đi ngủ.”

“Cứ để cháu trông cửa hàng.” Grace mau mắn đề nghị.

“Bác biết cháu làm được.” Ông đưa tay nắm lấy vai Grace và siết chặt đầy trìu mến. “Và hãy nhớ bảo vệ bản thân mình, được chứ?”

“Cháu hứa,” cô đáp.

Nói đoạn, ông gật đầu rồi lững thững đi về phía cánh cửa dẫn lên căn hộ phía trên cửa hàng. Cặp mắt kính của ông vẫn xộc xệch trên mũi.

Hôm ấy Grace một mình trông nom cửa hàng. Đến chiều, khi tiếng còi báo động quen thuộc lại vang lên, cô nhanh chóng vận dụng mọi kĩ năng để đưa các khách hàng đến hầm lánh nạn an toàn. Lần này số máy bay Đức nhiều hơn hẳn. Đêm hôm ấy, đêm hôm sau và cả những buổi chiều, tiếng còi vẫn cứ rền rĩ triền miên không ngớt.

Bây giờ mọi người không còn dửng dưng trước âm thanh báo động như trước nữa. Không ai có thể bình thản khi thương vong quá kinh hoàng, nhất là khi ngôi trường South Hallsville ở quận Canning Town bị tấn công, và tước đi sinh mạng nhiều người dân khu East End đang ẩn nấp bên trong đó.

Một đòn chí tử giáng xuống toàn thành phố London.

Ngoài thiệt hại ở ngôi nhà của vợ chồng ông bà Hews, khu vực của Grace tạm thời vẫn bình an vô sự qua các cuộc không kích. Tuy vậy, cô và ông Stokes vẫn được yêu cầu tăng số ca trực từ ba lần lên năm lần một tuần. Thật may vì ông Evans cho phép cô đi làm muộn vào ngày hôm sau để ngủ bù thời gian trực đêm. Ông cũng không nhắc lại cuộc nói chuyện về đứa con gái quá cố của mình thêm lần nào nữa.

Vài ngày sau, khi đã quá trưa, Grace bước vào hiệu sách và nhìn thấy một chú mèo mướp nhỏ đang say ngủ dưới ánh nắng lấp lánh ngay bên trong cửa tiệm. Đúng lúc đó, giọng nói hết sức hồ hởi của ông Pritchard vang lên khi ông đưa ra một nhận xét chưa từng có về tình trạng của nước Anh.

“Ông nghe chuyện Đức vua và Nữ hoàng bị đánh bom ở ngay cung điện Buckingham chưa?” Ông ta hỏi trong lúc Grace đang cất đồ đạc ở phòng sau. “Họ te tua tơi tả, Evans ạ. Họ cũng như chúng ta thôi. Đều phải gánh chịu thảm cảnh này.”

Grace có thể thấy rõ ông Evans đang nhăn mặt trước lời nói của ông Pritchard vì những khách hàng khác cũng đang có mặt trong cửa hiệu. Cô treo túi xách lên rồi đi ra đằng trước. Nhất định phải chăm sóc cho các khách quen thật chu đáo.

“Ông nói một quả bom rơi xuống trước nhà thờ Thánh Paul à?” Ông Evans vừa hỏi vừa cố đẩy người đàn ông kia đi theo mình.

“Đúng, đúng,” ông Pritchard ầm ĩ. “Ngay trước tháp đồng hồ. Cả thánh đường có lẽ sẽ vỡ tung thành từng mảnh nếu trái bom phát nổ. Nhưng đội phá bom đã đến xử lý nó. Một thứ thật hấp dẫn.”

Ông vừa cất lời thì tiếng còi báo động buổi chiều bắt đầu inh ỏi. Tabby lập tức đứng bật dậy và lon ton phóng đến chỗ người chủ của mình. Ông Pritchard cau có vì bị “thứ rền rĩ điếc tai chết tiệt” ngắt lời, cặp mắt tròn của ông long lên vì tức tối. “Tổ cha cái tiếng còi phiền phức. Tôi nghĩ bọn Đức muốn đánh bại chúng ta bằng cách khiến ta phát điên lên đây mà.”

Tuy miệng lầm bầm chửi rủa nhưng ông vẫn đi theo Grace, ông Evans và những khách hàng khác ra khỏi cửa tiệm. Các ga tàu điện ngầm đều mở cửa cho người dân vào tránh bom mặc dù ban đầu chính phủ đã quyết định đóng cửa. Trước tình hình bị tấn công liên tục, những nơi này trở nên rất cần thiết vì ngày càng có nhiều người cần tìm chỗ nương náu an toàn.

Grace dẫn tất cả mọi người tới ga Farringdon rồi vận dụng kinh nghiệm giám sát không kích để ổn định tình hình mặc dù lúc này không phải trong thời gian làm nhiệm vụ. Với những người không muốn tốn một xu rưỡi để vào nhà ga, cô đưa họ đến căn hầm bằng gạch ở góc đường để trú ẩn trước. Trong lúc tiếng còi còn inh ỏi, Grace ngồi tựa vào bức tường gạch bên cạnh ông Evans, giở chiếc bìa áo của một cuốn sách ra rồi bắt đầu đọc.

Đêm qua, Grace vừa bắt đầu với cuốn Middlemarch (Cuộc trung chuyển) này và mới đọc được vài chương. Cô chăm chú dõi theo Dorothea, một cô gái trẻ với cảnh ngộ trớ trêu là lấy một người chồng xa lạ, già hơn mình nhiều tuổi. Tiếng còi báo động trên cao vang lên đứt quãng. Tiếng trò chuyện nhốn nháo, xì xào của hàng chục người trong hầm dội vào những bức tường cong cong. Gió cuồn cuộn lùa qua các đường hầm hở ở hai bên sân ga, phát ra một nốt nhạc trầm buồn đầy ám ảnh và vuốt ve những sợi tóc lòa xòa trên má Grace.

Grace gạt bỏ mọi tiếng động lao xao xung quanh, cô đặt quyển sách lên đầu gối và bắt đầu đọc. Ngoài kia, những âm thanh quen thuộc của chiến tranh vẫn không ngừng vọng lại, tiếng súng đùng đùng của lực lượng Không quân Hoàng gia đang lao đến, nhắm thẳng vào máy bay địch để nỗ lực bắn hạ chúng. Chen giữa tất cả là tiếng bom rơi xa xa với mật độ ít hơn ban đêm khá nhiều.

“Thưa cô, cô đang đọc gì thế?” Một người phụ nữ ngồi cạnh Grace cất tiếng hỏi.

Grace ngước lên và nhận ra người mẹ trẻ mà cô từng an ủi vài tuần trước đó, “Là Middlemarch của George Eliot.”

Có tiếng súng nổ trên đầu. Người phụ nữ lo lắng nhìn lên, “Nó kể về chuyện gì vậy?”

“Một người phụ nữ tên Dorothea. Có một người đàn ông đẹp trai muốn theo đuổi và cưới cô làm vợ nhưng anh ta lại không lọt vào mắt xanh của cô.”

“Tại sao?”

“Vì cô ấy thích một người đàn ông lớn tuổi hơn, một người đáng kính.”

Người mẹ trẻ cười khúc khích nhưng có vẻ lo lắng, “Cô ấy thích thật không?”

“Thật.” Grace chèn ngón tay giữa các trang sách để không bị mất dấu. Cô ngồi thẳng lưng lên một chút. “Thậm chí cô ấy còn cưới ông ta nữa cơ.”

“Ông ấy có gì mà hấp dẫn đến vậy?” Một người phụ nữ đứng tuổi mặc bộ váy màu xanh lam hỏi.

Bên ngoài vang lên một hồi còi nhỏ, tiếp theo là một tiếng nổ khiến mặt đất rung lắc và các bóng đèn nhấp nháy. Ông Evans gật đầu khích lệ Grace, trên môi ông thoáng nở nụ cười.

“Cô gái này rất ngoan đạo.” Grace đáp. “Còn ông ấy là một học giả được mọi người kính trọng và ông ấy còn theo đuổi những nghiên cứu mà cô cảm thấy rất hay ho.”

“Thế còn người đàn ông đẹp trai?” Ai đó lên tiếng hỏi.

Grace cười toe toét, “Anh ấy chuyển sang theo đuổi em gái của Dorothea.”

Một người nào đó bật cười, “Thông minh!”

“Họ sống có hạnh phúc không?” Một người đàn ông vạm vỡ mặc chiếc áo len vàng lên tiếng hỏi. Anh ta có mái tóc đen rối bù và mặc bộ quần áo nhàu nhĩ, chắc là thích hợp với quán rượu hơn. Trông anh không phải kiểu người chăm chút cho diện mạo của bản thân cho lắm.

“Anh muốn hỏi cô em gái với anh chàng đẹp trai hay Dorothea và ông chồng đáng kính?” Grace hỏi lại.

Người đó nhún vai, “Cả hai.”

Tiếng súng phòng không nổ vang trên đầu khi có một chiếc máy bay sà xuống thấp khiến âm thanh động cơ của nó vọng vào đường hầm của nhà ga.

“Tôi không biết.” Grace nhìn lướt qua quyển sách, các ngón tay của cô vẫn chặn ngay vị trí đang đọc. “Tôi chưa đọc được nhiều.”

“Vậy,” người phụ nữ nội trợ đề nghị. “Chị đọc tiếp đi.”

Grace chần chừ, “Chị muốn tôi… đọc?” Tất cả mọi người trên sân ga Farringdon chăm chú nhìn cô đầy trông chờ. “Đọc to lên sao?”

Nhiều người trong số họ gật đầu. Khá nhiều người nhìn cô mỉm cười.

Đột nhiên, Grace thấy mình trở lại làm một cô bé nhút nhát, rụt rè mang đôi giày mòn vẹt, chật ních đến đau cả ngón chân đang đứng trước cả lớp. Trên tay cô đang cầm viên phấn nhỏ và mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía cô. Dạ dày cô tự nhiên thắt lại.

“Chị đọc nhé.” Người mẹ trẻ năn nỉ. Một loạt tiếng súng khác dội đến. Grace co rúm người lại.

Đôi lông mày đầy biểu cảm của ông Evans nhướng lên như thầm hỏi.

Mặc cho mỗi một tế bào nhút nhát trong người đang khẩn thiết kêu gào Grace từ chối nhưng cô vẫn mở sách ra, liếm đôi môi bất chợt khô khốc rồi bắt đầu lớn tiếng đọc. Grace lúng túng đọc trong mấy câu đầu và xấu hổ nhận ra có biết bao người chứng kiến sự vấp váp của mình. Một quả bom phát nổ ở đâu đó đằng xa. Tiếng động ầm ầm như sấm của nó khiến cô mất tập trung hoàn toàn và quên mất mình đang đọc đến dòng nào.

Nhưng khi tiếp tục đọc, Grace dần dần quên mất đám đông xung quanh và đầu óc chỉ còn tập trung dõi theo câu chuyện. Thế giới của cô xoay quanh cuộc sống của Dorothea, cùng với nhân vật trải qua tuần trăng mật đầy khổ sở với một ông chồng chỉ biết đắm chìm trong khát vọng nghiên cứu của riêng mình. Trang này nối trang kia, họ tiếp tục gặp Fred, một gã lười biếng vô tích sự rắp tâm cưới cô gái đang được chú của mình chăm sóc, trong khi anh chàng từng theo đuổi Dorothea trước kia đã chuyển sang chinh phục em gái của cô.

Mỗi khi tiếng súng vang lên, Grace lại đọc to hơn để mọi người nghe được. Khi ánh đèn nhập nhoạng chớp tắt, cô vẫn cố hết sức tiếp tục, vừa căng mắt đọc vừa đoán những từ tiếp theo. Và khi đọc đến lời thoại của từng nhân vật, Grace cũng tìm cách đổi giọng diễn cảm cho thật phù hợp với mỗi một người.

Một tiếng rít xé tai vang lên trên cao, tiếp theo là tiếng nổ nhấn chìm cả ga tàu điện ngầm trong bóng tối.

“Đây.” Có tiếng sột soạt của ai đó đang lục túi xách và tích tắc sau một chiếc đèn pin nằng nặng được giúi vào tay Grace. Cô bấm nhẹ cây đèn rồi tiếp tục đọc và dẫn tất cả mọi người cùng đắm mình vào câu chuyện. Một lúc sau, đèn bật sáng, tình cảnh nguy hiểm đã qua đi. Grace phải chớp chớp mắt để làm quen với sự chuyển đổi bất ngờ giữa thế giới kì ảo với thế giới thực.

Cô trả lại cây đèn pin và cảm ơn người vừa cho mượn. Hóa ra nãy giờ Grace đã đọc hết những vài chương sách.

“Chiều mai chị có đến đây không?” Người nội trợ hỏi.

“Nếu chúng ta lại bị tấn công.” Grace gấp một góc giấy vào giữa hai trang để đánh dấu chỗ đang đọc và nâng niu quyển sách trong tay.

“Vậy cô ấy sẽ đến.” Người đàn ông vạm vỡ lúc này tiếp lời.

Người mẹ trẻ (bây giờ Grace đã biết tên cô ấy là Kittering) gật đầu về phía cuốn sách trên tay Grace và nở nụ cười đầy mong đợi, “Vậy có lẽ chị sẽ mang theo cuốn Middlemarch chứ ạ?”

Sau khi hứa với mọi người là sẽ đọc tiếp câu chuyện dang dở, Grace và ông Evans quay trở về hiệu sách.

“Cháu từng nói với bác là cháu cảm thấy mình vô dụng giữa cuộc chiến này.” Ông lật tấm biển treo trên cửa sổ quay sang mặt Mở cửa. “Nhưng hôm nay, ở trong đường hầm đó, khi cháu đọc sách cho tất cả những người đang khiếp sợ, cháu đã có một sức mạnh rất lớn đấy.”

“Thú thực cháu cảm thấy mình hơi ngốc nghếch khi đọc to tướng lên như vậy.” Grace xếp chồng những cuốn sách bị khách bỏ lại trên quầy tính tiền trong lúc chạy trốn cuộc không kích. Cô đặt chúng sang một bên để nếu họ quay lại thì sẽ dễ tìm.

Ông Evans lắc đầu, “Không ngốc nghếch chút nào đâu, Bennett ạ.” Ông gõ những ngón tay mập mạp lên bìa quyển Middlemarch, “Mỗi lần hãy đọc một cuốn sách.”