← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 17

Trái tim Grace bỗng đập rộn ràng khi cô bắt gặp đôi mắt xanh lục sáng lấp lánh của George Anderson.

Sau nhiều tháng không gặp, anh đã xuất hiện ở đây - bằng xương bằng thịt, với mái tóc đen nhánh chải gọn gàng sang một bên và trên người anh là bộ đồng phục Không quân Hoàng gia màu xanh đầy khỏe khoắn. Hai tay George vòng ra sau lưng với vẻ nhẫn nại trông như một người lính đang đứng nghỉ. Miệng anh mở ra như muốn nói gì đó trong lúc theo Grace vào nhà nhưng rốt cuộc anh không thốt lên được lời nào.

Cuối cùng, chàng trai nuốt khan, hắng giọng rồi lên tiếng, “Bennett… Grace… em thật…” Anh lắc lắc đầu như đang cố tìm ra từ miêu tả thích hợp.

Grace chưa bao giờ thấy George ấp úng như vậy. Trước đây, anh luôn nói năng rất mạch lạc và tự tin mỗi khi trò chuyện với cô. Hẳn là Grace đã khiến anh chàng rung động mạnh mẽ.

“Lộng lẫy,” cuối cùng George cũng tìm được một từ ưng ý và nhoẻn miệng cười. “Em thật lộng lẫy.”

Chàng trai rút thứ gì đó phía sau lưng rồi chìa ra trước mặt Grace một quyển sách. Trên chiếc bìa màu tím đầy vương giả là hình ảnh dập nổi bằng vàng của một người đàn ông đang đứng trên cái thùng lớn giữa đám người đông đúc. Trên cùng là tựa sách được mạ vàng: Hội chợ phù hoa.

“Lẽ ra anh nên mang hoa đến nhưng hình như toàn bộ hoa đã bị thay bằng bắp cải hết rồi.” George nghiêng quyển sách như thể đang đắn đo. “Nên anh nghĩ món quà thích hợp tiếp theo chắc là cái này. Có thể em sẽ thích nó vì trong thư em không nhắc đến là đã đọc cuốn này.”

“Em chưa đọc ạ.” Grace đón lấy quyển sách, rồi đột nhiên cảm thấy thẹn thùng khi đứng trước người con trai mà cô đã thường bộc bạch quá rõ về bản thân. “Và cái này tốt hơn hoa rất nhiều.”

Grace quay vào nhà để đặt quyển sách lên chiếc bàn nhỏ cạnh cửa. Cô thấy bác Weatherford và Viv đang nhướng mày quan sát với nụ cười toe toét có vẻ đợi chờ. Grace bật cười, “Để em giới thiệu với anh hai người bạn thân nhất của em, bác Weatherford và Viv.”

George bước vào nhà và được giới thiệu với Viv trước tiên. Cô chào lại anh một cách nhã nhặn. Sau đó, chàng trai quay sang bác Weatherford đang nhìn anh với nụ cười cởi mở.

Bác tỏ ra rất hào hứng khi trò chuyện với người lính trẻ về việc quay lại London và thăm hỏi về gia đình George hiện đang sống ở Kent. Thỉnh thoảng bác còn cười khúc khích nữa.

Sau màn “ra mắt”, George quay sang Grace và chìa cánh tay cho cô khoác. Anh đưa cô ra ngoài và họ cùng bước đến chiếc taxi đang đợi sẵn.

Cảm xúc hồi hộp, sung sướng khi thấy anh đến bỗng tan chảy thành niềm hạnh phúc tràn trề. Có điều gì đó thật đặc biệt khi hai người đã thấu hiểu những suy tư, trăn trở thầm kín của nhau. Suy cho cùng, việc trải lòng trên giấy bao giờ cũng dễ dàng hơn tâm tình trực tiếp rất nhiều. Rõ ràng giữa họ đã dệt nên một sợi dây kết nối sâu sắc.

Tuy có lẽ đây là buổi hẹn hò chính thức đầu tiên giữa Grace và George nhưng họ đã quen biết nhau từ trước và quan trọng hơn hết, họ còn hiểu về nhau.

Anh mở cửa xe cho cô vào trước rồi cùng ngồi vào chiếc taxi chật chội. Mùi xà phòng cạo râu của George lan tỏa khắp không gian nhỏ hẹp, một mùi hương quen thuộc gợi nhắc Grace về những lần đầu họ gặp nhau trong hiệu sách cách đây rất lâu rồi.

“Em kể cho anh nghe về những buổi đọc sách của em được không,” anh gợi chuyện.

Thế là Grace nói cho anh nghe về các thính giả thân quen và những câu chuyện cô đã đọc. Chàng trai lắng nghe chăm chú với nụ cười thấp thoáng trên môi. Trong lúc đó, chiếc taxi lướt qua các con phố, thỉnh thoảng len qua những biển báo Chuyển hướng để tránh hố bom.

Grace vẫn nghĩ cả hai sẽ dùng bữa ở một quán ăn nhỏ như quán cà phê Kardomah, nơi có tầng tầng lớp lớp bao cát vây quanh để tăng gấp đôi sự an toàn nếu xảy ra không kích. Bởi vậy, khi xe dừng lại trước cánh cổng vòm nhiều tầng của khách sạn Ritz, cô rất đỗi kinh ngạc.

Grace chưa bao giờ được đặt chân đến một nơi tuyệt đẹp như thế. Thậm chí hồi còn mắc kẹt trong cuộc sống tẻ nhạt ở làng Drayton, trong những cuộc tâm tình đêm khuya với Viv, cô cũng chưa từng mơ đến.

“Em cứ nghĩ…” Grace ấp úng. “Em nghĩ chúng ta sẽ đi uống cà phê chứ.”

George cười thật tươi, “Nếu anh chỉ có cơ hội đưa em đi chơi một lần duy nhất trong ba ngày phép, anh muốn khiến cho nó thật đáng nhớ.” Anh xuống xe rồi chìa tay ra. “Nếu như em đồng ý.”

Grace đặt những ngón tay mình vào bàn tay ấm áp của anh và để anh đỡ cô ra khỏi taxi, “Vâng.”

George nắm tay Grace choàng vào khuỷu tay mình trong khi những người phục vụ mở cửa chào đón họ bước vào không gian lộng lẫy của Ritz. Họ được dẫn vào phòng ăn. Ở đó có nhiều chiếc bàn dành cho hai người đã được trải khăn sạch sẽ với những bộ ghế nhung sang trọng.

Sự trang hoàng ở đây còn vượt xa mọi tưởng tượng của Grace.

Không chỉ có một chiếc đèn chùm mà là rất nhiều chiếc. Tất cả phủ khắp trần nhà hình bầu dục và được kết nối với nhau bằng các vòng hoa. Những cái đèn lộng lẫy rủ xuống tựa như những viên ngọc quý trên chiếc vòng cổ tuyệt đẹp. Mỗi một chi tiết ở đây đều sáng rực lên vẻ sang trọng, từ tấm thảm dày với hoa văn lượn sóng trải dưới chân đến những bức tường và trần nhà được trang trí đầy nghệ thuật.

Dường như họ đã bước vào một thế giới riêng biệt của London - nơi chiến tranh hoàn toàn vắng bóng, nơi mọi người mặc những bộ quần áo đẹp đẽ không phải để chạy đến hầm tránh bom hay ngã nhào trên đường phố đầy gạch đá vỡ vụn, nơi mà không khí phảng phất mùi thơm của những loại thực phẩm xa xỉ như đường hay thịt. Và ở một góc khuất nào đó, các ngón tay của người nghệ sĩ dương cầm đang uyển chuyển nhảy múa trên bàn phím, tạo ra những âm thanh du dương nhất trên đời. Giai điệu ấy như thể đưa Grace trở về với những ngày hè ấm áp tràn ngập tiếng cười.

Phía đầu căn phòng là một cây thông đang đứng rất oai vệ, không hề thấy một mẩu giấy báo nào chen giữa các món đồ trang trí lung linh được treo trên đó.

George và Grace được mời đến một chiếc bàn trong góc dành cho hai người ngồi. Trên bàn đặt một bình hoa nhỏ, hình như là thược dược.

George nhăn mặt nhìn những bông hoa, “Vậy mà anh chỉ tìm thấy bắp cải thôi.”

Grace bật cười hào hứng, “Anh đâu phải là Ritz.”

Người bồi bàn đi đến và đưa thực đơn cho họ xem. Trên cùng là món bánh nướng Le Woolton được viết bằng kiểu chữ lồng vào nhau rất bay bướm. Grace khẽ cười, cô có thể tưởng tượng ra khuôn mặt bác Weatherford khi thấy khách sạn Ritz cao cấp phục vụ bánh Woolton với một cái tên thật lạ lẫm và hoa mỹ.

Grace bỏ qua món bánh đó và chọn một miếng thịt bò nướng tuyệt hảo, trông có vẻ mềm và rất ngon. Quả là sự thay đổi mới mẻ so với những gì họ mua ở hàng thịt với phần mỡ thường nhiều hơn nạc.

George cũng gọi món tương tự kèm thêm một món salad cà rốt khai vị.

“Salad cà rốt?” Grace làm bộ nhướng mày lên. “Có thật là nó giúp anh sáng mắt để nhìn được trong bóng tối không?”

“Chính phủ nói vậy đấy.” Anh nháy mắt.

Gần đây đã xuất hiện nhiều áp phích khuyến khích mọi người ăn cà rốt và ca ngợi loại củ này có công dụng tăng khả năng nhìn vào ban đêm. Và nó đặc biệt hữu ích với các phi công.

“Còn anh thấy thế nào?” Mặc dù Grace chỉ hỏi đùa nhưng thật lòng cũng rất tò mò. Cô đã ăn nhiều cà rốt hơn thường lệ nhưng rốt cuộc cô chỉ nhận ra được chút khác biệt ít ỏi khi đi tuần trong những đêm tối đen như mực.

George cười tinh nghịch, “Nó rất có ích nên người Đức cũng bắt đầu cho phi công của họ ăn cà rốt.”

“Thật sao?”

Chàng trai bật cười và Grace nhận ra anh đang cố tình né tránh câu hỏi của cô. George vẫn thường làm thế mỗi khi nhắc đến sự nỗ lực và khó khăn anh đã trải qua trong cuộc chiến. Khi cô hỏi George có đến Pháp không, anh chỉ trả lời đại khái bằng một từ “Dunkirk”. Nhìn vẻ mặt thận trọng của anh và ngầm hiểu rằng anh đã phải chứng kiến những gì, Grace quyết định không hỏi thêm gì nữa.

George là phi công chiến đấu lái chiếc máy bay Hawker Hurricane, thuộc Đội 13 quân đoàn Acklington tại Scotland. Và anh từng đến Dunkirk. Ngoài một vài thông tin ít ỏi đó, Grace hầu như không biết gì thêm. Việc chia sẻ thông tin chi tiết về chiến sự là điều cực kì nhạy cảm, đặc biệt là liên quan đến Lực lượng Không quân Hoàng gia Anh nên cô ý thức rất rõ rằng có nhiều bí mật không được phép tiết lộ.

Vạ miệng hại thân. Cẩn trọng lời nói. Và rất nhiều khẩu hiệu khác kêu gọi mọi người phải tuyệt đối giữ bí mật.

“Vậy, anh có thể nói cho em nghe làm sao anh biết em sẽ thích cuốn Bá tước Monte Cristo?” Grace chuyển chủ đề.

Đây chắc hẳn là đề tài mà George có thể thoải mái chia sẻ mà không phải kiêng dè, và khi nghe cô nhắc đến, quả thật đôi mắt xanh lục của anh đã sáng lên lấp lánh. “Ai cũng thích Bá tước Monte Cristo cả.”

“Nhưng hình như anh đặc biệt thích nó.” Grace nhỏ giọng rồi nhấp một ngụm rượu, hi vọng George sẽ kể cho mình nghe câu chuyện đằng sau quyển sách cũ này.

“Cuốn sách đó là ông nội tặng cho anh.” Chàng trai nở nụ cười hết sức dịu dàng. “Hồi còn nhỏ, năm nào gia đình anh cũng đi tàu đến Dorset và ở lại nhà của ông. Ngôi nhà đó nằm trên một vách đá nhìn ra biển. Và nó còn có một thư viện khổng lồ.” George dang hai tay để minh họa cho sự đồ sộ của kho sách ấy. “Nó chiếm cả nửa ngôi nhà và toàn là sách kinh điển. Nhưng tác phẩm này vẫn luôn là một trong những câu chuyện anh yêu thích nhất. Sau khi lên đại học thì anh không còn thời gian về thăm ông nên ông đã gửi nó đến cho anh.”

“Hạt Dorset.” Grace tựa lưng vào ghế và mỉm cười đầy ao ước. “Em nghe nói nơi đó rất đẹp.”

“Phải, rất đẹp.” George vòng mấy ngón tay quanh ly rượu, nghiêng nghiêng đầu tỏ vẻ trầm ngâm. “Anh rất nhớ nơi đó, nhớ cơn gió mặn mòi vị của biển, nhớ những khi nó giật mạnh mái tóc và quần áo khi anh đứng gần mỏm đá. Vào những ngày đẹp trời, bọn anh thường đi xuống bãi biển, ngồi trên bãi cát ấm áp và nghe nước mát lạnh vỗ về.”

Grace có thể tưởng tượng ra cô đang ở trong khung cảnh ấy, nghe cơn gió đại dương mạnh mẽ lùa vào tóc và quần áo của chính mình. “Thật thơ mộng.”

“Có lẽ một ngày nào đó em nên đến đấy.” Anh nâng ly lên với một cử chỉ chúc mừng thầm lặng và nhấp một ngụm rượu.

Sau đó, người phục vụ bưng ra một món ăn tuyệt vời nhất mà Grace từng biết trong đời. Trong lúc cùng nhau thưởng thức, cô kể cho anh nghe mọi chuyện ở London đã thay đổi thế nào, còn George chia sẻ với cô về hai người bạn phi công mà anh quen khi ở Scotland, cũng như một vài chi tiết nho nhỏ trong cuộc sống của anh có thể được phép kể.

Grace nhìn sang ô cửa sổ đen sì bên cạnh bàn ăn của họ, “Khi mình ngồi đây, thậm chí em còn không nghĩ rằng ngoài kia chiến tranh đang nổ ra.”

George nhìn quanh phòng, “Chúng ta có thể chơi trò giả vờ mà, em thấy sao?”

“Giả vờ?” Grace bật cười lặp lại lời anh vừa nói. Kể cả khi còn bé, cô cũng chưa từng thử giả vờ bất cứ điều gì. Cảm giác phi thực tế và ngớ ngẩn của trò chơi này khiến Grace hào hứng ngay lập tức.

“Đúng vậy.” George uống một chút rượu, nghiêng đầu ngẫm nghĩ. “Giả vờ như chưa từng có cuộc chiến này. Còn em vẫn đang làm việc ở một hiệu sách, làm một cô nhân viên đáng mến với đầu óc nhạy bén và niềm say mê dành cho những cuốn sách hay.”

Grace không thể không cười khúc khích, “Và anh là một chàng kĩ sư quyến rũ với tình yêu văn chương mạnh mẽ cùng óc hài hước tuyệt vời, một người luôn biết nói những điều ý nghĩa.”

George bật cười hồn nhiên như một cậu bé. “Anh công nhận. Ngày mai chúng ta sẽ đi dạo khắp các con phố giữa cảnh tuyết trắng bay chờn vờn như lông vũ, rồi nghe những người nghệ sĩ hát rong ở công viên Hyde. Anh sẽ tặng em vài bông hoa.” Anh nhướng mày và nhìn thẳng vào bình hoa cúc màu đỏ tía với vẻ trêu chọc. “Hoa hồng, anh hi vọng thế.”

“Và chúng ta sẽ tìm một rạp hát có diễn vở Hồn ma đêm Giáng sinh,” Grace bổ sung.

“Anh rất thích cuốn sách đó.” Anh ngừng lại một chút khi người bồi bàn lại gần hỏi thăm xem hai vị khách có cần thêm gì không. “Nghe thì có vẻ hơi con nít nhưng năm nào đến dịp này anh cũng đọc lại nó. Bây giờ anh đang đọc được một nửa rồi.”

“Em cũng thế,” Grace thú thật. “Em còn cố để dành nó đến bây giờ.”

“Truyện của Charles Dickens lúc nào cũng sống động và đáng nhớ.”

Thật tình cờ khi Charles Dickens cũng là một tác giả Grace đặc biệt yêu thích nên vừa nghe George nhắc đến cô liền ngả người về phía trước với vẻ hào hứng, “Anh đã đọc The Pickwick Papers chưa?”

Anh nheo mắt lại ra chiều nghĩ ngợi, “Anh chắc chắn là đã đọc nhưng lâu quá rồi. Anh không còn nhớ gì cả.”

“Chà, vậy thì anh nhất định phải đọc lại nhé.” Grace ngả người gần về phía chàng trai hơn và say sưa kể. “Ông Pickwick và những người bạn đồng hành lập thành một ‘Hội Pickwick’ cùng thực hiện chuyến du hành khắp miền nông thôn nước Anh. Đó là cuộc phiêu lưu tràn ngập tiếng cười, chẳng hạn như…” Cô đặt ngón tay lên miệng để ngăn lại cảnh tượng mình sắp sửa kể ra. “Em sẽ không tiết lộ đâu. Để anh đọc lại và ngỡ ngàng lần nữa.”

Cả khuôn mặt chàng trai bừng lên nụ cười rạng rỡ khi anh ngắm nhìn Grace chia sẻ, và đôi mắt anh thì sáng lên lấp lánh. “Anh sẽ đọc, và nhất định sẽ kể cho em nghe những tình tiết anh thích nhất trong lá thư kế tiếp.”

Cuộc tâm tình của đôi trẻ tiếp tục đắm chìm trong những cuốn sách mà hai người đã đọc, hay hồi tưởng về những điều đã kể qua thư nhưng chưa thể chia sẻ tỉ mỉ trong một vài dòng ngắn ngủi.

Thật dễ dàng gác lại những trận mưa bom trong bầu không khí ấm áp giữa một căn phòng đáng yêu như vậy. Thật dễ dàng quên đi những bữa ăn đạm bạc khi được thưởng thức món thịt bò tươi ngon chấm nước xốt thơm lừng. Và thật dễ dàng mơ màng về thế giới ngoài kia khi George đã hoàn toàn cuốn hút tâm trí của Grace. Thời gian trôi nhanh như chớp mắt, đã đến giờ Grace phải trở về đi trực, và George cũng phải bắt một trong những chuyến tàu điện ngầm cuối cùng cho kịp trở về Kent để đón Giáng sinh với cha mẹ anh ở thành phố Canterbury.

Trên đường ngồi taxi về nhà, cuộc trò chuyện giữa đôi bạn trẻ chìm vào khoảng thinh lặng dịu dàng như thể cả hai đang trân trọng sự kết nối giữa họ một lần cuối trước khi chờ đến buổi hẹn tiếp theo. George đỡ Grace xuống xe và đưa cô đến ngưỡng cửa. Lúc này, nhà nhà đều đã tắt điện khiến cả dãy phố như bị một bức màn đen đầy bí ẩn trùm lên.

Grace dừng lại bên cánh cửa, chỉ cách anh nửa bước chân. Đó là khoảng cách gần nhất giữa họ trong suốt đêm nay, trừ lúc ngồi cạnh nhau trong xe taxi. Cô đắm mình trong mùi thơm dễ chịu của anh và cố gắng khắc ghi từng giây phút của buổi tối diệu kì này vào tâm hồn mình mãi mãi.

“Cảm ơn anh vì đã tặng em buổi tối tuyệt nhất trên đời,” Grace nói, giọng thầm thì hơn thường lệ. Làm sao cô có thể nói bình thường trong khi gần như không thở nổi.

“Thú thật, suốt mấy tháng qua lúc nào anh cũng nghĩ đến đêm nay.” Tay anh tìm đến tay cô. Một sự tiếp xúc nhẹ nhàng trong bóng tối và rồi sau đó, những ngón tay ấm áp của George chủ động đan lấy ngón tay Grace.

Làn da cô nóng ran, hệt như khoảnh khắc yên bình trước khi cơn giông ập đến. “Em cũng thế.”

“Anh rất trân trọng những lá thư của em.” Giọng anh trầm xuống, tâm tình. “Nhưng anh biết chiến tranh rất khó lường. Nếu muốn, em hãy cứ mở lòng với một ai đó ở London…”

“Không đâu,” Grace đáp rất nhanh.

Cả hai cùng bật cười, ngượng ngùng xen lẫn ưu tư.

“Em luôn mong chờ từng lá thư anh viết.” Grace lướt nhẹ ngón cái lên mu bàn tay của George và khám phá một sự gần gũi đầy mới mẻ. “Mỗi khi em gặp được điều gì thú vị hay buồn cười, anh và Viv luôn là những người đầu tiên em muốn chia sẻ ngay trong lá thư kế tiếp.”

“Anh không có quyền yêu cầu em hãy đợi anh.” Chàng trai nhích lên gần cô thêm nửa bước, bầu không khí lúc này đã loãng đến mức gần như khó thở. “Không ai biết được cuộc chiến sẽ kéo dài bao lâu.”

“Anh xứng đáng để em chờ đợi, George Anderson ạ.” Trái tim Grace đập dồn dập.

Anh đưa bàn tay còn lại chạm vào má Grace rồi cúi xuống, dịu dàng đặt môi mình lên môi cô. Một nụ hôn ngọt ngào, êm ái, quét sạch mọi suy nghĩ trong Grace.

George không vồ vập như Simon Jones ở làng Drayton. Cô rất mừng vì điều đó.

Anh không phải kiểu người như vậy. Anh sâu sắc, cẩn trọng và luôn dốc hết nhiệt tình vào mọi việc mình làm. Tuy nụ hôn rất nhẹ nhàng và nhanh chóng nhưng nó chạm đến một góc sâu thẳm trong trái tim Grace mà cô biết rằng đã vĩnh viễn thuộc về chàng trai ấy.

“Chúc em buổi tối an lành, Grace xinh đẹp của anh.” George lướt ngón trỏ xuống cằm người bạn gái, lưu luyến vài giây trước khi lùi lại đầy nuối tiếc. “Anh chờ lá thư tiếp theo của em. Hứa với anh là em sẽ luôn an toàn nhé.”

“Với điều kiện là anh cũng được an toàn.” Grace đắm đuối nhìn vào mắt anh. “Em rất mong anh trở về.”

George cười toe toét, hàm răng trắng bóng của anh lóe lên một tia sáng nhỏ trong bóng tối. Grace đẩy cửa bước vào nhà khiến cho Viv và bác Weatherford đang đứng gần lối đi với vẻ mặt hết sức tò mò phải giật bắn mình.

“Hai người đang uống trà ngoài hành lang sao?” Grace trêu chọc.

“Xời, thôi đi.” Viv xua tay. “Cậu biết tỏng chúng ta đang dỏng tai nghe cậu và anh chàng kia nói chuyện. Hai người cứ thì thà thì thầm nên chẳng ai nghe được gì hết. Thật là bất lịch sự.”

Bên ngoài, chiếc xe taxi nổ máy ầm ầm đưa George rời đi. Ai biết được khi nào đôi bạn trẻ sẽ được gặp lại nhau? Có lẽ là nhiều tháng nữa, nếu như họ may mắn.

Grace đưa ngón tay chạm lên môi, hơi ấm của đôi môi anh còn vương lại trên đó. Cô sẵn lòng chờ anh nhiều tháng. Thậm chí nhiều năm, nếu tình thế buộc cô phải chờ.

Trên đời này sẽ không có chàng trai nào khác giống như George Anderson.

Bác Weatherford tỏ ra nôn nóng, “Nào, kể cho chúng ta nghe đi.”

Từ ngày hay tin Colin mất, Grace chưa bao giờ thấy bác phấn chấn như vậy nên cô vui vẻ tuôn ra gần như mọi chi tiết của buổi hẹn hò. Phải, gần như tất cả. Chỉ trừ nụ hôn đó, Grace giữ riêng nó trong sâu thẳm trái tim mình. Chỉ dành cho cô và một mình cô mà thôi.

Giáng sinh năm nay ở London thiếu đi nhiều niềm vui mà Grace được tận hưởng vào năm ngoái. Đường phố vắng bóng giai điệu hát mừng vì bom giội triền miên. Chẳng còn mấy rạp hát mở cửa, nhiều nơi thậm chí bị hư hỏng nặng nên không thể hoạt động được nữa.

Nhưng bằng phép màu nào đó, Grace và Viv đã cố chen chân vào một buổi biểu diễn kịch câm trong đêm Giáng sinh. Vở diễn mừng lễ vui nhộn như đưa hai cô gái quay trở về thời thơ ấu, mặc dù chất lượng diễn xuất ở thành phố hay hơn hẳn ở làng Drayton. Đến ngày Giáng sinh, như thường lệ, bác Weatherford nhồi nhét tất tần tật bát đĩa sành vào lò nướng, cố gắng nấu chín toàn bộ thức ăn cùng một lúc để tuân thủ đúng quy định tiết kiệm nhiên liệu. Với bữa tiệc thịnh soạn mà bác đã dày công chuẩn bị thì đây quả là một kì tích đáng nể.

Bằng tất cả nguyên liệu mà chính sách thắt chặt nguồn cung thực phẩm cho phép, bác Weatherford đã “liệu cơm gắp mắm” thật khéo léo. Bác cũng tận dụng xuất sắc khâu phần đường và trà mà chính phủ vừa tăng thêm gấp đôi trong dịp lễ, cộng thêm một số thứ mà bác bí mật tích trữ.

Bữa tiệc hôm đó có bánh tart mật đường, bánh pudding nho nhỏ và cả bánh Giáng sinh, mặc dù các loại bánh đều thiếu trái cây khô - một nguyên liệu thường thấy trong bánh kẹo. Họ còn ngâm vài chiếc lá xanh tươi vào muối Epsom để giả làm lá nhựa ruồi phủ tuyết trang trí lên bánh. Đây là một sáng kiến của Bộ Thực phẩm.

Mặc dù bác Weatherford vẫn tỏ ra phấn khởi nhưng Grace có thể nhận ra nỗi mất mát thầm lặng ẩn sau thái độ vui vẻ gắng gượng đó. Có những lúc bác nghĩ có lẽ chẳng ai nhìn thấy, nụ cười trên môi liền héo đi và cơn đau đớn cùng cực ập đến hằn lên khuôn mặt bác.

Grace rất hiểu nỗi đau ấy.

Sự mất mát.

Vì Colin.

Sự ra đi của chàng trai ấy khiến họ cảm giác như đã vĩnh viễn mất đi một phần thân thể. Không, chính xác là mất đi cả trái tim.

Nụ cười của anh, lòng tử tế, sự ấm áp của anh đều không còn - Giáng sinh không bao giờ trở lại được như trước vì họ đã mất Colin. Bất kể có làm bao nhiêu chiếc lá nhựa ruồi hay vòng hoa bằng giấy báo cũng không thể nào bù đắp được.

Năm nay, mọi người đã nhất trí không tặng quà để dồn toàn lực cho cuộc chiến, nhưng ba bác cháu vẫn chuẩn bị chút gì đó dành cho nhau. Bác Weatherford mua xà phòng thơm cho hai cô cháu gái. Viv đan tặng mỗi người một chiếc khăn choàng cổ dày ấm áp, còn Grace xoay xở tìm được một ít sôcôla cho người bác và bạn của mình. Thanh kẹo được gói trong giấy sáp vì hiện nay lá kim loại đang được huy động để làm nguyên liệu trong chiến tranh. Sôcôla cũng dễ bị vỡ vụn và ít ngọt hơn trước. Nhưng nhìn vẻ mặt rạng rỡ hồ hởi của bác Weatherford và Viv khi mở quà, Grace hiểu rằng sôcôla trước sau vẫn luôn là sôcôla, bất kể nó như thế nào.

Bữa tối thật ngon miệng và ấm áp. Một chút đường được cung cấp thêm đã tạo nên phép màu kì diệu trong những giai đoạn ngặt nghèo thế này. Ông Evans mang theo một chai rượu mà ông đặc biệt để dành cho các dịp đặc biệt. Gần như cả buổi chiều, ông và bà Weatherford cãi qua cãi lại mấy chuyện lặt vặt y như hai anh em ruột. Miệng thì cau có nhưng cặp mắt hai người đều ánh lên cái nhìn trìu mến.

Chỉ tiếc là Jimmy và em gái cậu bé lại không đến, điều đó khiến cho ai nấy đều hụt hẫng và nhất là bác Weatherford. Dưới gốc cây thông tối thui vì không được treo đèn, bác đã soạn sẵn một túi quần áo cũ của Colin và chỉnh sửa cho vừa vặn với thân hình gầy gò của cậu bé. Bên cạnh đó còn có một bọc khác đựng dăm chiếc váy bé gái và một cái áo khoác do Viv tự tay may cho em gái Jimmy.

Ngày hôm sau Viv phải quay lại Caister. Thế là niềm vui vừa thoáng qua của mùa Giáng sinh đã vội tan đi như chút tro tàn, khiến cho căn nhà trở nên ảm đạm và quạnh hiu hơn bao giờ hết.

Việc Viv quay lại nơi công tác đặc biệt khiến bác Weatherford suy sụp, như thể bị mất đi Colin một lần nữa. Lần duy nhất bác gắng gượng ra khỏi nhà là sau Ngày tặng quà, khi bác đến hiệu sách Đồi Primrose trong giờ đọc sách buổi chiều của Grace cùng với một thùng lớn đựng rất nhiều bánh kẹo Giáng sinh còn lại và quà cho bọn trẻ.

Jimmy cũng đến, tuy có vẻ xấu hổ khi gặp lại người bác tốt bụng nhưng cậu không bỏ chạy sau khi kết thúc giờ đọc.

“Người ta đã cho chúng cháu ăn ở trung tâm an dưỡng.” Cậu bé bỏ mũ ra, vẻ mặt sa sầm vì ân hận. “Cháu không muốn ăn bớt phần của bác với chị.”

Lòng Grace đau nhói khi thấy một đứa trẻ phải sống giữa một thế giới bị tàn phá, tuy mất đi tất cả nhưng vẫn nhạy cảm suy nghĩ cho người khác. So với Jimmy, họ may mắn và đủ đầy hơn rất nhiều.

“Em không cần phải lo lắng cho chúng ta.” Cô đáp.

“Bác và chị còn rất nhiều thức ăn.” Bác Weatherford đặt chiếc hộp trước mặt Jimmy và mở nắp ra.

Bà đã xếp những món bánh kẹo Giáng sinh vào một cái bát thủy tinh lớn, đặt bên cạnh các gói quà dành cho anh em Jimmy.

Cậu bé kinh ngạc nhìn chúng, “Bác cho chúng cháu nhiều quá.”

Bác Weatherford vẫy cậu lại, “Bác đã làm cho cả hai đứa nhưng hai đứa lại không đến ăn.”

“Em mở gói lớn trước đi,” Grace giục, cô biết bác Weatherford sẽ cảm động thế nào khi nhìn thấy cậu bé mở quà. Jimmy chỉ chần chừ giây lát rồi nâng gói hàng ra khỏi hộp. Cậu không háo hức xé toạc lớp giấy gói như trẻ con thường làm mà từ tốn tháo sợi dây cột bên ngoài, quấn vào tay thành một cuộn gọn gàng rồi để vào trong hộp. Sau đó, cậu mới nhẹ nhàng gấp tờ giấy lại để không bị rách dù chỉ một đường nhỏ.

Đó là sự cẩn thận của một người hoàn toàn trắng tay, họ hiểu rằng biết đâu sau này sẽ cần đến những thứ ấy. Không chỉ là những thứ bên trong gói quà mà còn là cả lớp giấy gói bên ngoài nó nữa.

Jimmy say sưa nhìn mấy bộ quần áo thật lâu. Ba chiếc áo sơ mi có cổ, ba cái quần tây, hai áo chui đầu và một chiếc áo khoác dày.

Lúc này, cậu vừa sụt sịt vừa lấy tay áo khoác cáu bẩn quẹt lên mũi mình.

“Nhiều quá ạ,” giọng cậu khàn đi. Cậu ngước cặp mắt ngấn nước nhìn hai bác cháu, miệng mím chặt lại.

Bác Weatherford lắc đầu, “Nhiêu đó vẫn chưa đủ đâu cháu.”

Chiều hôm đó, bác gạt bỏ nỗi buồn trĩu nặng để quay lại hỗ trợ ở Hội Phụ nữ tình nguyện. Lần này, bác tập trung chăm sóc các em bé mồ côi vì cuộc oanh kích của phát xít Đức. Bác làm việc một cách hăng hái và đầy chuyên tâm. Đây thật sự là phép màu Giáng sinh đầu tiên mà Grace từng thấy trong đời.

Hai buổi tối sau đó, khi Grace đang chuẩn bị đi trực đêm với ông Stokes thì tiếng còi báo động thình lình ré lên giữa bầu không khí tĩnh lặng khiến cô suýt chút giật mình. Kể từ sau Giáng sinh, London được tận hưởng một vài buổi tối bình yên trong sự ngừng bắn lặng lẽ của quân địch. Nhưng đêm nay mây giăng dày đặc bầu trời, rõ ràng không thích hợp để ném bom, nhất là lại ném sớm như vậy.

Tuy chỉ mới hơn 6 giờ một chút nhưng Grace đã dẫn bà Weatherford đến nhà ga Farringdon xếp hàng chờ vào trong, còn cô ba chân bốn cẳng chạy đến đồn trực không kích. Việc nán lại hầm trú ẩn ở nhà trong chưa đầy một tiếng cũng không có ích gì, vì biết đâu một kẻ cơ hội nào đó sẽ nhanh tay chiếm mất chỗ của bác Weatherford ở ga tàu rồi cò kè bán nó cho người chậm chân với giá hai shilling.

Khi Grace tới đồn thì ông Stokes đã ở đó. Chắc chắn ông cũng nghĩ giống như cô. Người đồng nghiệp lớn tuổi nhếch mép cười khi nhìn thấy Grace, đôi môi mỏng của ông căng ra bên dưới bộ ria mép, “Máy bay Đức tối nay sẽ hoạt động sớm đấy.”

“Ít ra thì cũng phải lịch sự một chút để chờ chúng ta bắt đầu ca trực đã chứ.” Grace thắt quai da của chiếc mũ thiếc dưới cằm.

Ông Stokes càu nhàu đồng tình.

Bên ngoài, những chiếc máy bay lượn qua khiến cả không gian rung chuyển mạnh mẽ. Grace có thể cảm nhận tiếng động cơ kêu ong ong dưới gót giày của mình.

Đêm nay ắt sẽ là một đêm khốc liệt.

Grace rời khỏi trạm gác được hàng lớp bao cát che chắn an toàn rồi dấn bước vào cái rét mướt giá lạnh của một đêm cuối tháng Mười Hai. Tuy nhiên, đập vào mắt cô không phải màn đêm dày đặc mà là quầng sáng màu cam ở xa xa, một nơi nào đó ở London đang bị cháy. Gần sông Thames. Bên cạnh nhà thờ Thánh Paul.

Những chiếc máy bay lao vun vút trên đầu, bụng của chúng mở ra và trút xuống các dãy phố tất cả những gì chứa bên trong. Khi những vật thể ấy rơi xuống, chúng bung ra thành nhiều khối trụ nhỏ và phát ra thứ âm thanh quen thuộc. Một tiếng rít xé tai, tiếp theo là tiếng ầm ầm của hàng chục quả bom xuyên qua mái nhà và giội xuống mặt đường, rồi lửa bùng lên kịch liệt.

“Có cháy,” Grace thét to thông báo cho ông Stokes trong lúc cô quàng cuộn vòi xịt của bình cứu hỏa di động qua vai.

Cô không kịp ngoái lại phía sau xem người đồng nghiệp có theo sát mình không. Cả hai biết rằng họ chỉ cách nhau có vài phút và nhiều đám cháy khác có thể dễ dàng vượt quá tầm kiểm soát của mình.

Sau khi băng qua hai con phố, họ bắt gặp đám cháy đầu tiên. Bên trong ngọn lửa lấp lánh những mảnh sáng trắng khi nó điên cuồng phun các thành phần kim loại magie ra ngoài. Trong thời gian này, hầu như trước cửa nhà nào cũng để sẵn xô nước, cát hay thậm chí nhiều bao cát. Grace túm lấy một bao, gồng hết sức nâng lên trước mặt để bảo vệ chính mình rồi thả nó xuống ngọn lửa đang cháy sáng lòa. Khi lớp vải bên ngoài bị cháy, cát bên trong sẽ tràn ra để dập tắt lửa trước khi chúng gây ra thiệt hại. Nhưng họ không có thời gian chờ xem hiệu quả ra sao vì còn rất nhiều đám cháy khác cần họ đến dập.

“Cô Bennett,” ông Stokes gọi. Ông đã đặt chân lên bơm cứu hỏa, bên cạnh là xô nước và vòi nước chìa sang chỗ Grace.

Cô cầm chiếc vòi chạy đến ngôi nhà gần nhất có vài bụi cây đang bốc cháy, nhấn công tắc trên miệng vòi để chuyển từ dạng phun tia sang dạng xịt rồi liên tục tưới cho đến khi lửa tắt hẳn.

Như thường lệ, họ phải cẩn trọng không để magie tiếp xúc với nước vì chúng sẽ phát nổ dữ dội. Khi đám cháy vừa bùng lên, nếu thấy lửa phun ra những tia trắng xanh rực rỡ nghĩa là bên trong có chứa kim loại. Chỉ cần một tia lửa thôi cũng có sức phá hủy vô cùng tàn khốc.

Cứ thế, Grace và ông Stokes tiếp tục dập lửa bằng bao cát và vòi phun cho đến hết con đường, thỉnh thoảng họ thay bằng bơm cứu hỏa để không ai bị kiệt sức quá nhanh. Cuối cùng, tất cả các đám cháy đã được kiểm soát. Lúc này, hai người giám sát phòng không vừa thở hổn hển, vừa tựa vào bức tường của tòa nhà mà họ vừa chữa cháy, mệt lả người và mồ hôi chảy ròng ròng dù đang là nửa đêm tháng Mười Hai giá lạnh. Nhưng họ đã chiến thắng.

Một loạt máy bay khác vo ve trên đầu.

Vút. Vút.

Trái tim Grace rơi xuống.

Bùm.

Quả bom lửa đầu tiên giội xuống mặt đường chỉ cách họ vài thước và bung lên hàng nghìn tia sáng.

Bùm.

Quả thứ hai nối tiếp ngay khi hai người còn chưa kịp thở.

Họ không còn phân biệt nổi khi vô số quả cầu lửa liên tiếp giáng xuống quanh mình, giống như hàng nghìn cái kẹp tăm nổ bung ra từ hộp thiếc.

Cùng một lúc, Grace và ông Stokes xông ra chiến đấu với một ngọn sóng lửa kim loại vừa bùng lên khiến cả con đường sáng rỡ như ban ngày. Họ rẽ vào góc của khu nhà đó và Grace nhận ra mình đang ở trên đường Aldersgate, gần với trạm cứu hỏa. Nhưng ngay cả trạm này bây giờ cũng đang bốc cháy. Bên ngoài, những người lính chữa cháy cật lực phun nước từ một chiếc thùng có bánh xe vào các bức tường rừng rực lửa.

Xa xa, về phía cửa sông, lại thấp thoáng chiếc máy bay không người lái quen thuộc. Lại một tiếng rít. Và cơn mưa bom hỏa hoạn điên cuồng trút xuống London.

Những người lính cứu hỏa đang ra sức dập lửa ở đồn của mình nên có lẽ không thể hỗ trợ được nhiều. Không còn đường nào khác. Chỉ có thể tự mình chiến đấu.

Bất chấp cuộc chiến này kéo dài bao lâu.

Grace và ông Stokes nỗ lực dập được hết lửa trong khu của mình nhưng ánh lửa gần sông càng ngày càng rực lên.

Họ đi qua đi lại hiệu sách Đồi Primrose mấy lần để chắc chắn nó vẫn an toàn. Thật sự an toàn. Bác Evans đang ở bên cạnh bác Weatherford trong nhà ga Farringdon. Ít ra Grace có thể yên tâm khi biết cả hai người họ đều được bình an.

Dưới bầu trời sáng rực ánh cam và đỏ, hiệu sách ấy vẫn lặng thinh nép mình trong bóng tối. Một lúc sau, khi đi ngang qua kiểm tra, họ bắt gặp một người lính cứu hỏa với khuôn mặt lấm lem muội than và bóng loáng mồ hôi chạy đến.

“Nếu khu vực này đã ổn thì chúng tôi cần giúp đỡ.” Anh bắt đầu chạy trong lúc chỉ tay về đằng xa. “Quảng trường Paternoster. Hãy mang theo bất cứ thứ gì mang được.”