← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 15

Bằng một phép màu nào đó, cuối cùng Grace cũng có thể chìm vào giấc ngủ trong buổi sáng hôm ấy, nhưng ngay khi cô tỉnh dậy, những kí ức về vụ đánh bom vẫn hiển hiện ở đó. Cứ như thể chúng đã nằm phục sẵn trong bóng tối của tâm trí, chỉ chờ Grace thức giấc là xồng xộc ùa ra.

Chúng theo chân cô đến tận hiệu sách, mỗi một căn nhà bị ném bom lại như một cú thụi vào đầu Grace. Tất cả những ngôi nhà mà cô nhìn thấy hằng ngày trên đoạn đường đi bộ từ phố Britton tới hiệu sách Đồi Primrose đều đã hóa thành đống gạch vụn, với những thanh dầm gãy chỉa lên lởm chởm. Này là nhà của người bán tạp hóa thơm thảo luôn dành một ít nho khô cho bác Weatherford, kia là chỗ của một dược sĩ đã cho họ thuốc diệt lũ sâu bệnh, còn có quán cà phê nơi góc phố mà George từng hẹn cô. Và nhiều hơn thế nữa. Thiệt hại đâu chỉ có vậy. Nhiều ngôi nhà chỉ còn trơ lại lớp vỏ, các bức tường đổ sụp khiến những gian phòng bên trong trần trụi lộ ra giống như ngôi nhà búp bê rùng rợn của đứa trẻ.

Trên phố, người qua kẻ lại thẫn thờ nhìn cảnh điêu tàn. Một đôi vợ chồng đi ngang qua, mình mẩy đầy bụi bặm và tay nắm chặt mớ rác bẩn thỉu. Khuôn mặt người đàn ông như hóa đá còn đôi mắt người phụ nữ đỏ hoe lên vì khóc. Chắc chắn họ vừa bị mất nhà.

Nhưng ít ra họ còn may mắn vì chưa mất mạng.

Grace bước vào hiệu sách, khó chịu vén một lọn tóc lòa xòa bên má phải. Cô đã dùng kẹp cố định gọn gàng những lọn tóc để thoải mái lúc làm việc. Chỉ có vết bầm tím trên má phải vẫn lộ ra vì Grace bướng bỉnh không chịu thoa phấn để che đi, chắc chắn rằng ông Evans sẽ rất lo lắng.

Ông ngước lên nhìn và nheo mắt lại, nghi ngờ ngay lập tức. Grace vỗ vỗ mái tóc lần nữa, vờ như không có chuyện gì. Ông đổ dồn sự chú ý vào chiếc vòng tay.

Quai hàm ông căng ra, “Bác nghe nói đêm qua Clerkenwell bị đánh bom.”

Grace không dám nhìn thẳng vào ông vì cô đang rưng rưng nước mắt. Cô nhất định phải mạnh mẽ lên, cứng cỏi lên.

Tiếng bước chân ông vang nhẹ trên tấm thảm khi đi vòng qua quầy tính tiền. Ông nhẹ nhàng hỏi, “Grace à, cháu có sao không?”

Việc trốn tránh bằng câu trả lời qua loa “cháu ổn” có lẽ sẽ dễ dàng hơn, nhưng cách ông hỏi thăm quá đỗi dịu dàng và nỗi khao khát được an ủi trong Grace cũng bùng lên mãnh liệt. Tuy cô đã lắc đầu nhưng ông vẫn vòng tay ôm lấy cô, kéo cô vào lòng vỗ về như một người cha, một điều mà cô chưa từng biết đến từ thuở lọt lòng.

Trong lúc ông Evans ôm lấy Grace, nước mắt cô thi nhau rơi xuống và những chuyện đã xảy ra đêm qua cũng theo đó tuôn trào. Gánh nặng trong lòng Grace vơi nhẹ phần nào vì có thể chia sẻ những thảm kịch đã chứng kiến và dựa vào sự vững vàng của ông. Đến lúc đó, Grace mới biết mình cần điểm tựa ấy biết chừng nào.

“Bác đã sống qua cuộc Đại chiến thứ nhất,” ông nói trong lúc Grace lấy khăn tay lau nước mắt. “Cháu sẽ không bao giờ quên được nó, nó sẽ vĩnh viễn trở thành một phần trong cháu. Giống như vết sẹo mà không ai nhìn thấy được.”

Grace gật đầu khi nghe ông giải thích. Cơn bão cảm xúc cũng dần dần lắng xuống. Đây là lần đầu tiên cô cho phép bản thân được vỡ òa.

Có lẽ sự an ủi và lời khuyên của ông Evans đã tiếp thêm cho Grace lòng can đảm để đối mặt với tiếng còi báo động đặc biệt khẩn thiết dội vào ga tàu điện ngầm chiều hôm đó. Trên đầu họ, mớ tạp âm lộn xộn đinh tai của cuộc chiến vang lên triền miên, không phân biệt nổi âm thanh nào với âm thanh nào. Nếu không nỗ lực giữ bình tĩnh, có lẽ Grace đã sớm đầu hàng trước sự hoảng loạn đang rượt đuổi theo từng tiếng còi rú rít, từng tiếng nổ rung trời đập vào lồng ngực. Nhưng chúng chỉ khiến cô lấy hết hơi sức đọc to hơn.

Sau đó, Grace hay tin rằng trong suốt thời gian nóng bỏng nhất, nhà ga Charing Cross chỉ cách họ một dặm đã bị đánh bom tàn khốc.

Tối hôm ấy, cô đã thành công trong việc giấu biến khuôn mặt bầm tím của mình với bác Weatherford khi hai bác cháu ăn tối với thịt bò béo và salad đậu trộn cà rốt được hái từ vườn nhà. Tuy nhiên, Grace vẫn không thể thuyết phục bác đến hầm trú ẩn.

Hầu như ngày nào họ cũng nói về chuyện đó. Đến lúc này, Grace ngờ rằng bác đã từ chối nghe bất kì lý do đầy thuyết phục nào mà cô đưa ra. Nhưng bây giờ thì cô biết rất rõ chuyện gì sẽ xảy ra nếu phố Britton thật sự bị tấn công.

Việc chuẩn bị cho buổi đi tuần đêm hôm đó đòi hỏi một tinh thần quả cảm phi thường. Ngay cả lúc cài ghim lên ve áo, bàn tay Grace vẫn còn run lập cập. Nói cho cùng thì cô không bao giờ biết được đêm nay sẽ ra sao.

Ông Stokes dường như cũng không còn bình tĩnh như thường lệ. Ông không buồn khoe khoang sự hiểu biết với cô và cũng tuyệt nhiên không nhắc đến vụ đánh bom ở Charing Cross, dù chắc chắn có rất nhiều tình tiết rùng rợn để kể lại.

Lần đầu tiên, ông chỉ im lặng.

Ban đầu, Grace cảm thấy thật may mắn nhưng dần dần cô phát hiện sự lặng lẽ đó khơi dậy trong cô một cảm giác vô cùng khó chịu mà mãi một lúc sau cô mới nhận ra đấy là sự lo lắng.

Cô lo cho ông Stokes, cho tất cả mọi người.

Tiếng bom nổ tràn ngập khắp thành phố London trong suốt vài tiếng đồng hồ, một âm thanh đã trở thành quen thuộc. Nó dần dần lắng xuống rồi im bặt, khu vực của họ vẫn an toàn. Grace cảm thấy không thể chịu đựng thêm được nữa. Cuối cùng, cô lên tiếng, “Chắc bác đã nghe vụ Charing Cross.”

Dưới ánh trăng, Grace thấy ông bặm môi lại và trầm ngâm nghĩ ngợi. Cô kinh ngạc giây lát vì nhận ra mình đã luyện được khả năng quan sát lão luyện trong bóng tối bao trùm khắp đường phố London. Thậm chí, Grace còn nhìn ra vết cắt nhỏ bên quai hàm của ông Stokes khi ông bị thương trong vụ nổ đêm trước.

“Tôi có nghe,” ông đáp, giọng khô khốc và khản đặc. Ông nuốt khan, “Những con người bất hạnh ấy.”

Chỉ vậy thôi. Không có câu chuyện nào về các vụ cháy ngùn ngụt hay tàn phá nặng nề. Không có chi tiết về những ngôi nhà sụp đổ tiêu điều hay những nạn nhân bị nổ tan xác.

Suốt một lúc lâu, họ không nói với nhau lời nào, cho đến khi họ đi ngang qua nhà bà Driscoll. Thi hài của bà quả phụ đã được một dịch vụ cứu hộ tìm được và chuyển đi. Ông Stokes dừng lại trước căn nhà ắng lặng, hai tay đút vào túi quần rồi nhìn nó thật lâu.

“Tôi vẫn chưa cảm ơn cô, cô Bennett.” Ông trầm giọng xuống. “Đêm qua. Tôi… tôi gần như quên cả bản thân mình. Chính cô đã nhắc tôi về nhiệm vụ của mình.”

Sự khiêm nhường của ông càng khiến Grace kinh ngạc hơn sự im lặng nãy giờ. “Chúng ta là đồng đội mà.”

“Cô đã giữ được bình tĩnh và mọi người được cứu sống là nhờ có cô.” Ông chuyển hướng nhìn sang Grace. “Tôi rất ngưỡng mộ khả năng tập trung xuất sắc của cô.”

“Tôi nghĩ,” Grace từ tốn đáp, không thể ngăn được bản thân nói ra câu này, “bởi vì tôi là phụ nữ.”

Miệng ông chậm rãi vẽ thành một nụ cười buồn rầu, “Còn tôi là một kẻ thô lỗ, đúng không?”

Cô nghiêng đầu, từ chối trả lời một câu hỏi mà chắc rằng ông đã biết đáp án.

Từ sau đêm đó, hai người họ trở nên khá thân thiết với nhau. Họ tìm thấy chút tình bằng hữu giữa những hiểm nguy và bi kịch mà cả hai cùng phải đối mặt.

Grace với ông Stokes rất cần tình bạn đó, vì đúng như dự đoán, chỉ một tuần sau, vào một đêm sương mù dày đặc, hàng loạt trái bom đã giội xuống khu vực của họ. Thiệt hại nghiêm trọng, thương vong vô số kể. Đó là còn chưa kể quân Đức liên tục thả chất nổ vào lúc nửa đêm về sáng.

Khi những tia nắng xuyên qua bầu không khí mù mịt khói, tình hình tạm yên ổn trở lại. Grace nôn nóng rảo bước qua một ngôi nhà bị sập và biết rằng mọi người đã lánh xuống căn hầm trú ẩn bên dưới. Biết đâu họ vẫn còn sống sót, dù cơ may đó rất mong manh.

Những người đàn ông của lực lượng cứu hộ khẩn cấp leo lên một chiếc xe tải nát bươm. Trong thời gian này, hầu như phương tiện nào cũng hư hại nặng nề. Họ tiến lại gần Grace với vẻ mặt dữ tợn. Đó là những người đã phải chứng kiến mọi hậu quả khủng khiếp nhất do các trận đánh bom để lại. Tất cả đều vạm vỡ với thân hình lực lưỡng đủ để đào bới những đống đổ nát suốt mấy tuần qua, nhưng đôi mắt họ thì vô hồn và trống rỗng hệt như mấy ô cửa sổ vỡ nát trong các ngôi nhà bị nổ tung.

Grace vừa chỉ cho họ những vị trí cần đào hoặc hỗ trợ vừa gọi to tên những người mà cô mong mỏi được gặp lại họ vào một ngày nào đó.

“Cô Bennett.” Một giọng the thé gọi giật tên cô.

Grace đứng thẳng lên từ chỗ đống gạch vụn và thấy một người đàn ông trẻ tuổi đang chạy về phía mình.

“Tìm được cô tôi mừng quá,” anh ta thở hổn hển vì chạy gấp. “Có một quả bom. Ở nhà bà Weatherford…”

Cả người Grace lạnh toát.

Bác Weatherford.

Cô quay lại phía người báo tin, bỏ mặc đội cứu hộ và đống tàn tích để phóng vội xuống đường, hướng về phía nhà mình rồi cắm đầu chạy với tốc độ không tưởng. Khi đến nơi, Grace thấy bên ngoài ngôi nhà vẫn còn nguyên vẹn. Nhưng cô biết tuyệt đối không nên tin những điều như vậy. Đôi khi người ta chỉ cần mở cửa mới bàng hoàng phát hiện ra bên trong đã không còn lại gì.

Grace phóng nhanh lên các bậc thang và không để phí một giây phút nào, cô đẩy bật tung cánh cửa rồi sững người vì kinh ngạc.

Mọi thứ vẫn y nguyên như lúc Grace rời khỏi nhà, sàn gỗ sạch bóng bên dưới tấm thảm bạc màu, cánh cửa nhà bếp mở toang dẫn vào gian phòng sơn màu trắng vàng bắt mắt.

Grace loạng choạng bước vào phòng khách, gọi to tên bác Weatherford nhưng trong phòng không có ai.

Cô lao xuống nhà bếp và đang chuẩn bị gọi thêm lần nữa thì suýt đâm sầm vào một người, người đó không ai khác mà chính là người bác cô đang nóng ruột gọi tìm.

“Cháu được báo là nhà mình có bom,” Grace kêu lên hốt hoảng.

Bác Weatherford nở nụ cười mệt mỏi, “Ừ, có bom. Nhưng cháu thấy đó, nó không nổ.”

Bác chỉ tay ra phía cửa sổ gian bếp. Ngoài vườn, một quả bom khổng lồ đã rơi thẳng xuống căn hầm trú ẩn, kêu răng rắc ngay giữa hầm. Trông nó thật đáng sợ. Trái bom dài bằng cả người Grace, trên thân nhô lên một cái vây và có một lớp đá mài bao bọc quanh bề mặt kim loại xám xịt của nó. Bên trong vật thể đó chứa lượng chất nổ đủ để phá hủy mọi ngôi nhà và nghiền nát lớp da thịt mỏng manh.

Một cơn ớn lạnh nữa xộc thẳng vào sống lưng Grace.

Nếu nó phát nổ, bác Weatherford có lẽ đã mất mạng. Tan xác. Và Grace sẽ là người phát hiện ra thi thể của bà.

“Bác đã thông báo đến đồn giám sát không kích để họ điều người xử lý bom đến đây.” Bác nói bằng giọng đều đều như chẳng hề quan tâm hay nhận ra tình cảnh nghìn cân treo sợi tóc vừa rồi.

Grace lắc đầu, “Suýt nữa bác đã mất mạng. Nếu như bom nổ, nếu nó thật sự nổ thì cả căn nhà này sẽ bị san bằng và bác sẽ…”

“Nhưng chuyện đó không hề xảy ra, con gái à.” Bác Weatherford ra hiệu cho Grace ngồi xuống bàn và rót cho cô một tách trà. Trên cổ tay yếu ớt của bác đang đeo chiếc vòng nhỏ mà Grace mới tặng gần đây, với tên tuổi và địa chỉ nhà Weatherford được in ngay ngắn trên miếng thiếc hình bầu dục phẳng ở giữa vòng.

Nhưng cho dù bác đã đeo vòng thì Grace cũng không thể dễ dãi trì hoãn việc đưa bác đến hầm trú ẩn được nữa. Cô kéo bác ra khỏi bếp. “Bác có thể đã…” Giọng Grace tắc nghẹn. “Bác rất có thể đã bị… giống…”

Giống bà Driscoll.

“Nhưng bác có sao đâu.” Bà Weatherford thở dài, dường như có vẻ thất vọng vì mình vẫn bình an. Nhưng dù sao bà cũng không phản đối khi bị Grace đẩy ra cửa trước.

“Bác rất có thể đã bị thương.” Grace thổi còi tập hợp những người giám sát không kích vừa đến đổi ca trực và hướng dẫn họ dọn dẹp sạch sẽ khu vực này trước khi đội gỡ bom đến.

Cuối cùng, hai bác cháu đã đi qua được vài con phố. Sau khi nhấp tách trà ấm trong một căn tin do Hội Phụ nữ tình nguyện tài trợ, Grace mới nỗ lực dập tắt được nỗi khiếp sợ và ngước nhìn bác Weatherford. “Cháu biết cuộc sống đã rất khổ sở rồi.”

Mẹ của Colin chầm chậm nhắm mắt lại với vẻ đầy đau đớn.

“Cháu xin bác,” Grace nài nỉ, giọng cô khản đặc. “Cháu đã tận mắt thấy rất nhiều cảnh thương tâm. Cháu đã chứng kiến bom đạn hủy hoại người ta như thế nào.”

Bác Weatherford đưa mắt nhìn chiếc áo khoác của Grace. Dưới ánh sáng ban ngày, những vết máu bê bết trên đó được phơi ra rõ ràng.

Những thứ mà bà chưa bao giờ để ý.

Một số người nấn ná gần khu căn tin di động cũng là tình nguyện viên hoặc nạn nhân trong cuộc đánh bom đêm qua. “Bác có biết cháu sẽ thế nào nếu tìm được bác trong tình trạng như vậy không?” Giọng Grace khàn đi đến nỗi chỉ còn tiếng thì thào, “Cháu không thể…” Nước mắt cô tuôn ra như thác.

Bà Weatherford chặn tay lên miệng mình, “Ôi, Grace. Bác thật xin lỗi.”

Họ không nói gì thêm suốt vài tiếng đồng hồ cho đến khi đơn vị xử lý bom đến để đưa quả bom không nổ đi một cách an toàn.

Tuy nhiên, đêm hôm đó, khi Grace không phải đi trực và đã chuẩn bị mọi thứ đâu vào đó để xếp hàng vào ga Farringdon, bác Weatherford cũng lặng lẽ gói ghém một túi đồ đạc nhỏ và đi cùng với cô.

Kể từ đêm đó, bác chấp nhận ngủ ở ga tàu điện ngầm mà không phản đối thêm tiếng nào nữa.

Tháng Mười trôi qua cùng với những đợt mưa bom dữ dội triền miên, khốc liệt nhất là vào giữa tháng khi trăng tròn và sáng nhất. Họ gọi đó là mặt trăng dẫn đường cho kẻ ném bom. Và quả là như vậy.

Dưới ánh trăng tròn lung linh, dòng sông Thames được thắp sáng như dải ruy băng màu bạc óng ánh uốn mình qua thành phố London tắt điện tối om. Nhờ vậy, quân Đức dễ dàng xác định được mục tiêu tấn công.

Hàng trăm người bị giết, thương tích không đếm xuể, hàng nghìn người tan cửa nát nhà và rất nhiều đám cháy hoành hành khắp London đến nỗi đội giám sát không kích được huy động hỗ trợ lực lượng cứu hỏa dập tắt những ngọn lửa dường như kéo dài bất tận.

Trong khi da thịt của thành phố London bị lột trần và thiêu rụi từ đêm này qua đêm khác để lộ ra bộ xương trần trụi bên dưới, thì Thủ tướng Churchill vẫn tìm cách cập nhật càng nhiều thông tin từ phía Đức càng tốt. Điều đó có nghĩa là số lượng thương vong được báo cáo trong các chương trình phát thanh buổi tối không thể xác định rõ vị trí, là những cửa hàng từng bị giội bom có thể mở lại ở một khu vực mới nhưng không nêu rõ vị trí trước đây của họ. Tệ hơn nữa, nó còn có nghĩa là những người thiệt mạng không nhận được lời cáo phó tử tế kịp thời mà chỉ được liệt kê chậm trễ và thông báo qua loa về tháng mà họ qua đời mà thôi.

Nhưng bất chấp mọi đau thương và bi kịch ấy, cuộc sống ở thành phố bị hủy hoại tàn bạo này vẫn tiếp diễn. Mọi người vẫn tận hưởng bất cứ niềm vui nào ở bất cứ đâu mà họ tìm thấy, và thưởng thức chút dư vị cuối cùng của ánh nắng ấm áp lẫn bầu trời trong xanh trước khi băng tuyết ập đến. Nhất là khi mấy tháng sắp tới đây rất có thể sẽ khắc nghiệt không kém gì mùa đông năm ngoái.

Bởi vậy, vào một ngày giữa tháng Mười đặc biệt đẹp trời, không gợn một chút mây và cũng không mưa, Grace bỏ qua ý định ngủ bù mà muốn tranh thủ đi tản bộ trong cái nắng ấm áp hiếm hoi còn sót lại. Khi đơn hàng của Simpkin Marshalls không đến kịp buổi chiều hôm đó, cô thấy đây đúng là một cơ hội tuyệt vời.

Grace xin phép ông Evans cho cô đến đại lý Simpkin Marshalls xem thế nào, ông mỉm cười với vẻ thấu hiểu và khuyên cô hãy dành thời gian cho bản thân. Và Grace nghe lời ông. Cô đi bộ đến phố Paternoster Row, kéo dài thời gian thêm ít phút. Thời tiết hơi se lạnh nhưng ánh nắng ấm áp đã thổi tan tất cả.

Kể từ sau cuộc ghé thăm định mệnh đầu tiên đó, Grace có trở lại con phố này mấy lần. Chiến tranh không hề khiến phố Paternoster Row bớt tấp nập, mà ngược lại nó càng trở nên sầm uất hơn vì ngày càng có nhiều người tìm đến sách để giải khuây trong những đêm dài dằng dặc dưới hầm trú ẩn.

Những chiếc xe buýt đỏ bóng lộn một thời thường xuyên qua lại trên phố nay đã hư hỏng nặng nề vì những đợt mưa bom triền miên. Grace đã tận mắt thấy rất nhiều chiếc xe nằm vất vưởng bên các lề đường bị không kích, chúng rúm ró nát bươm như món đồ chơi trẻ con bị bỏ đi. Thi thoảng người ta cũng nhìn ra được một chiếc chạy giữa những xe màu xanh lá, xanh dương, nâu và trắng, nó được điều đến để thay thế cho các phương tiện giao thông công cộng bị phá hủy.

Dọc theo vỉa hè, những người bán rong vẫn bán thức ăn theo các công thức chế biến mới được thay đổi cho phù hợp với chính sách hạn chế thực phẩm. Tuy khách hàng luôn miệng càm ràm rằng mấy món này chẳng ngon lành nhưng họ vẫn nườm nượp xếp hàng chờ mua.

Đến bây giờ Grace đã quen biết tất cả người bán hàng, chủ hiệu sách và nhà xuất bản ở đây. Cô thong thả bước vào các cửa hàng, chào hỏi chủ tiệm và xem lướt qua những cuốn sách mới về. Cô làm vậy không phải để tìm cách cạnh tranh với họ mà chỉ đơn giản là tìm đọc như một độc giả bình thường. Thật hạnh phúc biết bao khi được dạo bước trên một con phố dành riêng cho sách, nơi người yêu văn chương có thể hội ngộ và chìm đắm vào niềm say mê của mình bên cạnh những tâm hồn đồng điệu.

Bây giờ, Grace đã hiểu tại sao mọi người cứ một mực khuyên ông Evans chuyển cửa hàng đến phố Paternoster Row, nhưng cô không thể hình dung hiệu sách Đồi Primrose có thể nằm ở một nơi nào thích hợp hơn vị trí hiện tại của nó, chen giữa một dãy nhà trên đường Hosier.

Tâm trạng của Grace hôm nay thật thư thái. Cô còn tiện đường ghé vào hiệu sách Pritchard & Potts và thấy ông Pritchard đang đong đưa một sợi dây trước mặt Tabby. Con mèo cố hết sức quào một cái thật mạnh vào không khí để giật được giải thưởng, nó thậm chí chẳng buồn quay lại khi nghe chuông cửa reng. Nhưng ông chủ tiệm thì giật mình, đánh rơi sợi dây và Tabby vồ lấy ngay lập tức.

“Cô Basset.” Ông Pritchard hắng giọng và chỉ về phía con mèo đang loay hoay mắc kẹt trong sợi dây dài lòng thòng. “Tôi đang… ờ… đang rèn luyện phản xạ cho nó để dạy nó bắt chuột.”

Grace mỉm cười mặc dù ông vẫn cứ mãi nhớ sai tên cô và cô thừa biết ông đang quanh co lấp liếm cái trò mưu mẹo tồi tệ của mình, “Cháu tin là nó sẽ có ích lắm.”

Ông Pritchard hướng đôi mắt lấp lánh về phía cửa hiệu. Cô nhận ra ông không hề nghi ngờ gì khi thấy sự hoang mang trong mắt cô. Ông rụt đầu sâu hơn vào đống vải áo khoác sẫm màu rồi tặc lưỡi, “Tôi rất ấn tượng về những gì cô đã làm cho cửa hàng ông Evans.” Ông thọc hai tay vào túi, đôi môi mỏng càng mím chặt hơn. “Không biết cô có thể đưa ra gợi ý nào…”

Hiệu sách Đồi Primrose bây giờ đã có uy tín vững chắc và bỏ xa Pritchard & Potts nên cửa hàng này không còn là đối thủ cạnh tranh ngang tầm với họ. Vì vậy, Grace sẵn lòng gợi ý cho ông một số bí quyết quảng cáo và nói về triển vọng tiến xa của một cửa hàng. Mặc dù ông Pritchard cáu kỉnh sổ toẹt ý tưởng thứ hai nhưng ông vẫn chăm chú lắng nghe và gật gù trước lời khuyên về cách quảng bá sách.

Grace nán lại cửa hàng Pritchard & Potts lâu hơn cô dự định. Thật vậy, cô chưa từng nghĩ mình có thể chịu được khoảng thời gian lâu đến thế. Sau đó, Grace vội vàng trở về nhà, nhưng cô cũng không vội đến mức bỏ qua tấm bìa cứng lớn đặt trên cửa sổ của hiệu sách Nesbitt’s Fine Reads với lời chào mời “Hãy đến nghe đọc sách trực tiếp mỗi chiều”.

Giống y như việc mà Grace đang làm.

Cô bật cười trước hành động sao chép trắng trợn của bà hàng xóm khắc khổ. Nhưng thật ra, cô không hề cảm thấy khó chịu. Suy cho cùng, nếu việc đó góp phần giới thiệu cho nhiều người về những cuốn sách mang đến niềm vui trong giai đoạn tăm tối này, vậy bà ấy có xúc phạm đến ai đâu?

Tất nhiên, hoạt động đọc sách mỗi chiều của bà Nesbitt không hề làm giảm bớt lượng khán thính giả đông đúc đổ về hiệu sách Đồi Primrose. Khi xảy ra không kích, sân ga Farringdon gần như chật như nêm. Những người vì bận rộn nên không thể đến hiệu sách vào các buổi chiều bình yên sẽ nhanh chóng hỏi người khác về các tình tiết họ đã bỏ lỡ trong lúc tất cả đều cố gắng căng tai ra nghe Grace đọc truyện giữa vô vàn âm thanh hỗn tạp.

Họ đã nghe đọc xong cuốn Middlemarch, sau đó chuyển sang một vài tác phẩm kinh điển khác như Hai kinh thành và Emma vì chị Kittering nhất quyết đòi được nghe.

Grace rất thích những buổi chiều đọc sách mà không phải chen chúc dưới căn hầm chật chội. Ông Evans đã sắm cho cô một cái gối êm dày để tựa khi ngồi trên bậc thang thứ hai của chiếc cầu thang uốn lượn. Và khi ở trong tiệm, Grace không bao giờ phải cố sức chạy đua với quả bom đang gầm rú. Chính vào một buổi chiều mưa êm ả như vậy, khi đang đọc cho mọi người nghe cuốn tiểu thuyết South Riding, cô liền để ý thấy bóng lưng của một cậu bé. George đã giới thiệu quyển sách này với Grace và nó để lại trong cô dư âm sâu sắc.

Grace vẫn còn nhớ những dòng thư tay được viết bằng nét chữ gọn gàng khin khít mà anh gửi về cho cô. Thật may vì người kiểm duyệt không tìm được lý do gì để cắt bỏ chúng. Qua những trang sách này, chúng ta có thể tìm được niềm hi vọng mạnh mẽ nhất. Lúc nào anh cũng nghĩ về em.

Grace rất trân trọng lá thư này giống như tất cả các bức thư của George từ trước đến nay. Nhưng riêng hai dòng ngắn ngủi đó đặc biệt khắc ghi trong lòng cô và chúng vẫn âm vang trong tâm trí cô không biết bao nhiêu lần một ngày.

South Riding quả là quyển sách đầy cảm hứng. Câu chuyện lấy bối cảnh sau cuộc Chiến tranh Thế giới thứ Nhất, các cộng đồng trở nên gắn bó, nương tựa vào nhau và một cô hiệu trưởng đã thắp lên niềm hi vọng ở một nơi hầu như chẳng còn lại chút gì. Đó là một câu chuyện đầy rung động chứng minh rằng con người có thể vượt qua mọi nghịch cảnh mà cuộc sống ném vào họ.

Giống như nước Anh bây giờ.

Cậu bé đến nghe đọc sách hôm nay có thân hình cao gầy, mảnh khảnh, đội chiếc mũ lưỡi trai sùm sụp trên mái tóc đen bù xù. Cậu mặc chiếc áo khoác thùng thình so với đôi vai thiếu niên gầy gò và chiếc quần dài đến mắt cá chân. Tất cả đều lấm lem.

Chú bé lén luồn người vào cửa hiệu khi giờ đọc đã bắt đầu và thu mình ngồi trong cái bóng của một kệ sách cao chót vót. Tuy nhiên, cậu càng cố gắng không để ai nhìn thấy mình thì càng khiến mọi người chú ý nhiều hơn. Grace âm thầm để ý thấy cậu kéo cặp chân khẳng khiu lại để ngồi lên, rồi bỏ chiếc mũ lưỡi trai ra để lộ khuôn mặt hốc hác, tiều tụy nhưng vẫn lắng nghe chăm chú. Người khán giả nhỏ tuổi cứ ngồi yên như vậy nghe đến tận chữ cuối cùng, sau đó kéo sụp cái mũ xuống và rời khỏi tiệm, lặng lẽ mau mắn y như lúc đến.

Grace không chỉ nhìn thấy cậu bé vào mỗi một lần ấy. Cậu tiếp tục đến thường xuyên vào những ngày sau đó, vẫn chỉ mặc độc một bộ quần áo nhàu nhĩ, bẩn thỉu và quyết tâm “tàng hình” không để ai trông thấy.

Nhưng làm sao người ta có thể không nhìn thấy một đứa trẻ đang rất cần được giúp đỡ như vậy?

Grace để sẵn vài món quà bánh nho nhỏ ở chỗ chú bé hay ngồi, khi thì một trái táo, khi thì chút bánh mì nhưng cậu chẳng bao giờ để ý đến, chắc hẳn cậu cho rằng chúng là của người khác. Chú bé rất cần được giúp đỡ, và Grace biết rõ ai có thể làm được việc đó.

Chiều hôm ấy, cô đợi đến khi hai bác cháu ngồi xuống bàn ăn thưởng thức bánh Woolton, một món rau trộn với vỏ bánh khoai tây. Bác Weatherford đã làm món này vài lần kể từ khi học được công thức qua chương trình The Kitchen Front, một chương trình dạy nấu ăn mà sáng nào bác cũng đều đặn nghe sau chương trình thời sự lúc 8 giờ của đài BBC.

Grace rưới thêm chút nước xốt lên lớp vỏ bánh nhạt nhẽo và thấy rằng đây là thời điểm thích hợp hơn cả để nói về chủ đề này. Cô lên tiếng hỏi, “Bác ạ, bác có nghĩ đến việc quay lại Hội Phụ nữ tình nguyện không?”

Bác Weatherford chấm chiếc khăn ăn lên môi. “Không cháu ạ.” Bác trả lời một cách dứt khoát, đúng như Grace đã đoán trước.

“Với tình trạng của bác hiện giờ, bác không thể giúp được gì cho ai cả.”

“Bác đã làm rất nhiều điều cho cháu.” Grace cắn một miếng bánh với lòng biết ơn sâu sắc.

Bác Weatherford mím môi lại như đang nở một nụ cười, “Một mình cháu làm đã quá đủ cho cả hai chúng ta rồi. Cháu nhất định phải giữ gìn sức khỏe.”

“Nếu như có người cần đến bác thì sao ạ?”

“Chẳng ai cần bác cả.”

“Cháu cần,” Grace phản đối. “Và có một cậu bé cũng đang cần được giúp đỡ.”

“Một cậu bé?” Bác Weatherford nhìn Grace bằng ánh mắt mệt mỏi, gần như không có chút nhẫn nại nào.

Grace kể cho bà nghe về chú bé rách rưới, rụt rè vẫn thường đến nghe cô đọc sách, “Cháu nghĩ cậu ấy không còn cha mẹ chăm nom và cũng đã quá tuổi nên không được đưa vào trại trẻ mồ côi.”

Người bác nhân hậu tựa lưng vào ghế, xót xa, “Thằng nhỏ đáng thương.”

Thật đau lòng vì nhiều trẻ em đang lâm vào cảnh ngộ cơ nhỡ. Các trại mồ côi tuy đông đúc, nhưng chẳng có gì lạ khi người ta vẫn thấy những đứa bé lớn hơn lang thang trên phố kiếm kế sinh nhai. Chúng chẳng cần ai giúp đỡ, hoặc là do chúng nghĩ vậy. Những bộ quần áo tả tơi và những đôi má hóp đều nói lên rằng bọn trẻ rất cần được cưu mang.

Bác Weatherford lắc đầu, “Nhưng bác có thể làm gì đây?”

Grace so vai, “Cháu hi vọng bác nghĩ ra được vì cháu không biết nên giúp thằng bé thế nào, nhưng cháu cảm thấy cần có ai đó giúp nó trước khi nó bỏ đi. Và ngoài kia vẫn còn rất nhiều đứa trẻ khác cần được nâng đỡ như cậu ấy.”

Nghe vậy, bác Weatherford im lặng, nhưng Grace thấy đôi mắt bác nheo lại, thấp thoáng tia sáng lấp lánh như ngày trước. Tuy bề ngoài bác vẫn tỏ ra thờ ơ nhưng thật ra bác đang vắt óc nghĩ ra giải pháp khả dĩ nào đó.

Ca trực đêm đó nguy hiểm như nghìn cân treo sợi tóc. Bom rơi nhiều vô kể. Người chết như ngả rạ. Grace và ông Stokes tránh được một quả bom trong gang tấc. Quân Đức đã bắt đầu chuyển sang nhảy dù để gài mìn xuống. Khi phát nổ, phạm vi sát thương của chúng có thể lan rộng đến hai dặm.

Bất kể đã nhìn thấy bao nhiêu nạn nhân, Grace vẫn quặn lòng khi nhìn thấy từng người ra đi. Mỗi cái tên đều ghi tạc vào tim. Mỗi kí ức đều khắc sâu trong tâm trí. Và cô không phải người duy nhất đau đớn trước lưỡi hái tử thần. Lực lượng cứu hộ đặc biệt - những người chịu trách nhiệm đào xới đống đổ nát để tìm thi thể hay bất cứ thứ gì còn sót lại, họ thường chuyền tay nhau một bình nước trong lúc làm việc và chắc chắn không thể hoàn thành nhiệm vụ rùng rợn này nếu không có sự phù hộ từ các linh hồn của những người đã khuất. Những người ấy cũng sẽ không bao giờ quên được cảnh tượng họ từng chứng kiến.

Bởi vậy, sáng hôm ấy khi Grace trở về nhà trong kiệt sức và đau đớn, cô chợt ngửi thấy mùi bánh mì nướng thơm ngậy tỏa ra và cảm thấy tâm trạng phẫn uất đã được xoa dịu đáng kể. Nhất là khi đã rất lâu rồi bác Weatherford mới nướng bánh trở lại và sử dụng những túi bột bí ẩn nào đó. Bác thật sáng suốt khi đã để dành và nấu nướng một cách hết sức dè sẻn. Suốt nhiều tháng qua, họ đã biết rằng cho dù một thực phẩm hay nguyên liệu không nằm trong danh sách hạn chế nguồn cung thì cũng không thể dễ dàng tìm mua nó.

Và Grace nghĩ rằng cô đã biết ai sẽ nhận được ổ bánh mì ngon lành đó.

Chiều hôm đó, bác Weatherford đến hiệu sách Đồi Primrose trước giờ đọc sách của Grace. Đôi mắt tinh anh của bà lướt qua những khuôn mặt xung quanh. Cậu bé đó bước vào ngay trước khi cô bắt đầu đọc và ngồi yên lặng lắng nghe. Khi cô đọc xong đoạn cuối cùng, cậu đứng dậy ngay. Bà Weatherford cũng thế.

Grace vừa tập trung vào đoạn văn trong sách vừa khẽ liếc nhìn người bác.

Bác tiến lại gần cậu bé đang đứng trong cái góc lẻ loi đó. Cậu sững người và im lặng nhìn bác bằng cặp mắt tròn xoe khi được bác tặng cho ổ bánh mì. Chú bé chăm chú ngó ổ bánh, lâu đến nỗi Grace tưởng rằng cậu sẽ từ chối nó.

Bác Weatherford gật đầu rồi nói gì đó mà Grace không nghe được. Và, nhanh như một viên đạn, cậu chộp lấy ổ bánh, nhét vào trong áo khoác và chạy vụt ra khỏi cửa tiệm.

Người bác bắt gặp ánh mắt của Grace rồi gật đầu với vẻ đầy tự hào. Bà đã giúp được thằng nhỏ. Chí ít chú bé cũng sẽ có đủ thức ăn cho một ngày.

Nhưng Grace biết rằng bác Weatherford sẽ làm được nhiều hơn thế. Không chỉ ngày hôm nay mà sẽ còn nhiều ngày sau đó. Khi trở về nhà, Grace thấy những lá thư mà người bưu tá đẩy qua khe cửa không còn nằm vương vãi trên sàn như mọi khi. Chúng đã được xếp gọn thành một chồng đặt gần cửa, trông ít hơn đáng kể so với khi để lung tung.

Trên cùng là thư của Viv và bên dưới còn có thư của George. Thật không còn gì may mắn hơn khi niềm hạnh phúc được nhân đôi. Và đến lúc Grace mở thư, cả hai đều gửi cùng một lời nhắn khiến cô hét lên vì quá đỗi hân hoan.

Cả Viv và George đều sẽ cùng trở về London vào dịp Giáng sinh này.