← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 14

Cuộc không kích chiều hôm đó đã để lại thiệt hại nghiêm trọng.

Một cái hố khổng lồ sâu hun hút xuất hiện ngay chính giữa con đường Strand. Hơn sáu trăm chiếc máy bay Đức chở bom hoành hành khắp nước Anh, nhưng khi chúng lăm le trở lại tàn phá London lần nữa thì Lực lượng Không quân Hoàng gia đã sẵn sàng đánh trả.

Tất nhiên đêm đó chúng đã quay lại. Như mọi đêm khác.

Tối hôm ấy là ca trực của Grace. Cô thầm biết ơn vì khu vực của mình vẫn may mắn bình yên vô sự, nhưng chỉ là tạm thời thôi. Nó làm sao có thể bình an mãi khi mà cả thành phố London đã bị tàn phá khốc liệt, với những khung dầm đỡ lộ ra trần trụi và các ô cửa sổ bị vỡ tung giống như những cái hốc trống hoác của đầu lâu.

Ngày hôm sau, khi còi báo động không kích vang lên, Grace nhanh tay cất cuốn Middlemarch vào cái túi xách lớn rồi đưa những khách hàng trong tiệm sách Đồi Primrose đến nhà ga Farringdon. Các khán giả nghe cô đọc truyện ngày hôm qua túm tụm lại thành một nhóm nhỏ chờ đợi. Gương mặt họ bừng sáng khi thấy Grace, nhất là khi cô rút cuốn sách ra khỏi túi.

Ngày hôm sau và hôm sau nữa họ vẫn đứng chờ. Số thính giả mỗi ngày một đông hơn.

Nhưng đến giữa tháng Chín, thời tiết chuyển mình ảm đạm đến mức có thể ngăn được máy bay ném bom của bọn Đức oanh tạc mỗi chiều. Hiếm hoi lắm mới được một ngày bình yên vì không có tiếng còi rền rĩ.

Grace không để buổi chiều quý báu đó trôi qua lãng phí. Cô xem lướt qua danh sách những quyển sách phát hành gần đây xem có thể đặt bao nhiêu cuốn ở chỗ đại lý Simpkin Marshalls. Khi Grace sắp xong việc, tiếng chuông cửa vang lên nhưng cô không để ý đến sự gián đoạn đó.

Lúc Grace ngước nhìn lên, cô nhận ra người đàn ông vạm vỡ từng nghe mình đọc sách ở nhà ga Farringdon. Đôi tay to lớn của anh cầm chiếc mũ lưỡi trai được đan bằng sợi len màu nâu.

“Chào buổi chiều, cô Bennett.” Anh cúi đầu đầy kính cẩn. Đây là lần đầu tiên Grace thấy anh không đội mũ. Anh có mái tóc nâu xám và hơi hói một chút ngay đỉnh đầu.

“Tôi tên là Jack,” người khách tự giới thiệu. “Tôi muốn cảm ơn cô, không chỉ vì cô đã đọc sách cho chúng tôi nghe mà còn vì cô đã cứu mạng tôi.”

“Cứu mạng anh?” Grace ngạc nhiên hỏi lại.

Người đàn ông gật đầu. Anh nói, “Hôm cô bắt đầu đọc sách, tôi tình cờ có mặt ở nhà ga Farringdon. Bình thường vào buổi chiều tôi đều ở gần chỗ công viên Hyde để sửa chữa nhà cửa trong khu đó.” Anh cúi đầu với một dáng vẻ đầy khiêm tốn. “Tìm được việc gì làm việc đó. Nhưng gần đây tôi thường tìm việc quanh khu này để có thể đến Farringdon nghe cô đọc sách khi xảy ra không kích. Nếu không có cô, có lẽ tôi đã trú ở nhà ga Marble Arch như trước giờ.”

Grace bụm tay lên miệng để giấu đi sự bàng hoàng.

Hai ngày trước, một cuộc oanh tạc tàn khốc đã hủy hoại gần như toàn bộ khu phố Oxford. Một quả bom chọc thủng trần nhà ga Marble Arch, nơi mà nhiều người đang ẩn nấp. Ông Stokes đã tường thuật tỉ mỉ cuộc tàn sát này đến khi Grace khiếp sợ cầu xin ông dừng lại. Những người chưa chết vì bom cũng bị những mảnh vỡ của chúng cắt vào da thịt. Thương tích rất kinh khủng.

“Tôi rất…” Grace lắp bắp, không biết nên nói gì. “Tôi rất mừng vì anh không ở đó, và vẫn an toàn.”

Jack khịt mũi và đưa mu bàn tay quệt lên mũi. Những ngón tay to bè của anh vẫn giữ chặt chiếc mũ lưỡi trai. “Đó không phải là lý do duy nhất khiến tôi đến đây.”

“À? Tôi giúp anh chọn một cuốn sách nhé?” Grace mỉm cười.

Người đàn ông lại vặn vẹo chiếc mũ, “Cô vẫn chưa đọc xong cuốn Middlemarch. Mấy người chúng tôi đã xếp hàng ở nhà ga Farringdon phòng khi bị ném bom. Nhưng không có gì xảy ra, ờ… chúng tôi rất tò mò không biết câu chuyện sẽ tiếp tục diễn ra như thế nào.”

“Chúng tôi?” Theo ánh mắt của anh, Grace nhìn ra ô cửa kính lớn của hiệu sách Đồi Primrose và thấy một đám đông đang tụ tập bên ngoài cửa tiệm. Trong đó, cô nhận ra chị Kittering cùng nhiều người khác. Họ đang vẫy vẫy tay và mỉm cười đầy hi vọng.

Grace quay lại nhìn Jack. Anh ngượng nghịu cười với cô, “Không biết cô có vui lòng đọc tiếp cho chúng tôi nghe không, dù không phải ở trong nhà ga nữa?”

Grace nhìn về phía ông Evans. Cặp mắt xanh biếc của ông nheo lại toát lên vẻ tự hào ấm áp của một người cha, và rồi ông im lặng gật đầu đồng ý.

Cô cắn môi, đắn đo về diện tích của cửa hàng. Nếu như là năm ngoái thì chắc chắn không thể được, còn bây giờ thì…

“Được chứ,” Grace đáp. “Dĩ nhiên là được rồi.”

Và thế là cô ngồi lên bậc thứ hai của chiếc cầu thang xoắn ốc bằng kim loại còn những người khác ngồi trên sàn hoặc tựa lưng vào tường để nghe tiếp câu chuyện Middlemarch.

Grace nhìn thấy mái tóc bạc của ông Evans lấp ló trên một giá sách và ông ở đó trong suốt thời gian cô đọc sách, như thể ông cũng đang nghe.

Kể từ hôm ấy, ngày nào Grace cũng đọc sách cho mọi người, khi thì ở ga tàu điện ngầm, khi thì trong hiệu sách Đồi Primrose vào những ngày yên lành. Nhưng nếu như ban ngày cô được đắm chìm vào những câu chuyện và quây quần bên các thính giả thì đêm đến chỉ có bom rơi đạn nổ triền miên. Tình cảnh đó có thể gói gọn trong hai từ: khốn khổ.

Vào những buổi tối không đi tuần với ông Stokes, Grace ngủ vật vờ trong căn hầm trú ẩn chật hẹp được đào ở khoảng sân sau. Cô với bác Weatherford đã chuẩn bị sẵn sàng chăn nệm và một thùng đựng các vật dụng cần thiết để mang xuống hầm, bao gồm một cây nến, vài cái mặt nạ phòng độc (mặc dù quân Đức có vẻ không hứng thú với việc sử dụng khí độc nữa), cuốn sách gần đây Grace đang đọc - cuốn Những lớp sóng của nữ nhà văn Virginia Woolf và một bình trà chân không.

Một đêm nọ, tiếng còi báo động the thé vang lên giữa trời mưa tầm tã. Hai người phụ nữ vội vã đội mưa chạy băng qua khu vườn đầy bùn đất. Trong bóng đêm, căn hầm trú ẩn lù lù hiện ra như một con thú đang say giấc, tấm lưng gù đồ sộ của nó được những nhánh cà chua mọc từ dưới đất phủ lên trông giống những sợi lông tơ. Nhưng khi Grace bước vào hầm, bàn chân cô đạp trúng một vũng nước lạnh buốt ngập đến mắt cá chân.

Cô bàng hoàng la lên và nhảy lùi lại.

“Chuột hả?” Bác Weatherford giật mình, hốt hoảng hỏi.

“Hầm bị ngập ạ.” Grace giũ giũ chiếc giày bị ướt. “Chúng ta phải đến nhà ga Farringdon chờ đến khi căn hầm khô ráo.” Cô quay vào nhà, một chân nặng trịch và ướt sũng vì ngấm nước, khi đi còn phát ra những tiếng rin rít như chế giễu vậy.

Bác Weatherford hối hả đi theo sau nhưng lại không có ý định đến ga tàu điện ngầm.

“Nếu ta nhanh chân lên thì vẫn có thể tìm được một chỗ thoải mái đấy ạ.” Grace thúc giục bác một cách ý nhị.

Lúc này đã hơn 8 giờ và thường ngày bọn Đức đã bắt đầu những trận khủng bố về đêm. Có thể đêm nay chúng sẽ không ra tay vì thời tiết quá khắc nghiệt. Nhưng như vậy cũng có nghĩa là nhà ga tàu điện ngầm đã chật như nêm. Grace từng nhìn thấy cảnh đó trong những đêm đi tuần. Người người nằm sát rạt bên nhau, chen chúc như cá hộp ở bất cứ chỗ nào họ có thể nhét mình vào được, những người xa lạ nép vào nhau như thể người thân. Họ không chỉ nằm la liệt trên sàn mà còn tràn lên cả cầu thang, thang cuốn, thậm chí có người liều lĩnh còn bất chấp ngủ cạnh đường ray.

Bác Weatherford điềm nhiên ngồi xuống bàn bếp và lấy bình tự rót cho mình một tách trà.

“Bây giờ không phải lúc làm những chuyện này.” Cả người Grace bủn rủn vì nỗi lo sợ không thể nào kìm được. “Chúng ta phải đi ngay.”

Bác Weatherford khẽ thở dài và đặt tách trà xuống, “Bác không đi đâu, Grace ạ. Bác xuống hầm chỉ để cháu yên tâm thôi, còn bác nói thật, những đêm cháu không có nhà thì bác chẳng bao giờ trốn đi đâu cả.” Bác chớp mắt, chậm chạp và đầy mỏi mệt. “Bác sẽ không đến ga đâu.”

Cơn giận dữ trong Grace bốc hơi rồi chuyển thành nỗi đau choáng váng. “Nhưng như vậy rất nguy hiểm,” cô phản đối một cách yếu ớt vì biết tranh cãi trong giờ phút này chẳng có ích gì.

Bác Weatherford không buồn trả lời mà chỉ đăm đăm nhìn xuống sàn nhà với vẻ chán chường. Khuôn mặt người phụ nữ đáng thương hằn lên nét đau buồn khi bà ngồi giữa căn bếp sáng sủa, một nơi mà ngày trước từng ấm áp và vui vẻ bao nhiêu thì bây giờ lạnh lẽo và ảm đạm bấy nhiêu. Tuy bác đã dần dần trở lại chăm chút cho bản thân nhưng cũng chỉ mặc những bộ đồ xám xịt thay cho những chiếc váy hoa trước đây, và cái nào cũng ngày càng thắt chặt lại trên thân hình gầy rộc đi trông thấy.

Không còn những cuộc họp mặt với Hội Phụ nữ tình nguyện. Không còn những bữa ăn cầu kì. Bác chỉ lặng yên sống cho qua ngày đoạn tháng, như thể cuộc đời là một cuốn sách chỉ chứa đầy những trang trống rỗng. Chẳng có gì quan trọng. Chẳng có mục đích gì khác ngoài việc lật đến trang cuối cùng rồi kết thúc.

Đêm hôm đó, Grace ở lại trong nhà với bác Weatherford, cô quyết tâm tìm cách thuyết phục bác sau này phải cùng cô đến ga tàu điện ngầm. Nhưng mọi nỗ lực đều chỉ được đáp lại bằng sự từ chối, và một lần nọ, bác đã sụt sùi tâm sự rằng chỉ muốn nhanh chóng đi theo con trai. Grace không đủ sức chống lại một thứ mạnh mẽ đáng sợ như nỗi đau buồn.

Những ngày còn lại của tháng Chín trôi qua với những cuộc oanh tạc liên tục hằng đêm và một số lần tấn công vào buổi chiều. Bằng cách thần kì nào đó, London đã hoàn toàn thích nghi được hoàn cảnh này.

Suy cho cùng, ít có ai trên thế giới có tinh thần quật cường như người Anh. Họ là những chiến binh. Họ có thể vượt qua mọi nghịch cảnh.

Các cửa hàng bắt đầu đóng cửa lúc 4 giờ chiều để nhân viên tranh thủ thời gian chợp mắt trước khi bắt đầu ca làm đêm. Hầu như bây giờ ai cũng nhận song song hai công việc. Một việc ban ngày để kiếm kế sinh nhai và một việc tình nguyện ban đêm. Họ sẵn sàng làm đủ mọi nhiệm vụ từ dập lửa, canh chừng bom, tìm kiếm người sống sót trong đống đổ nát hay cung cấp trang thiết bị y tế đến những nơi cần thiết. Cả thành phố London về đêm trở nên sống động hơn nhờ những hoạt động cứu trợ ý nghĩa như này.

Giờ đây Grace nhận thấy cô đã quen với việc ngủ ngay trong những khoảng thời gian rất ngắn và có thể chìm vào giấc ngủ say sưa không mộng mị chỉ sau tích tắc.

Chưa đến 8 giờ tối, trước khi tiếng còi báo động đầu tiên vang lên, người dân đã bắt đầu nườm nượp xếp hàng vào ga tàu điện ngầm và hầm trú ẩn. Họ đến sớm để tìm được chỗ ngả lưng thoải mái trên sàn, hoặc nếu may mắn lắm thì có thể ngủ trên giường trong xe lửa.

Người ta cũng tập làm quen dần với việc đi ngủ trong bộ quần áo chỉnh tề. Thậm chí một số người còn kể họ mặc cả quần lót khi đi tắm vì sợ sẽ bị tấn công bất ngờ rồi thi thể bị tìm thấy sẽ trong tình trạng không mảnh vải che thân.

Ấy vậy, bất chấp mọi biến động và bấp bênh, bất chấp mưa bom bão đạn hay thiệt hại tàn khốc thì những “cánh thư” vẫn tới tấp bay về bưu điện. Tòa bưu cục lúc này phải hoạt động dưới ánh nến và vẫn để biển hiệu cho thấy họ còn mở cửa. Tuy nhiên, cảnh tượng đáng buồn nhất chính là khi người bưu tá cầm lá thư đứng trước một ngôi nhà tan hoang, nơi chỉ còn sót lại đống gạch vụn.

Mọi trở ngại từng gây khó khăn cho dịch vụ chuyển phát Royal Mail trong giai đoạn đầu cuộc chiến đã bắt đầu bớt đi phần nào. Nhờ vậy, Grace nhận được thư của Viv và George thường xuyên hơn. Thật trớ trêu khi bây giờ đến lượt họ lo lắng cho sự an toàn của cô giống y như cô từng sốt ruột cho họ trước đây vậy.

Sau khi Grace kể cho George nghe về việc cô đọc sách cho mọi người nghe ở ga tàu điện ngầm, anh liền giới thiệu cho cô một tác phẩm mới, tiểu thuyết South Riding của Winifred Holtby. Sáng hôm đó, cuốn sách ấy đã được đại lý Simpkin Marshalls giao ngay đến cửa hàng, lớp bìa áo còn mới cứng và bóng lộn.

Sau một ngày mưa dầm dề, thời tiết hôm nay khá lạnh nhưng có một tia nắng rọi vào cửa sổ. Vẫn chưa có khách đến tiệm. Ông Evans vẫn say sưa với “công việc” của mình trong khu sách lịch sử, Grace cũng tìm cho bản thân một góc con con bên cạnh ô cửa.

Một tia nắng xuyên qua những đám mây và tỏa lên người cô hơi ấm thật dịu dàng. Grace ngừng lại giây lát rồi lướt nhẹ ngón tay trên bìa sách, cảm nhận sự bình yên tĩnh lặng. Đó được gọi là hưởng thụ niềm vui đọc sách.

Lớp bìa áo láng mịn, dòng chữ đen tuyền nổi bật trên nền vàng, điểm xuyết vài ngôi nhà nhỏ nhắn màu đỏ thắm. Grace miết đầu ngón tay dưới mép sách và từ tốn mở ra. Gáy sách vì chưa được mở bao giờ nên kêu lên cọt kẹt, tựa như cánh cửa cổ xưa đang chuẩn bị hé mở một thế giới đầy bí ẩn.

Grace lật từng trang đến chương đầu tiên, một âm thanh nhỏ nhẹ thầm thì trong cửa hàng vắng lặng. Giây và mực có một mùi thơm đặc biệt không thể diễn tả được, mà chỉ có những độc giả thực thụ mới cảm nhận được nó. Cô áp quyển sách lên mặt, nhắm mắt lại rồi hít hà cái mùi tuyệt vời đó.

Ai có thể nghĩ rằng mới chỉ một năm trước, Grace không hề biết trân trọng những khoảnh khắc nhỏ nhoi như vậy. Nhưng giờ đây, khi sống giữa một thế giới ảm đạm và đau thương, cô luôn nỗ lực chắt chiu từng niềm vui ở bất cứ nơi nào tìm được. Và trong sách thì ẩn chứa rất nhiều niềm vui.

Grace trân trọng những cuộc phiêu lưu mà cô được trải nghiệm qua các trang sách. Chúng đưa cô trốn chạy khỏi bom đạn, khỏi cuộc sống chật vật vì chính sách thắt lưng buộc bụng và quên đi những lúc sức cùng lực kiệt. Nhưng sâu sắc hơn tất thảy, Grace học được cách thấu hiểu con người khi cô đồng hành và hóa thân vào nhân vật. Dần dần, cô nhận ra những lăng kính mới mẻ của họ đã giúp cô trở nên nhẫn nại hơn, bao dung hơn. Giá như ai cũng biết trân trọng đồng loại thì có lẽ những thứ như chiến tranh sẽ không bao giờ tồn tại trên thế giới này.

Grace có thể dễ dàng chìm đắm vào những suy tư như thế trong tia nắng buổi sớm mong manh, nhưng sẽ khó lòng nghĩ ngợi được gì nhiều khi cô đứng giữa các con phố London tối đen như mực với ông Stokes.

Thời tiết sáng sủa hơn tạo điều kiện cho đám máy bay ném bom ồ ạt chiếm lĩnh cả bầu trời quang đãng và mặc sức tàn phá. Một đêm nọ, khi Grace đang đi tuần thì những chiếc máy bay quen thuộc không ai chào đón lại ập đến.

Chúng ầm ầm kéo qua bầu trời đen kịt như một bầy quạ gieo rắc cái chết và hiện rõ mồn một trong những ánh đèn pha. Nếu như trong những đợt không kích trước đây, thì có lẽ đến lúc này chúng đã thả bom xuống rồi.

Nhưng hôm nay máy bay vẫn không ngừng kéo đến, ngày càng hiện ra to hơn và kêu ầm ầm cho đến khi những sợi lông nhỏ xíu trong tai Grace run lên vì tiếng ồn. Tiếng pháo cao xạ xé toạc bầu không khí mỏng manh, và hơi khói ở xa xa bốc lên cay sè. Cô ngửa đầu ra sau để quan sát đội hình không kích trên đầu mình. Một chiếc đèn rọi ngang cái máy bay ngay lúc đáy của nó mở ra và thả một vật thể khổng lồ, thuôn dài tự do rơi xuống.

Một quả bom.

Ngay trên đầu Grace.

Cô nhìn nó, toàn thân như chết đứng. Đầu óc cô gào thét thúc giục bản thân chạy trốn nhưng đôi chân không chịu nghe lời. Quả bom rít lên chói tai hơn khi tăng tốc độ rơi. Càng lúc nó càng đến gần hơn.

Tiếng rít khiến Grace bừng tỉnh. Cô quay lại, chộp lấy cánh tay ông Stokes, kéo ông lùi về phía sau bức tường bao cát. Tiếng còi thé lên nhức óc và toàn thân Grace lạnh toát vì khiếp sợ.

Tiếng động đột ngột ngừng lại khiến trái tim cô cũng ngừng đập theo.

Đó là giây phút khiếp đảm nhất, chỉ trong tích tắc sau khi bom rơi xuống, vì bạn không biết nó đã rơi trúng chỗ nào.

Ngay lúc này, một luồng sáng chói lòa lóe lên cùng với tiếng nổ kinh thiên động địa khiến cả thế giới rơi vào sự câm lặng lạ thường. Một ánh chớp nóng rực như lò lửa bùng lên sau lưng Grace. Nó xô mạnh cô về phía trước vài bước và ngã dúi dụi. Cả người cô đâm sầm xuống đất, thở dồn dập. Grace chớp chớp mắt, choáng váng mặt mày và bên tai văng vẳng tiếng rên rỉ đau đớn, át đi mọi âm thanh khác.

Má Grace đau nhức nhối vì va phải mặt đường, cằm thì đau rát ngay chỗ dây da của chiếc mũ cọ xát vào khi cô ngã xuống. Grace thở mạnh một hơi khiến đám bụi cuồn cuộn bay mù lên trước mặt.

Cô dần dần lấy lại ý thức, bắt đầu nhận ra tiếng súng phòng không nổ đì đùng, lạ lẫm và vẳng lại từ xa nghe như từ dưới nước vọng lên. Grace nằm thêm chút nữa, nhặt nhạnh những mảnh vụn xung quanh, chờ đợi một cơn đau dữ dội ập đến thông báo mình vừa bị mất cái chân cái tay nào đó hoặc bị một vết thương chí mạng trên người.

Tim Grace đập dồn dập khi bị ngã xuống đất. Nhưng chỉ có vậy mà thôi.

Cô chống tay ngồi dậy nhưng cánh tay dường như quá yếu ớt nên không thể nâng cả người lên. Grace vỗ đôi tay run rẩy lên áo khoác, ấn vào lớp bụi đất khô cứng dày cộm để kiểm tra xem có vết thương nào không.

Không bị thương chỗ nào.

Grace nhìn sang bên trái và thấy ông Stokes đang ngồi cạnh cô với vẻ mặt hãi hùng không kém.

Họ đã sống sót.

Nhưng những người khác có thể không may mắn như vậy.

Bỗng một loạt âm thanh xông về phía cô. Tiếng pháo cao xạ ầm ầm, tiếng bom rú rít và tiếng nổ đùng đùng. Rất nhiều tiếng nổ.

Grace và ông Stokes gần như bừng tỉnh cùng một lúc. Họ nhìn nhau và ngay lập tức nhảy dựng lên. Bức tường đang che chắn cho họ đã bị thủng một lỗ ngay chính giữa, các bao cát bị xé rách bươm.

Giả sử lúc nãy hai người không nấp vào đây thì những mảnh vải nát vụn đó rất có thể đã là cơ thể của họ.

Grace không thể cho phép sự tưởng tượng kinh khủng đó cản chân cô ngay lúc này. Cô nhét nó vào một chiếc hộp kín, khóa chặt lại và ném cái hộp vào một góc tối tăm trong tâm trí. Trước mặt họ, một vài ngôi nhà đã bị đánh sập tan hoang và bên trong, lửa bùng lên giận dữ như những trái tim bị thương vậy. Grace nhanh chóng nhẩm tính số nhà rồi suy ra rằng trong số các căn nhà bị phá hủy đó, cô đã tận mắt nhìn thấy chủ nhân của chúng đã đến hầm trú ẩn an toàn. Nhưng còn căn bên trái là của bà Driscoll, một quả phụ trung niên, bà đã không còn đến hầm từ hai tuần trước.

Grace chỉ vào ngôi nhà đó, “Bác Driscoll.”

Và không cần nói thêm gì nhiều. Ông Stokes lao về phía đó, ông xộc vào chỗ cánh cửa đã bị nổ tung và để lại một chỗ trống hoác. Grace chạy theo sau rồi đứng chờ ông ở ngoài như vẫn thường được hướng dẫn.

Nhưng lâu quá không thấy ông trở ra.

Grace thận trọng bước vào theo và thấy ông Stokes đang đứng chết trân trong phòng khách, mắt chăm chăm nhìn một thứ gì đó. “Bác Stokes?” Cô lên tiếng.

Ông không đáp.

Cô đến bên cạnh và nhìn theo ánh mắt như hóa đá của người đội trưởng. Phải mất một lúc cô mới nhận ra những gì mình đang thấy đã từng là một con người. Từng là bác Driscoll.

Bụng Grace sôi lên sùng sục nhưng cô siết chặt tay thành nắm đấm để ép mình có thể bình tĩnh. Sau đó, cô vội vàng gói ghém cảnh tượng trước mắt cùng với nỗi lo sợ cho an toàn của bác Weatherford trước hoàn cảnh thập tử nhất sinh vừa rồi. Tất cả được nhét vào chiếc hộp nhỏ xíu chôn chặt trong góc tối của tâm trí cô.

“Bác Stokes,” Grace gọi. Ông vẫn không nhìn cô.

“Bác Stokes,” lần này cô cao giọng hơn.

Ông đờ đẫn quay đầu lại, ánh mắt như dại đi. Một giọt nước mắt cô độc, lặng lẽ tràn xuống hàng mi và lăn xuống má. Ông chớp chớp mắt như giật mình khi thấy Grace đứng đó.

“Bây giờ chúng ta không thể làm gì cho bác ấy nữa,” Grace nói bằng giọng rắn rỏi mà cô biết rõ mình không thể có được trong hoàn cảnh như vậy. “Chúng ta cần tìm xem có ai còn sống sót không. Cháu sẽ sang nhà bên cạnh của ông Sanford.” Grace hất đầu về phía bức tường để chỉ ngôi nhà kế bên. Cầu trời cho ông già ấy không phải chịu số phận thảm thương tương tự như bác Driscoll. Ông ấy cũng không còn đến hầm trú ẩn nữa. Có quá nhiều người làm như vậy.

Họ khao khát được ngủ trên chiếc giường của mình. Họ khao khát một cuộc sống bình thường.

Nhưng người ta không thể ao ước thế giới trở lại như trước kia được nữa. Đâu đâu cũng đầy rẫy hiểm nguy.

“Vậy bác đi kiểm tra những nhà bên cạnh nhà ông Sanford nhé?” Grace đề nghị người đồng nghiệp.

Ông Stokes gật đầu rồi thẫn thờ bước ra. Cô đi theo ông và chỉ dừng lại một lần duy nhất kiểm tra để chắc chắn đã ngắt hết điện đóm, tránh xảy ra cháy nổ.

Grace không quay lại nhìn bà Driscoll thêm lần nào nữa.

Suốt thời gian còn lại đêm đó, Grace nỗ lực đàn áp tất cả suy nghĩ trong tâm trí. Cô tập trung huy động mọi kiến thức đã được dạy ở đội giám sát phòng không, băng bó chân tay đầy máu me của những người còn sống sót, hỗ trợ dập lửa bằng bơm cứu hỏa xách tay hoặc bằng cát nếu như mặt đất loang lổ vết dầu hoặc ngửi thấy mùi hỏa hoạn gần đó. Liên tục hết nhiệm vụ này đến nhiệm vụ khác cho tới khi mặt trời mọc, và ơn trời là ca trực đêm cuối cùng cũng kết thúc.

Trên đường về nhà, mặc cho Grace cố sức đè nén nhưng cái hộp suy nghĩ bị khóa chặt, tâm trí của cô bắt đầu nổi loạn.

Nó cũng giống như một quả bom đang rú lên và lao về phía Grace. Tiếng rít đó chỉ im lặng khi cô mở tung cửa nhà và lao lên cầu thang.

Và cái hộp đó bỗng nhiên bùng nổ.

Những cảnh tượng hãi hùng mà Grace chứng kiến bắn tới tấp vào cô như những mảnh bom văng tung tóe. Đau buồn vì bà Driscoll. Sợ hãi rằng bác Weatherford có thể chịu chung số phận với bà ấy. Kinh hoàng vì suýt nữa chính cô cũng bị nổ tung thành từng mảnh. Sự hủy diệt. Những vết thương khủng khiếp. Vết máu còn loang lổ trên áo khoác của Grace. Và cái chết.

Bà Driscoll không phải thi thể duy nhất họ tìm được vào đêm hôm đó.

Grace kéo mạnh ngăn kéo đầu giường và điên cuồng lục lọi cho đến khi tìm thấy chiếc vòng tay xác định danh tính nạn nhân bị không kích mà Viv đã mua tặng ngày trước. Trên mặt miếng thiếc hình bầu dục nhẵn thín có ghi đầy đủ họ tên của Grace và địa chỉ nhà họ ở phố Britton. Hai bàn tay cô run lập cập đến nỗi phải cố gắng mấy lần mới đeo được chiếc vòng lên cổ tay.

Xong xuôi, Grace nằm vật xuống sàn và để cho cơn sóng dữ dội của vô số nỗi khiếp sợ nhấn chìm cả người.

Bây giờ, cô phải vượt qua nó, đương đầu với sự hung hãn và áp đảo của nó. Chỉ có vậy Grace mới có thể quay lại ca trực ngày mai để đối mặt với tất cả chuyện này một lần nữa.