← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 16

Vào một ngày cuối tháng Mười, Grace nhận được thư của Viv và George báo rằng họ sẽ về nhà nghỉ lễ một thời gian. Một tuần sau đó, London lần đầu tiên có được một đêm nghỉ ngơi yên bình không một tiếng bom.

Thời tiết chuyển biến thật tồi tệ. Mưa quất ràn rạt, sấm gầm gào như con quái thú và những tia chớp xé toạc bầu trời mây vần vũ. Đêm nay, Grace đi tuần với ông Stokes và cả hai đều đoán trước rằng rất có thể sẽ không xảy ra không kích. Sau một hồi phấn khích, thời gian còn lại của ca trực kéo dài lê thê tưởng như vô tận trong nỗi chán chường dưới cơn mưa dai dẳng không ngừng quất vào người.

Sáng hôm sau, những người trú ẩn trong ga tàu điện ngầm thức dậy với đôi mắt sáng ngời và nụ cười sảng khoái sau một giấc ngủ ngon lành. Làm sao có thể không ganh tị khi họ được nghỉ ngơi đầy đủ cả đêm trong bộ quần áo khô ráo ấm áp. Nhưng tối nay sẽ đến lượt Grace tận hưởng niềm hạnh phúc đó vì cô không có ca trực.

Được ngủ một mạch suốt đêm mà không phải giật mình dở giấc vì tiếng còi báo động không kích dồn dập quả là một điều tuyệt diệu.

Dĩ nhiên, những đêm thanh bình như vậy không kéo dài lâu, nhưng tần suất ném bom cũng đã thưa thớt dần.

Nếu không còn gì khác thì chí ít, một vài đêm êm ả hiếm hoi này đã cho mọi người cơ hội nghỉ ngơi và thở phào nhẹ nhõm sau nhiều tuần liền chống chọi với đợt tấn công dữ dội. Tuy nhà ga Farringdon đã bảo vệ an toàn cho rất nhiều người chen chúc ngủ dưới trần nhà kiên cố của nó, nhưng chắc chắn đây không phải là nơi trú ngụ lý tưởng. Sàn nhà cứng như đá, trà thì bán với giá đắt gấp đôi những quán cà phê bên ngoài, cộng thêm đủ mọi âm thanh của người qua kẻ lại, chuyện trò, ho hắng, ngáy ầm ầm vang vọng xung quanh suốt đêm. Chưa kể đến các loại mùi mà tốt nhất không nên miêu tả tỉ mỉ thì hơn.

Tuy việc sung sướng khi được ngả lưng trên chiếc giường êm ái của chính mình chẳng phải điều gì xa xỉ, nhưng nếu được ngủ một đêm trọn vẹn mà không bị tiếng còi đáng sợ đột ngột đánh thức thì cho dù phải nằm lăn lóc trên sàn ga tàu đi chăng nữa cũng đã may mắn lắm rồi.

Thời tiết giao mùa ở Anh ngày càng khắc nghiệt và chưa bao giờ người dân London lại vui mừng hân hoan đến thế. Sương mù, mưa và những cơn gió dữ sẽ góp phần kìm chân bọn Đức. Nhưng thật không may, điều đó chỉ càng khiến cho các cuộc tấn công về đêm trở nên tàn bạo hơn.

Tin tức về các khu vực bị đánh bom tràn ngập trên báo chí. Mọi thông tin đều đã được kiểm duyệt hoặc đưa ra một tuyên bố đại khái về thảm kịch nếu họ không biết viết gì. Những bài viết cũng nhắc nhở các bậc cha mẹ London rằng họ có thể đưa con cái mình về nước mà không tốn bất cứ chi phí nào.

Grace không thể tưởng tượng nổi một đứa trẻ sẽ ra sao khi phải sống giữa cảnh bom đạn triền miên thế này. Có lẽ sẽ giống như cậu bé vẫn thường đến nghe cô đọc sách.

Tiếp xúc với bác Weatherford lâu ngày, cậu thiếu niên đó dần dần bớt lầm lì hơn. Sự dịu dàng, nhẫn nại của bác khiến cho Grace nhớ đến Colin. Cách bác quan tâm đến chú bé đang sợ sệt giống hệt như cách Colin chăm sóc những con vật bị thương ngày trước. Những hồi ức đó lại xoáy vào vết thương ở nơi yếu đuối nhất trong lòng Grace mà cô biết là chẳng bao giờ lành lại.

Không một điều gì có thể thay thế được Colin.

Nhưng Grace thầm mừng rỡ khi thấy bác Weatherford dần dần lấy lại sức sống.

Mãi đến giữa tháng Mười Hai, sự chăm sóc âm thầm nhẫn nại của cô cuối cùng đã được đền đáp khi cậu bé chịu nán lại sau buổi đọc sách để trò chuyện với cô. Grace thận trọng đến gần hai bác cháu, cô lo rằng mình sẽ dọa cậu sợ bỏ chạy.

“Thằng bé biết cháu đang ở với bác.” Bác Weatherford vẫy cô lại. “Lại đây gặp Jimmy này.”

Cậu bé cởi chiếc mũ ra và cúi đầu chào Grace, để lộ mái tóc đáng thương bết nhờn, đen sạm vì bụi bẩn. Jimmy ngước lên, bắt gặp ánh mắt của cô. Đôi mắt cậu xanh trong, to tròn và sáng lấp lánh trên khuôn mặt hốc hác, “Cảm ơn chị vì đã đọc sách cho mọi người nghe. Và còn cho em thức ăn nữa.”

Phía sau chú bé, ông Evans nhướng đôi mày rậm rạp, ra ý hỏi có cần ông giúp gì không nhưng Grace kín đáo lắc đầu.

“Bác và chị rất vui khi giúp được cháu.” Bác Weatherford đáp. “Bác có thể hỏi cha mẹ cháu bây giờ đang ở đâu không?”

Jimmy nhấp nhổm, “Họ đều qua đời cả rồi.”

Tuy Grace đã đoán trước câu trả lời này nhưng cô vẫn không thể nén được nỗi đau buồn. Thằng bé còn quá nhỏ để tự mình bươn chải với đời.

“Đã có chuyện gì xảy ra với cha mẹ cháu?” Bác Weatherford tiếp tục gợi chuyện.

Cậu bé so vai, “Một đêm nọ họ đi ra ngoài, ngay trước khi cuộc không kích xảy ra và chẳng bao giờ trở về nữa. Chắc là bị trúng bom, cháu đoán vậy,” giọng cậu nhỏ nhẹ và có vẻ còn ngây thơ. Jimmy xoa xoa cằm, chỗ mấy sợi râu đen lún phún bắt đầu mọc lên. “Họ nói với chúng cháu…” Đôi mắt cậu mở to vì bị trượt chân. “Họ nói với cháu là sẽ về nhà nhanh thôi nhưng rồi họ không bao giờ trở về nữa.”

Nhưng bác Weatherford không bao giờ chấp nhận một câu chuyện nửa vời.

“Chúng cháu sao?” Bà hỏi dồn. “Kể tiếp đi, Jimmy. Cháu biết chúng ta sẽ không làm hại cháu mà.”

Cậu bé di di đôi giày sờn rách trên sàn nhà. “Em gái cháu, Sarah với cháu.” Jimmy bẽn lẽn liếc nhìn Grace. “Con bé cũng rất thích những câu chuyện của chị nhưng em ngại đưa nó theo vì nó còn quá nhỏ. Nhưng em sẽ kể lại cho nó nghe khi em về nhà.”

“Giáng sinh này cháu đến nhà bác,” bà Weatherford đề nghị. “Đưa em cháu theo nữa. Bác có ít quần áo cho hai đứa.” Câu nói sau cùng của bác được nói ra một cách nhẹ tênh nhưng Grace biết bên trong chất chứa bao nhiêu đau xót. Đó không chỉ là “một ít quần áo” mà chúng còn từng là quần áo của Colin.

Cậu bé liếc nhìn với vẻ đầy băn khoăn, “Cháu sẽ suy nghĩ ạ.”

“Nhớ đến nhé,” người bác tốt bụng dặn thêm và đưa địa chỉ cho Jimmy. “Chúng ta sẽ có một chiếc bánh pudding Giáng sinh ngon tuyệt và có thể thêm vài chiếc bánh tart mật đường nữa.”

Jimmy nuốt nước bọt như thể cậu đã nếm được vị ngọt trong lời mời mọc hấp dẫn đó. Rồi cậu gật đầu, lúng búng nói cảm ơn và vội vàng chạy ra khỏi hiệu sách.

“Ông cũng phải tham gia với chúng tôi đấy nhé, ông Evans,” bác nói to. “Đón Giáng sinh với chúng tôi tốt hơn là thui thủi một mình chứ.”

Ông Evans thò đầu ra khỏi cái kệ mà ông trốn biệt ở đằng sau, “Bà có thấy mình lo chuyện bao đồng quá không, thưa bà?”

“Thế ông có phải một ông già thô lỗ cộc cằn không?” Bác mím môi và nhìn ông thách thức.

Ông cười giễu đáp lại.

“Thế 2 giờ đến nhé?” Bà nhẹ nhàng hỏi, đôi mắt ánh lên tia sáng lấp lánh mà Grace vẫn ưa nhìn.

Ông chủ tiệm lại biến mất sau kệ sách, “Rồi! 2 giờ.”

Vài ngày sau, Grace xin nghỉ làm ở cửa hàng và cuộn tròn trên ghế sô pha đọc cuốn Hồn ma đêm Giáng sinh của Charles Dickens. Cô đã đọc một số tác phẩm của nhà văn này nhưng đặc biệt để dành quyển đó lại cho dịp Giáng sinh.

Gian phòng khách đã được trang hoàng chuẩn bị đón lễ nhưng không được rực rỡ như thường lệ. Những vật trang trí nhỏ trên cây thông mất đi vẻ lấp lánh vì phải tuân thủ quy định tắt đèn, và các vòng hoa thay vì được làm bằng những nhánh cây tươi xanh thì nay thay bằng giấy báo in màu. Thiệp chúc mừng cũng bị ảnh hưởng do chính sách hạn chế cung cấp giấy, chẳng những nhỏ lại mà còn mỏng dính nên không thể nào dựng đứng thẳng được. Hơi nóng của lò sưởi càng làm cho mấy tấm thiệp thêm phần quăn queo.

Mùa Giáng sinh này không giống như những mùa Giáng sinh năm xưa mà cô bé Grace thường đón mừng với mẹ, và thật ra bây giờ cũng chẳng còn ai có được một ngày lễ bình yên như trước nữa. Thậm chí, hầu hết mọi người sẽ không ở lại London trong dịp này. Ở lại làm gì khi chiến tranh đang tàn phá.

Ai có người thân ở quê thì đều tìm cách về thăm họ. Phải, bất kì ai, chỉ trừ Grace.

Cô đang đọc dở vài trang sách đầu tiên thì tiếng chuông lanh canh vang lên rồi cánh cửa bật mở.

Bác Weatherford đang ở trong bếp chuẩn bị bữa tối, và từ vài nguyên liệu ít ỏi được cho phép trong giai đoạn này như xúc xích, bác sẽ “hô biến” nên những điều kì diệu. Như vậy nghĩa là chỉ còn một người duy nhất có chìa khóa của ngôi nhà này.

Viv.

Grace reo lên sung sướng và đứng bật dậy khỏi ghế. Viv thấy vậy liền thả hành lý xuống và đáp lại bằng nụ cười toe toét nở trên đôi môi xinh đẹp thoa son rực rỡ.

Trông Viv vẫn đáng yêu như ngày nào với mái tóc đỏ uốn lọn bên dưới chiếc mũ bảo hộ. Cô mặc bộ đồng phục kaki nhưng vẫn toát lên vẻ thanh lịch hơn hẳn bao người khác trong bộ quần áo thời thượng nhất.

“Grace.” Viv trìu mến ôm lấy bạn. Vòng tay của cô tỏa ra hương nước hoa ngọt ngào tuy không còn nồng nàn như trước, và lúc này còn phảng phất hơi ẩm và cái se lạnh từ bên ngoài.

Grace ôm chặt cô bạn thân thương nhất. “Gặp lại cậu tớ mừng lắm.”

“Đã rất lâu, lâu lắm rồi.” Viv đặt đôi tay còn lạnh cóng lên hai má Grace. “Tớ nhớ cậu nhiều lắm đấy, Vịt con ạ.”

“Viv hả con?” Bác Weatherford đẩy cửa bếp ra và ngẩn người nhìn cô một lúc với đôi mắt rưng rưng. “Con gái, con về rồi thì tốt quá.”

Viv cười tươi rói, “Con cũng rất vui vì được gặp lại bác.” Cô đến gần người bác thân thương và ôm chặt bà thật lâu. Viv thủ thỉ với bác nỗi đau buồn trước sự hi sinh của Colin, những điều mà chỉ đôi ba dòng thư ngắn ngủi không thể nào nói hết.

Dựa đầu trên vai Viv, vẻ mặt bác Weatherford nhăn lại đầy đau khổ bởi bác thấm thía hết những lời cô nói. Rồi bác lùi lại và lấy khăn chấm lên khóe mắt. “Giờ cháu lên cất đồ đi. Bác sẽ đặt siêu nước. Cháu có thể ở…” Bác nặng nề nuốt khan. “… ở bất cứ phòng nào cháu thích.”

Người mẹ đáng thương vội vã quay người đi mà không giải thích thêm gì, và thật ra cũng không cần giải thích.

Phòng của Colin.

“Tớ vẫn thích ở phòng của chúng ta.” Viv cởi mũ bảo hộ ra và treo lên chiếc móc bên cạnh cửa. “Dù gì suốt thời gian qua tớ cũng ở chung phòng với ba đồng đội ATS nữa. Dĩ nhiên là nếu như cậu chưa quen việc làm chủ cả căn phòng đó cho riêng mình.”

“Cô đơn lắm Viv ạ.” Grace nhanh tay xách hành lý của bạn rồi mang lên cầu thang trước khi Viv kịp đụng đến.

Trong căn phòng chung của hai cô gái, Grace đặt túi xách của Viv lên chiếc giường bằng kim loại mà trước đây bạn cô đã ngủ. Mọi thứ vẫn sạch sẽ tinh tươm kể từ lần giặt giũ đầu tiên sau khi Viv rời đi.

Trong lúc Viv vừa dỡ đồ đạc ra, hai người vừa trò chuyện từ chỗ lần trước họ vừa ngừng lại, như thể giữa họ chưa từng có khoảng thời gian xa cách.

Viv bật cười thích thú khi nghe Grace kể về chuyện làm vườn và kinh nghiệm diệt sâu bọ của hai bác cháu. Rồi cô rưng rưng khi biết chuyện của bác Weatherford, Colin và cậu bé Jimmy. Grace cũng chia sẻ về nhiệm vụ của mình ở đội giám sát phòng không và những đêm đi tuần với ông Stokes, nhưng cô giấu nhẹm mọi nguy hiểm trong công việc cũng như những cảnh tượng hãi hùng mà mình từng chứng kiến.

Nhưng mọi nỗ lực che giấu đều vô ích bởi Viv hiểu rõ bạn mình hơn ai hết. Sau khi nghe Grace kể về tình hình ở London suốt thời gian qua, Viv xích lại và chạm nhẹ vào chiếc vòng trên cổ tay bạn. “Mọi chuyện tệ hơn tớ nghĩ,” cô khẽ khàng nói. “Có thể cậu cố gắng giấu đi nhưng tớ biết giám sát không kích phải làm những gì. Tớ biết công việc của cậu vô cùng nguy hiểm.”

“Tất cả chúng ta đều đang cố gắng góp chút sức mình,” Grace đáp, không muốn xoáy sâu vào những vấn đề như vậy trong một dịp quá đỗi hạnh phúc khi người bạn thân đã an toàn trở về. “Còn cậu thì sao? Những chuyện cậu muốn kể trong thư đều bị người kiểm duyệt xóa hết nên tớ phải tự tưởng tượng ra.”

Viv mỉm cười đáp lại, “Vậy hả? Vậy cậu vui lòng đoán xem tớ đã làm gì.”

“Cậu là một điệp viên,” Grace hài hước đoán. “Cậu đã đến Pháp và giải cứu một số con thuyền chở đầy quân nhân trong vụ tấn công Dunkirk, sau đó bay đến Đức, choàng chiếc khăn lông chồn sang trọng để đích thân khai thác bí mật từ Hitler. Cậu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, cung cấp cho chúng ta mọi thông tin tình báo cần thiết để sớm kết thúc cuộc chiến này.”

Viv bật cười khanh khách, “Ồ, giá mà tớ ngầu như vậy. Thật ra không biết cậu có tin không nhưng tớ làm người theo dõi ra đa.” Cô gấp một chiếc áo len màu hồng và cất vào ngăn kéo. “Và hóa ra, tớ giỏi toán hơn tớ nghĩ.”

“Tớ không bất ngờ chút nào.” Grace nghiêm túc nói. Bạn cô luôn đánh giá thấp trí thông minh của chính mình. “Ra đa hoạt động thế nào?”

Viv ngồi xổm trước chiếc tủ có ngăn kéo, “Thú vị lắm, nhưng cũng rất buồn. Chúng tớ tiễn những người lính lên đường sang Đức để ném bom. Trong đó có nhiều người đã lập gia đình và những người vợ phải tiễn chồng đi.” Miệng Viv méo đi như thể cô đang cắn môi.

Có rất nhiều điều không được nói ra về cuộc chiến này. Rất nhiều điều chỉ được ngầm hiểu trong im lặng.

Grace đã chứng kiến quá nhiều máy bay Đức bị bắn rơi, điều đó đủ để biết rằng hễ quân Anh tấn công quân Đức bao nhiêu thì chúng sẽ đánh trả bấy nhiêu. Biết bao người lính đã một đi không trở lại.

“Tuy vậy các vũ trường vẫn rực rỡ hằng đêm.” Viv đứng dậy và lấy một lọ sơn móng tay đỏ chót trong ngăn kéo của chiếc bàn cạnh giường. Cô đã để nó trong đó trước khi đi tình nguyện. “Các anh quả thực đã xếp hàng khiêu vũ thâu đêm đến tận trời sáng lúc nào không hay.”

Viv mở nắp lọ sơn, một mùi hăng hắc quen thuộc nhanh chóng tràn ngập khắp phòng. Nó gợi nhớ đến mùi vị của những đêm khuya ở trang trại làng Drayton, những buổi chiều mùa hè rảo bước trên cánh đồng, nhặt nhạnh những hạt giống nổi lềnh bềnh trên mặt nước bóng loáng và mơ màng về một ngày nào đó đặt chân đến London.

Grace khẽ mỉm cười về những hồi ức đó. Chưa bao giờ họ nghĩ đến một ngày mình sẽ ở đây, Grace làm giám sát phòng không và nhân viên của một hiệu sách, còn Viv phụ trách theo dõi ra đa cho đội ATS.

“Các anh ấy chắc đêm nào cũng xếp hàng chờ đến lượt nhảy với cậu nhỉ,” Grace trêu bạn.

“Làm gì có.” Viv lướt cọ sơn trên ngón tay cái, để lại một vệt màu đỏ anh đào ngay chính giữa móng tay. “Cậu đến West End bao giờ chưa?”

Khu West End của London có những khách sạn sử dụng tầng hầm làm phòng khiêu vũ thâu đêm. Muốn đến đó thì rất dễ nhưng lại không thể trở về nhà vì các ga tàu điện ngầm đều đóng cửa vào buổi tối để làm hầm trú ẩn, và hầu như chẳng có taxi nào chịu chạy dưới mưa bom bão đạn cả. Bởi vậy, đa số mọi người đến vũ trường đều sẽ mang theo quần áo sạch để thay và trả một khoản phí bao gồm vé vào cửa, tiền thuê phòng nghỉ lại qua đêm và một bữa điểm tâm nhẹ cho sáng hôm sau.

“Tớ nghĩ cậu hiểu tớ rõ quá mà.” Grace ngồi trên giường, khoanh hai chân lại.

Viv ngắm nghía bộ móng mới sơn rồi đưa mắt nhìn Grace bật cười, “Chúng ta phải đến đó. Ai cũng nói buổi tối ở khu West End của London là tuyệt cú mèo! Tin tớ đi, cậu sẽ thích cho xem.”

Grace biết chắc rằng nếu chỉ một mình mình đi thì sẽ chẳng vui vẻ gì. Với lại, cô cũng không còn mấy buổi tối rảnh rang để vui chơi. Nhưng nếu với Viv thì, Grace nghĩ, biết đâu cả hai sẽ có một khoảng thời gian thú vị.

Grace gật đầu, “Lúc nào rảnh mình đi.”

Viv cười rạng rỡ, “Cậu sẽ có một đêm tuyệt nhất trong đời. Tớ hứa đấy.”

Viv nói quả không sai. Đêm hôm sau, Grace đến khách sạn Grosvenor House tham dự một buổi tiệc dạ vũ với phí vào cửa là hai shilling. Hai cô gái chọn hai chiếc đầm xòe xinh đẹp nhất. Viv nổi bật trong chiếc váy xếp li đỏ rực rỡ, xuyệt tông với màu sơn móng tay và son môi, còn Grace mượn của bạn mình bộ đầm màu lam nhạt thanh thoát với tay áo gấp. Họ cuộn mình trong chiếc áo khoác ấm áp để chống lại tiết trời lạnh cắt da của tháng Mười Hai và gọi taxi đến phố Park. Khách sạn Grosvenor House chào đón hai vị khách trẻ bằng bức tường bao cát cao ngất bao bọc quanh tòa nhà và những ô cửa sổ đen kịt dưới bầu trời đang dần sẫm lại.

Grace và Viv để túi quần áo ngủ qua đêm tại quầy tiếp tân và được dẫn vào đại sảnh. Ở đó, điệu nhạc jazz sôi động đang vang dội khắp sàn nhà bóng loáng và vòm trần cao vút. Mọi người tiến ra phía trước gian phòng, xoay tròn trên sàn nhảy. Những đôi chân mang bít tất dài thoăn thoắt uyển chuyển theo điệu jitterbug. Các quý bà quý cô say sưa lắc hông đến nỗi có thể thấy chiếc quần trong lấp ló dưới lớp váy đang xoay tít mù.

Cảm giác phấn khích dâng tràn khắp người Grace, và nó xuyên qua màn sương mù dày đặc của sự mệt mỏi đã bao trùm lên cô suốt mấy tháng qua.

Viv gọi hai ly cocktail French 75s và bắt gặp ánh mắt đầy thắc mắc của Grace kèm theo nụ cười toe toét. “Món khoái khẩu của tớ.” Cô phải hét to để át tiếng nhạc xập xình. “Họ nói cái này phê hơn nhiều so với đạn 75mm của Pháp. Nó cũng sẽ đẩy cậu mạnh dạn lên sàn nhảy đấy, Vịt con à.”

Món cocktail được phục vụ trong hai chiếc ly thủy tinh cao và trên mặt nước còn có những bọt bong bóng sủi lên như nhảy múa. Vị chua chua ngọt ngọt của món nước thấm vào cổ họng Grace, với làn hơi làm tê rần cả lưỡi và một hơi ấm lan tỏa khắp người cô. Chỉ cần một ngụm thôi cũng đủ làm tan chảy mọi rào cản ngượng ngùng và thôi thúc Grace đắm mình vào điệu nhạc máu lửa của ban nhạc sống đang chơi hết mình trên sân khấu.

Grace và Viv say sưa nhảy suốt đêm. Họ khiêu vũ với những người lính, với những người đàn ông vì có công việc đặc biệt nên được miễn ra trận, và thậm chí họ tự nhảy với nhau. Đến hết đêm đó, hai má Grace nhức ê ẩm do cười quá nhiều và cả người cô vẫn bồi hồi phấn khích vì ánh đèn sáng choang, vì món cocktail nồng nàn và vì niềm vui cháy bỏng của những điệu nhảy.

Đây là lần đầu tiên kể từ khi bắt đầu xảy ra không kích, từ khi báo chí bắt đầu liên tục đưa tin về những vụ tấn công triền miên của bọn Đức, Grace mới có thể gác lại mọi thứ sang một bên. Cô thôi nghĩ về bom đạn, về những thảm kịch mà chúng gây ra, thôi trăn trở về sự bất lực rằng bất kể cô nỗ lực đến thế nào thì cũng không thể giành lại hòa bình cho thế giới vào lúc này.

Grace đang sống.

Grace còn trẻ.

Và cô đang tận hưởng niềm vui.

Đó mới chính là cuộc sống ở London mà đáng lẽ cô và Viv nên nhận được - một tuổi thanh xuân rực rỡ, ngập tràn hạnh phúc và tất cả mọi điều Grace đã ao ước ấp ủ từ rất lâu.

Dư âm của buổi tiệc đã giữ cho nụ cười tươi nở trên môi Grace đến tận sáng hôm sau, sau khi họ tắm rửa sạch sẽ và bước ra khỏi khách sạn Grosvenor House để đặt chân vào một thế giới đầy tuyết và khói bụi.

Dưới ánh sáng ban ngày, mùi vị quen thuộc của chiến tranh như đấm thẳng vào Grace, quét đi sạch sẽ mọi niềm vui. Những đống gạch vụn và mảnh kính vỡ vương vãi trên con đường ngay trước lối vào được dọn dẹp tinh tươm của khách sạn. Trong các tòa nhà xung quanh, vài ngọn lửa vẫn bập bùng cháy, mùi dầu nồng nặc trong không khí báo hiệu có hỏa hoạn.

Chỉ đến lúc đó, Grace mới nhận ra những đốm sáng bay trong không khí hoàn toàn không phải tuyết mà chính là tàn tro.

“Hai cô có cần tôi gọi giúp taxi không?” Một nhân viên khách sạn ngỏ lời.

“Sao chúng tôi ở bên trong đó mà không hay biết chuyện gì đã xảy ra hết vậy?” Grace run run hỏi qua đôi môi tê tái. “Tôi không nghe thấy gì cả.”

“Nhờ các bao cát ạ.” Người nhân viên ưỡn ngực đầy tự hào. “Chúng tôi đã chất rất nhiều bao cát, nó sẽ chặn hết mọi tiếng bom.”

Một cơn ớn lạnh len vào các mạch máu trong người Grace nhưng chắc chắn không phải vì cơn gió lạnh buốt đang thổi. Họ sẽ không bao giờ nghe được còi báo động không kích. Thật dễ dàng tưởng tượng hậu quả nếu một quả bom rơi xuống một căn phòng lớn đầy người như vậy. Tất cả đều mải mê nhảy nhót, chè chén say sưa và chẳng hay biết gì. Lúc này, cảm giác run rẩy lại một lần nữa chạy dọc sống lưng Grace.

Và ngay khi cô nhận ra điều đó, nỗi cắn rứt ăn năn lập tức trỗi dậy.

Trong khi những người dân ngoài kia phải oằn mình chịu bom, bị mất cửa mất nhà và mất cả mạng sống, trong khi các tình nguyện viên quần quật cả đêm để cứu giúp bất cứ ai hay bảo vệ bất cứ tài sản nào, thì Grace lại ở đây nhảy múa thâu đêm.

Một cơn đau nhói xuyên thẳng vào người Grace. Lẽ ra cô nên có mặt để giúp đỡ mọi người. Lẽ ra cô có thể sơ cứu, trấn an, hướng dẫn đội cứu hộ những nơi có thể tìm người và những chỗ cần được trợ giúp. Lẽ ra cô có thể xách bơm cứu hỏa đi khắp nơi để góp phần dập lửa. Lẽ ra cô có thể…

Viv quàng tay bạn vào khuỷu tay mình, “Đi, đi đến nhà ga.”

“Đáng lẽ tớ có thể giúp họ.” Grace để mặc cho bạn kéo đi, cô gần như không nghe thấy tiếng người nhân viên cảnh báo họ phải cẩn thận với những mảnh vỡ dưới chân.

“Có thể cậu đã mất mạng rồi,” Viv rít lên bằng giọng nói gay gắt chưa từng có.

Quả thật, tất cả bọn họ có thể đã bị giết chết đêm qua. Những bức tường cứng cáp hay bao cát dày đều không bảo vệ được gì, ngay cả khi họ ở dưới hầm. Grace đã nghe quá nhiều chuyện kể về những người trú ẩn trong hầm, họ yên tâm rằng mình đã an toàn nhưng rốt cuộc vẫn bị đánh bom hoặc chôn thây trong đống đổ nát.

Thậm chí, khách sạn này còn không bao giờ thông báo cho khách biết là đang xảy ra không kích.

Chân họ giẫm lạo xạo lên các mảnh kính vỡ. Hơi nóng từ một đống gạch vỡ vụn phả về phía hai cô gái, chắc chắn lửa còn đang cháy ở đâu đó bên trong.

“Cậu vẫn lang thang ngoài đường giữa lúc bom giội thế này à?” Viv khẽ hỏi.

“Tất nhiên,” Grace cau mày. “Lẽ ra tối qua tớ nên có mặt ở đây.”

“Không.” Viv dừng lại trước mặt Grace và nhìn vào mắt bạn. “Cậu đã làm việc rất vất vả rồi. Cậu cần được nghỉ ngơi, giải trí, ít nhất là một đêm, và tớ rất vui khi cậu chịu thả lỏng mình.” Viv quan sát xung quanh với ánh mắt kinh hãi rồi quay lại nhìn Grace. “Lạy Chúa, cậu phải chứng kiến những thứ này đây.”

Rồi cô vòng tay siết chặt lấy Grace trong một cái ôm phảng phất mùi hương quen thuộc đậm chất Viv, thứ hương thơm hoa cỏ ngọt ngào át đi mùi hăng hắc cay sè trong không khí. “Cậu thật dũng cảm,” Viv thì thầm. “Vô cùng dũng cảm.”

Dũng cảm.

Tính từ đó như tạo ra một lực đẩy Grace lùi lại. Không, cô không hề dũng cảm. Cô chỉ làm nhiệm vụ mà bất kì người giám sát không kích nào cũng sẽ làm, và tuân theo những gì mình đã được huấn luyện. Trong tất cả các từ có thể tự miêu tả về bản thân, Grace chưa bao giờ nghĩ đến hai từ “dũng cảm”.

Được một lúc, Viv đứng thẳng người lại, lau nước mắt ở hàng mi dưới, chớp chớp mắt rồi nở nụ cười tự giễu mình. “Nếu cứ mít ướt thế này thì tớ sẽ làm lem hết phấn son mất. Thôi, mình về nhà để cậu còn nghỉ ngơi rồi chuẩn bị thật xinh đẹp cho chiều nay nữa chứ.”

Lời nhắc nhở của cô bạn khiến đôi má Grace nóng bừng lên. Chiều nay, George sẽ đến đón cô đi hẹn hò. Vậy mà đã hơn một năm trôi qua kể từ lần cuối hai người gặp nhau.

Những người đàn ông khiêu vũ với Grace đêm qua đã mời cô đi ăn tối hoặc hỏi địa chỉ để viết thư. Thậm chí vài người còn bạo dạn ngỏ lời xin Grace một nụ hôn, thiết tha bày tỏ rằng đây có lẽ là đôi môi cuối cùng mà họ được nếm trải. Grace từ chối hết tất cả một cách lịch sự nhất có thể, và thận trọng không nhảy với bất kì ai quá một lần để tránh khiến họ hiểu nhầm rằng cô có tình ý với họ.

Sau khi về nhà, Grace chợp mắt một chút. Chiều hôm ấy, sau một hồi Viv rối rít chọn tới chọn lui chiếc váy ưng ý nhất cho bạn mình, cuối cùng họ nhất trí lựa chiếc váy vải nhún màu đỏ anh đào bằng lụa. Grace thì nghĩ nó quá chói mắt nhưng Viv cứ một mực khăng khăng rằng nó hoàn hảo hết chỗ chê. Kết hợp với bộ váy là đôi giày gót thấp đúng điệu và chiếc túi xách tay đen có đường viền đỏ. Viv còn tự tay tạo kiểu cho cô bạn thân một kiểu tóc thời thượng và thanh lịch nhất với những lọn tóc vểnh ra ngoài phía sau khuôn mặt.

Thậm chí cô còn thuyết phục Grace tô thêm chút son đỏ thắm, và phải công nhận rằng màu son cực kì “ăn ý” với chiếc váy. Đây là bộ trang phục rực rỡ nhất mà Grace từng mặc. Cuối cùng, cô mang thêm một đôi tất dài mượt mà như lụa.

“Tớ cá chắc anh chàng sẽ đổ cái rầm khi thấy cậu,” Viv nói, nhướng đôi lông mày cong tuyệt đẹp lên.

Hai má Grace ửng lên khi tưởng tượng đến cảnh đó.

“Nhất là khi cậu e thẹn thế này.” Viv vỗ tay thích thú, sau đó cả hai cùng đi xuống cầu thang.

Bác Weatherford đang đứng đợi ở cửa ra vào. Vừa nhìn thấy Grace, bác liền đặt tay lên ngực, “Ôi, Grace.”

Cả người Grace nóng bừng lên, cô chỉ lo rằng bác sẽ chê mình ăn mặc diêm dúa quá. Trước nay cô có bao giờ phục sức bằng nhiều màu đỏ và còn mặc váy lụa như vậy đâu.

“Cháu đẹp lắm, cháu gái.” Bà Weatherford lắc đầu rồi thở dài. “Giá mà mẹ cháu được nhìn thấy cháu bây giờ.”

Grace chưa kịp trả lời thì tiếng chuông cửa vang lên khiến cô suýt vấp ngã ở bậc thang cuối cùng.

Cô và George đã hẹn ăn tối sớm để không bị cuộc đánh bom làm gián đoạn và Grace vẫn kịp tham gia ca trực tối nay. Liếc nhìn đồng hồ, cô thấy anh đã đến sớm một phút.

Miệng bác Weatherford vẽ thành chữ O với vẻ đầy mong đợi. Bà lùi lại để Grace tự mở cửa. Nhưng Grace không thể mở tung nó ngay mà lại kéo ra một cách hết sức chậm chạp hơn cô muốn.

George đang đứng bên kia cánh cửa. Chàng trai mà Grace đã thư từ qua lại suốt bao tháng nay để chia sẻ mọi buồn vui trong cuộc sống, người mà cô đã bộc bạch những tâm tình sâu kín nhất. Người đã đưa cô đến với thế giới của sách diệu kì.

Ngay lúc này, sau hơn một năm trời xa cách, cuối cùng Grace đã được gặp lại anh.