CHƯƠNG 18
Grace nghe cơn ớn lạnh lan dọc hết sống lưng mặc dù người cô đang nóng bừng lên sau một đêm làm việc vất vả. Số phận của khu nhà sách nối liền với quảng trường sẽ ra sao? Đại lý Simpkin Marshalls - đầu mối cung cấp sách cho tất cả cửa hàng đang như thế nào? Còn những nhà in, nhà xuất bản và rất nhiều hiệu sách khác nữa?
Grace và ông Stokes không để phí một giây nào. Họ xách bơm cứu hỏa cùng một cái xô rỗng lên rồi khẩn trương chạy theo anh lính cứu hỏa băng qua vài dãy nhà. Càng đi tới gần ánh lửa mỗi lúc một hiện rõ, trông nó sáng lòa như một địa ngục sừng sững, vây quanh là các nhân viên chữa cháy đang kéo vòi phun từ xe cứu hỏa để dập lửa.
Chen giữa tiếng rú rít của những quả bom giội xuống và kéo theo tiếng nổ ầm ầm là tiếng pháo cao xạ bắn trả ngày một quyết liệt.
Càng đến gần quảng trường Paternoster thì không khí càng nóng lên dữ dội. Grace và ông Stokes cảm giác như đang cố hít thở giữa một lò nướng.
“Grace, phải dừng lại thôi.” Ông Stokes thở dồn dập bên cạnh cô, rồi cúi gập cả người xuống để lấy hơi.
Ông còn nói điều gì đó nhưng một quả bom rít lên gần đấy, im lặng trong giây lát rồi phát nổ dữ dội khiến mặt đất rung chuyển ầm ầm.
“Không thể dừng lại lúc này.” Grace lấy lại tốc độ, lao đi như tên bắn, vòng qua góc đường Paternoster Row và dừng bước.
Trên các con đường mà những người ngoan đạo từng sống vô cùng hạnh phúc, địa ngục đã giáng xuống.
Những cột khói dày đặc phun ra từ đám lửa và vô số trang sách rời rạc bay tứ tung khắp con đường vương vãi mảnh vỡ, hệt như những chiếc lông vũ của đôi cánh bị xé toạc.
Những đám cháy lớn còn đỏ lửa trên đường phố nhưng một vài tòa nhà dường như không bị hư hại gì. Rất có thể chủ nhân của chúng đã thuê người giám sát hỏa hoạn canh gác trên mái, nhưng số lượng đó cực kì ít ỏi.
Các cửa hàng chứa đầy sách vở khô trông như đống bùi nhùi đang chờ một que diêm châm ngòi bùng cháy vậy. Lửa hung hãn trườn qua những mái nhà lợp đá bảng, lửa hả hê nhảy múa trên các món nội thất bằng gỗ đắt tiền, lửa tràn ra các ô cửa kính vỡ toang, trong khi lớp sơn bên ngoài bị bồ hóng phủ lên đen kịt.
Simpkin Marshalls, đại lý luôn kiêu hãnh về kho sách hàng triệu cuốn của mình, đã bị cháy rụi không khác nào giàn hỏa thiêu.
Bên tay phải Grace, một tòa nhà sáng rực hẳn lên như thể đã bắt lửa từ bên trong. Trong nhà, lửa quét qua những chiếc kệ khi chúng thỏa sức rượt đuổi nhau trên nhiều dãy sách được xếp gọn gàng.
Tòa nhà có vẻ run lên bần bật như một con quái thú đang thở và sẵn sàng nuốt gọn mọi thứ mà nó gặp trên đường.
Có ai đó gọi tên Grace. Tòa nhà quái vật đó gầm lên, kinh khủng và đáng sợ.
Nhưng cô không thể nhúc nhích được. Cô không thể nào rời mắt khỏi cảnh tượng rùng rợn trước mặt. Quá nhiều sách. Hàng triệu cuốn. Đã bị thiêu trụi.
Một thứ gì đó rắn chắc đập vào người khiến Grace ngã sấp xuống đất. Luồng hơi nóng rẫy ập lên người. Bụi và cát xát đầy trên má và mu bàn tay.
Choáng váng và hoang mang trong giây lát, Grace chớp mắt rồi nhận ra ông Stokes đang lấy thân mình che chắn cho cô. Tòa nhà đồ sộ lúc này đã sụp đổ hoàn toàn nhưng lửa vẫn rực đỏ trong đống gạch lộn xộn.
“Cô có bị thương không?” Ông Stokes gào to giữa mớ âm thanh hỗn tạp.
Grace lắc đầu, “Chúng ta cần tìm nước.”
Ông rầu rĩ nhìn quanh, “Không, hãy tìm những người sống sót.”
Đúng, ông Stokes nói đúng. Làm sao dập được ngọn lửa hung hãn này. Xung quanh họ, những người lính cứu hỏa đã tuyệt vọng phun sạch các thùng nước nhưng vô ích.
Cách Grace chỉ vài cửa hàng, hiệu sách Pritchard & Potts là một nơi hiếm hoi không thấy lửa cháy, mặc dù ngay bên phải nó đã xảy ra vụ nổ đánh sập cả cửa tiệm và xới tung mặt đường lên một mảng.
Thật may mắn vì không còn nhiều người ở lại các tòa nhà thuộc khu quảng trường Paternoster. Hầu hết số người đã tạm lánh về quê và dự định đến đầu năm sau mới quay trở lại. Nhưng nhiều người chẳng có nơi nào để đi.
Ông Pritchard là một trong số đó.
Chắc hẳn ông còn ở trong căn hộ phía trên hiệu sách Pritchard & Potts. Người đàn ông ấy vẫn luôn miệng chê bai các hầm trú ẩn công cộng, chỉ trích những người nằm la liệt trong ga tàu điện ngầm hay vất vưởng ở những ngôi nhà gạch.
Grace hốt hoảng chạy đến cửa hàng đó. Cửa ra vào đã bị bom giật bay mất. Bên trong tối om, chỉ có ánh lửa lập lòe hắt qua những ô cửa sổ vỡ nát. Sách vở văng khỏi kệ nằm vung vãi trên sàn, rách tả tơi như những con chim bị thương.
Bên ngoài, một tiếng còi rít lên, tiếp theo là tiếng nổ ầm ầm khiến cả căn nhà rúng động. Thạch cao trên trần rơi lả tả, thêm vài cuốn sách nữa văng ra khỏi kệ.
“Bác Pritchard,” Grace gọi to.
Không một tiếng trả lời.
Bây giờ không phải lúc để lịch sự. Grace tìm được cánh cửa dẫn lên căn hộ của người chủ tiệm và tất tả chạy lên cầu thang mà không buồn gõ cửa. Tòa nhà có vẻ lắc lư nhè nhẹ theo từng bước chân cô như thể không còn đứng vững trên nền móng của nó.
Nhờ chút ánh sáng màu cam le lói bên ngoài hắt vào, Grace tìm được căn hộ trong tình trạng tơi tả không kém hiệu sách dưới tầng. Hơi thở của cô như nghẹn lại khi nhìn thấy bên dưới cái tủ trưng bày bị lật đổ có một cái chân gầy guộc thò ra.
“Bác Pritchard,” Grace gọi lần nữa.
Không nghe thấy tiếng trả lời, cô quỳ xuống cạnh chiếc tủ, xác nhận đúng là ông bác đang nằm bên dưới. Grace dùng hết sức đẩy mạnh cái tủ ra nhưng bất lực. Gần đó, một quả bom dội xuống và tòa nhà run lên lập cập như thể chính nó đang muốn ngã quỵ.
Có thể lắm chứ.
Việc đẩy cái tủ ra cũng trở nên vô nghĩa khi Grace nỗ lực tìm chút mạch đập trên cổ tay khẳng khiu mềm rũ của ông, nhưng vô vọng. Không thể nào cứu được ông Pritchard nữa rồi.
Ông chết rồi.
Lại một quả bom nữa giáng xuống, kinh khủng không kém quả bom hồi nãy và khiến cả người Grace lảo đảo. Ngay lúc đó, cô nghe một tiếng meo meo thảm thiết.
Grace nhào về phía tiếng kêu phát ra, lo lắng đưa mắt xuống dưới gầm ghế sô pha để tìm chú mèo đang kinh sợ. Cô lật đật kéo con vật ra. Tabby không hề chống cự mà bám chặt lấy Grace trong lúc cô tháo chạy khỏi tòa nhà.
Bên ngoài, ông Stokes đang đứng giữa đường và lửa dữ dằn bùng lên ở hai bên. Những nhân viên cứu hỏa chĩa vòi phun bằng đồng vào đám cháy. Đồng phục của họ ướt sũng nhưng họ vẫn kiên quyết không rời vị trí một phút giây nào.
Ông Stokes liếc nhìn con mèo, “Còn ai sống không?”
Hình ảnh ông Pritchard nằm sõng soài bất động dưới chiếc tủ kính lóe lên trong tâm trí Grace. Cô siết chặt Tabby hơn một chút và lắc đầu.
Gió lướt qua con ngõ hẹp, thổi bùng đám lửa hả hê điên cuồng và đưa vô số tàn lửa bắn ra tung tóe. Hơi nóng xung quanh họ mỗi lúc một tăng lên, ép sát vào người Grace đến nỗi cô cảm giác xương tủy trong người bị nung chảy ra thành sáp.
Khi Grace còn nhỏ, cô từng hình dung những cục than hồng sáng lên trong lửa đẹp huy hoàng tựa như những nàng tiên. Nhưng bây giờ cô chẳng thấy gì đẹp đẽ hay kì diệu nữa. Chỉ có ngọn lửa ác độc sẵn sàng tàn phá tất cả bằng lòng tham không đáy và sự bạo tàn không thương xót.
“Chúng ta phải rời khỏi đây.” Khuôn mặt ông Stokes lấp loáng mồ hôi và ông đưa mắt nhìn khắp chiến trường lửa. “Họ không còn đủ nước dự phòng. Chúng ta chẳng thể làm được gì ở đây nữa cả.”
Grace mang Tabby theo vì nó chẳng còn nơi nào để ở lại, sau đó gửi nó tại nhà thờ Thánh Paul, một nơi may mắn vẫn còn an toàn trước hỏa hoạn. Một giáo dân tốt bụng đang nương náu ở đó đã ngỏ lời giúp Grace chăm sóc chú mèo. Cô dịu dàng ôm con vật bé bỏng đang khiếp sợ vào lòng.
Grace và ông Stokes trở lại những con đường rực lửa. Trên đầu họ, máy bay vẫn lao vun vút. Khói xông lên mù mịt che mờ tất cả nhưng vẫn nghe rõ tiếng động cơ ầm ầm, tiếng bom rơi không ngớt và vô số đám cháy bùng lên hung tợn.
Một người lính cứu hỏa đứng trước tòa nhà đang cháy, vòi nước trên tay anh mềm nhũn và cạn khô. “Chúng đã đánh bom vào nguồn nước.” Anh nói khi thấy họ đến gần định giúp đỡ.
“Vậy còn rơ le nước ở sông Thames?” Ông Stokes hỏi.
Rơ le nước sông Thames là biện pháp đề phòng trường hợp bom đánh trúng nguồn nước cung cấp cho các vòi phun. Khi đó, dòng sông sẽ được sử dụng làm nguồn nước thay thế.
Người lính ngây người nhìn ngọn lửa đang ngấu nghiến tòa nhà, ánh mắt anh long lên vẻ bất lực, “Thủy triều thấp quá.”
Grace nổi hết da gà giữa cái nóng như thiêu, “Ý anh là…?”
Người đàn ông cúi đầu tuyệt vọng. “Không có nước. Chúng ta chỉ có thể ngồi nhìn ngọn lửa thiêu rụi tất cả mà thôi.”
Và chúng thật sự đã thiêu rụi tất cả. Trong lúc Grace và ông Stokes lao vào tìm kiếm và giải cứu bất kì người nào còn cơ may sống sót, thì những người lính cứu hỏa chỉ còn biết bất lực nhìn ngọn lửa tham lam điên cuồng nhảy từ tòa nhà này sang tòa nhà khác giống như chúng đã làm trong trận Đại hỏa hoạn London gần ba trăm năm trước. Khi ấy, hỏa ngục đã biến trung tâm thành phố này thành đống tro tàn và bây giờ, thảm kịch dường như lại đang tái diễn.
Grace rùng mình nhớ lại những cảnh tượng mà cô đã gặp trong tác phẩm Old St. Paul’s (Nhà thờ cổ của Thánh Paul) của tác giả William Harrison Ainsworth khi ngọn lửa khủng khiếp nuốt chửng cả London. Chỉ tiếc rằng cô không thể dập tắt nó giống như nhân vật chính trong truyện.
Grace và người đồng nghiệp lớn tuổi miệt mài giải cứu những người có thể cứu được trong cái đêm dài nhất cuộc đời họ. Tuy đã sức cùng lực kiệt nhưng Grace vẫn huy động được một nguồn năng lượng mãnh liệt mà chính bản thân cô cũng không ngờ tới.
Sau một đêm dài đằng đẵng như cả cuộc đời, cuối cùng bình minh cũng ló dạng, chấm dứt hàng giờ oanh tạc và vô số quả bom lửa triền miên giội xuống. Khói vẫn trùm lên các tòa nhà đổ nát như một tấm chăn dày và bên trong, lửa vẫn không thể dập được.
Kiệt sức lẫn bất lực trước sự tàn phá kinh hoàng, Grace tìm đường đến nhà thờ Thánh Paul với hi vọng đón Tabby về nhà. Cô bước nhanh về phía thánh đường, nghe nỗi khiếp sợ túm chặt lấy mình bằng bàn tay lạnh buốt và cố gắng nhìn xuyên qua làn khói đen đặc để xem ngôi nhà thờ cổ có còn trụ lại được không.
Grace nín thở, cầu mong nơi đó đừng biến thành con mồi trong cuộc săn đuổi đêm qua giống như số phận của quảng trường Paternoster.
Một cơn gió bất chợt thổi đến, mang theo cái lạnh rùng mình chống lại sức nóng của những đống gạch và đám lửa còn âm ỉ. Những cột khói chuyển động, xoay tròn rồi tan đi, để lộ mảng trời xanh cùng mái vòm của nhà thờ Thánh Paul vẫn vẹn nguyên đầy kì diệu sau một đêm khói lửa.
Trong trận Đại hỏa hoạn năm xưa, ngôi nhà thờ này đã ngoan cường đứng vững suốt ba ngày trước khi sụp đổ. Sau đó nó được xây lại và vẫn tồn tại đến nay. Hơn cả một công trình kiến trúc, đó còn là nơi thờ phụng, nơi cứu rỗi cho những linh hồn lạc lối.
Đó là biểu tượng cho những điều tốt đẹp luôn chiến thắng bất chấp hoàn cảnh dù có tăm tối đến thế nào.
Đó là minh chứng cho tinh thần bất khuất của người Anh, ngay cả khi họ phải đối mặt với sự hủy diệt và mất mát.
“London sẽ vượt qua,” ông Stokes nói bằng giọng rắn rỏi. Cảnh tượng thiêng liêng đó rõ ràng cũng đã khơi dậy trong ông lòng yêu nước sục sôi khi ông lặp lại khẩu hiệu khích lệ của chính phủ ngay từ lúc kẻ thù bắt đầu oanh tạc.
Điều đáng kinh ngạc hơn là Tabby vẫn bình an. Cậu nhóc đang cuộn mình trong chiếc chăn mỏng, ngủ ngon lành ở cuối một hàng ghế trên lễ đường. Grace nâng cái gói màu xanh nhạt ấy lên bằng đôi tay đen sạm vì muội than, Tabby tỉnh dậy, ngơ ngác chớp chớp cặp mắt màu hổ phách của mình.
Grace vừa nâng chú mèo nhỏ lên thì nó đã nép sát vào người cô và dùng những chiếc móng dịu dàng bám lấy. Quá kiệt sức, Grace ôm chặt con vật trong tay và để yên cho ông Stokes đưa về phố Britton mặc dù cô cảm thấy ông cũng cần được về nhà nghỉ ngơi không kém gì mình. Tuy hai người đều đã thấm mệt và không ai bảo ai, nhưng họ cùng chọn đi con đường dài hơn để vòng qua mặt tiền của hiệu sách Đồi Primrose. Nó vẫn đứng đó, kín đáo và bình an.
Grace thấy lòng mình ngập tràn cảm giác biết ơn vì cửa hàng không hề bị hư hại giữa biết bao sự mất mát, hủy hoại đã xảy ra.
Sáng nay, chắc hẳn ông Evans đã trở về căn hộ phía trên hiệu sách sau khi mọi nguy hiểm qua đi.
Nhưng không phải ai cũng may mắn và không phải ngôi nhà nào cũng còn nguyên vẹn được như vậy. Ở khu vực Islington của họ, nhiều mái nhà đã hư hỏng nặng vì hỏa hoạn, biết bao tài sản bị đánh bom. Tuy nhiên, không nơi nào phải gánh chịu sự tàn phá nghiêm trọng như phố Paternoster Row.
Lúc này, khi hỏa ngục kinh hoàng đã lùi xa, bầu không khí lạnh dần lên và một cơn ớn lạnh lướt dọc sống lưng Grace.
Khi đưa cô về đến nhà, ông Stokes chỉ lặng lẽ gật đầu chào rồi quay lưng loạng choạng đi về nhà mình ở trên đường Clerkenwell. Grace chưa kịp leo lên hết các bậc thang thì bà Weatherford đã ra mở cửa.
“Grace.” Bác đặt tay lên cổ như đang khó thở. “Lạy Chúa con không sao hết, con ơi. Vào, vào đi con.”
Đã quá đuối sức, Grace chỉ còn biết lê bước lên những bậc thang còn lại và đi vào nhà. Cổ họng cô rát bỏng sau hàng giờ hít phải không khí nóng rực và ngực dường như tắc nghẹn vì muội than.
“Bác nghe nói là kinh khủng lắm.” Người bác nhân hậu khép cửa lại rồi lo lắng săm soi khắp người Grace. “Phải không cháu? Mà thôi không cần trả lời đâu, bác nhìn thấy cả rồi. Cháu gái tội nghiệp. Đội ơn Chúa vì cháu được an toàn và đã về nhà. Cháu muốn uống trà hay ăn gì đó không? Cháu có cần bác làm gì không?” Bác ngừng lại sau một tràng thăm hỏi dồn dập và đưa mắt nhìn cái gói trên tay Grace.
Ngoài trời lạnh đến nỗi lớp sương mù dày đặc dường như phủ lên vô số mảnh băng. Sau khi rời khỏi biển lửa ở trung tâm London, Grace đã cẩn thận đắp chăn để giữ ấm cho Tabby. Lúc này, cô lật lớp vải mỏng ra, bên dưới là chú mèo còn ngái ngủ cũng vừa mới trải qua một đêm hãi hùng như tất cả bọn họ.
Bác Weatherford bụm tay lên miệng, “Đây… đây chẳng phải là…?”
“Tabby,” giọng Grace khản đặc thoát ra khỏi cổ họng khô rát.
Bà bác xúc động không nói nên lời. Bà đưa tay lên má Grace rồi vuốt ve đầu Tabby. “Chú mày là con vật cuối cùng…” giọng bác nghẹn lại. “Là con vật bị thương cuối cùng mà Colin đã cứu.” Rồi đột nhiên nhớ ra điều gì, bác nhìn thẳng vào Grace, “Ông Pritchard.”
Grace lắc đầu. Cô đã báo cho đội cứu hộ biết địa điểm hiệu sách đó để họ dễ dàng tìm được thi thể của ông. “Cháu hi vọng bác sẽ nuôi Tabby,” cô nói, giọng khàn khàn. “Nó rất kinh sợ và rất cần được yêu thương.”
Bác Weatherford thở dài run rẩy, “Bác cũng cảm thấy vậy, Tabby bé bỏng đáng thương.” Bà nâng con mèo, đống vải và tất cả đồ đạc ra khỏi tay Grace.
Sau đó cô đi tắm. Những vệt than đen nhem nhuốc khắp căn phòng nhỏ, nhưng vì quá mệt nên Grace chẳng buồn để ý và định bụng sau khi ngủ dậy sẽ lau chùi sạch sẽ. Đến lúc tỉnh giấc, cô phát hiện mọi thứ đã được dọn dẹp đâu vào đó, phòng tắm sạch bóng và tỏa ra mùi nước tẩy rửa chất lượng.
Grace bước xuống cầu thang, cảm ơn bà Weatherford chu đáo đã giúp cô chà rửa nhà tắm, nhưng bác chỉ nhẹ nhàng khoát tay rồi tiếp tục quay sang thủ thỉ với Tabby, về phần con mèo, cậu nhóc có vẻ nhanh chóng quấn quýt với bác Weatherford khi nó vươn người lên để cọ mặt mình vào mặt bà, khiến bà vô cùng thích thú.
Sau khi ăn sáng qua loa với rau củ và món thỏ hầm, Grace rời nhà để đến hiệu sách. Suy cho cùng, cuộc sống vẫn chảy trôi và cô còn có một công việc để làm.
Trong không khí ẩm ướt thoảng qua một thứ mùi khiến Grace bất giác hít mạnh ngay khi nó chạm vào mũi. Mùi cháy khét phảng phất trong gió, gợi nhắc lại mọi chuyện đã xảy ra đêm qua.
“Chính cô,” giọng nói cộc lốc phát ra từ một người phụ nữ đứng khom lưng ở căn nhà bên cạnh.
Grace chớp mắt để chống lại luồng không khí lạnh và nhận ra bà Nesbitt đang đứng nghiêm nghị bên lan can nhà mình. Bồ hóng bám đầy trên chiếc váy từng rất sạch sẽ của bà, còn đôi mắt bà thì đỏ mọng.
Bà ngẩng đầu lên và ném cái nhìn trừng trừng về phía Grace qua chiếc mũi nhọn hoắt. “Tôi vừa đến cửa hàng của mình. Hay nói đúng hơn là nhìn những thứ còn sót lại.”
Cảnh tượng tan hoang như vậy chắc hẳn khiến ai cũng đau lòng. Grace xoay hẳn người về phía bà Nesbitt, thật lòng san sẻ với bà, “Tôi rất tiếc.”
“Cô phải chịu trách nhiệm.” Người phụ nữ đó rít lên.
Lẽ ra Grace đã phải quen với những lời chỉ trích cay độc của bà Nesbitt nhưng lần nào chúng cũng bắn trúng cô, “Xin lỗi, ý bà là?”
“Đêm qua cô đã ở đó.” Bà nắm lấy đôi găng tay, giận dữ tháo từng ngón một. “Đáng ra cô phải làm được nhiều hơn thế. Nếu không phải tôi đã cất sách trong ngôi nhà này thì sẽ không còn gì hết. Không còn một thứ gì hết.” Bà giật phăng đôi găng tay ra và đập nó vào lòng bàn tay trần. “Không gì có thể bào chữa khi cô đã để quá nhiều hàng quán bị cháy rụi như thế. Không bao giờ.”
Grace suýt đáp trả rằng cô và rất nhiều tình nguyện viên đã quên mình chiến đấu suốt đêm qua. Bom lửa giội xuống triền miên. Nguồn nước bị cắt và thủy triều ở sông Thames lại hạ xuống thấp nhất trong năm ngay lúc nước sôi lửa bỏng. Nhưng Grace không cần phải phân trần với người phụ nữ này, vì bản thân cô và tất cả những người khác đã nỗ lực hết sức.
Ngọn lửa giận dữ đã đẩy lùi cả tiết trời giá lạnh.
Sáng hôm đó, đài phát thanh cho biết hơn một chục lính cứu hỏa đã thiệt mạng và hơn hai trăm người bị thương. Gia đình của những người đàn ông quả cảm ấy sẽ không bao giờ được đón họ trở về nhà nữa. Thật nhiều tình yêu thương được gửi đến người đã khuất.
“Bà thật may mắn khi rất nhiều người thậm chí đã mất mạng trong trận hỏa hoạn đêm qua,” Grace lạnh lùng nói. “Bây giờ có rất nhiều cơ hội để bà giành lấy, vì tất cả chúng tôi rõ là vô dụng.”
Khuôn mặt bà Nesbitt đỏ bừng lên, “Đồ xấc xược…”
Nhưng Grace đã lao xuống hết cầu thang và không thèm nghe thêm bất cứ lời nào. Nếu không, dám chừng cô sẽ không kiềm chế nổi mà xông thẳng đến tát vào khuôn mặt xương xẩu của bà ta.
Hơi thở thoát ra khỏi môi Grace hóa thành những làn khói trắng. Cô đi nhanh đến mức các cơ bắp nóng lên bừng bừng. Hiệu sách Đồi Primrose đã hiện ra trước mắt mà Grace vẫn chưa nhận ra mình chạy nhanh đến mức nào.
Cô xô mạnh cánh cửa hơn dự định, khiến ông Evans giật mình ngẩng đầu lên, “Bennett?”
“Bà ta,” giọng Grace phẫn nộ như thể muốn ăn tươi nuốt sống. “Cái bà kinh tởm đó.”
“Bây giờ chẳng có ai trong tiệm cả.” Ông đi vòng qua quầy tính tiền, khoanh tay lại trước cái bụng từng khá mập mạp trước đây. “Kể bác nghe xem đã xảy ra chuyện gì.”
Grace thuật lại những lời của bà Nesbitt và cả tình hình đêm qua, nhưng cô ngập ngừng khi nhắc đến việc ông Pritchard qua đời.
Ông Evans nặng nhọc thở ra bằng mũi, đưa mắt nhìn xa xăm. “Ông ấy chưa bao giờ thấy được tác dụng của việc tìm hầm trú ẩn. Thật đáng thương khi có quá nhiều người nghĩ giống như vậy.” Ông chầm chậm lắc đầu. “Những người khờ khạo đáng thương. Cảm ơn cháu vì đã chăm sóc Tabby.”
“Cháu nghĩ bác Weatherford sẽ cảm thấy an ủi phần nào khi có nó.”
Ông Evans thoáng nở một nụ cười, “Nó sẽ giúp bà ấy vui lên. Còn về bà Nesbitt…”
Chỉ cần nhắc đến tên bà ấy thôi đã đủ khiến Grace lại giận sôi lên rồi.
Ông chủ tiệm từ tốn nói, “Bác nghĩ bà Nesbitt quá đau khổ trước những gì xảy ra với cửa hàng của mình nên đã trút giận lên người đầu tiên mà bà ấy có thể trút được.” Ông Evans nghiêng đầu tỏ vẻ cảm thông. “Và cháu chẳng may là người chịu trận.”
“Nhưng bà ta đâu cần phải tàn nhẫn như vậy.” Grace biết mình đang tức giận nhưng người phụ nữ đó quả thật rất đáng ghét.
Ông Evans chỉnh lại cặp kính dày cộm, “Bác nhớ là gần đây cháu đã đọc cuốn Hồn ma đêm Giáng sinh thì phải.”
Grace gật đầu.
“Vậy cháu có thấy tuổi thơ bất hạnh của Ebenezer đã biến cậu ấy trở thành người thế nào không. Nếu cửa hàng của cậu ấy cũng bị thiêu rụi thành tro, cháu nghĩ Ebenezer sẽ cảm thấy thế nào?”
Ebenezer Scrooge với bà Nesbitt đúng là một sự so sánh tài tình. Trước đó, Grace chưa bao giờ nghĩ đến việc kết nối hai hình ảnh này với nhau. Quả thực người ta có thể dùng sự giận dữ làm mặt nạ che đậy những tổn thương, nhất là khi sự tổn thương là một cảm xúc hết sức mong manh.
Chẳng phải chính ông Evans cũng từng lấy chiếc mặt nạ cộc cằn thô lỗ để che giấu nỗi nhớ nhung con gái trong những ngày đầu Grace đến làm hay sao?
Ai mà biết được cuộc đời bà Nesbitt từng trải qua những gì mới khiến bà trở nên khắc nghiệt và chua ngoa đến thế?
Đúng là một sự thấu hiểu đầy mới mẻ mà trước giờ Grace chưa từng dừng lại để suy ngẫm.
“Cảm ơn bác,” cô đáp. “Cháu chưa bao giờ nghĩ theo góc nhìn đó.”
Ông Evans trìu mến vỗ nhẹ vào má Grace giống như một người cha, “Cháu rất tử tế, Grace Bennett ạ.”
“Còn bác là một người thầy tuyệt vời.”
Cả ngày hôm ấy, Grace vừa làm việc vừa ngẫm nghĩ lại cuộc trò chuyện đó. Nó khiến cô nhìn nhận lại cả người chú của mình. Không ai tự nhiên sinh ra đã là người xấu, chính hoàn cảnh tạo nên tính cách của họ. Có lẽ chú của cô cũng từng trải qua không ít khó khăn nên mới biến thành người nhẫn tâm như vậy.
Đột nhiên Grace nhìn ông chú dưới một lăng kính khác. Không còn giận dữ mà chỉ tràn đầy sự cảm thông. Grace cũng hiểu rằng việc chú ngược đãi mình không phải do bản thân cô mà do vấn đề của chính ông ấy.
Grace ngẫm nghĩ về tất cả sự khám phá mới mẻ ấy trong lúc nhìn chăm chú vào kệ sách trống không trước mặt. Hôm qua, nó đã được dọn dẹp sạch sẽ để chờ đơn hàng mới của Simpkin Marshalls. Một đơn hàng không bao giờ có thể đến nữa.
Một ý tưởng chợt lóe lên.
“Cháu nghĩ…” Grace hỏi to lên. “Nếu chúng ta sắp xếp một khu vực bán hàng nhỏ cho những chủ hiệu sách trên đường Paternoster Row vừa bị đánh bom thì sao ạ?”
Cách đó vài bước chân, ông Evans đang say sưa đọc một cuốn sách, ông liền ngẩng đầu lên nhìn cô qua gọng kính, “Làm thế nào?”
“Chúng ta có thể sắp xếp chỗ cho họ mang những quyển sách chưa bị cháy đến đây bán rồi theo dõi xem sách bán được là của ai.” Dù sao thì bây giờ, Grace và ông Evans đã cải tiến hệ thống lưu trữ và theo dõi tình hình buôn bán rất hoàn hảo rồi. “Vậy thì người bán vẫn có thể kiếm được chút đỉnh từ số sách ít ỏi còn lại.”
“Một nhiệm vụ khó khăn lắm đấy.” Ông Evans cảnh báo.
“Bác không tin cháu sao?”
“Chưa bao giờ.” Khuôn mặt ông Evans giãn ra thành nụ cười rạng rỡ. “Cứ lấy hết những kệ mà cháu cần.”
Chiều hôm đó, ông cho phép Grace về sớm để bắt đầu tìm cách liên lạc tốt nhất với những chủ hiệu sách trên đường Paternoster Row. Kể từ sau trận hỏa hoạn đêm qua, đây là lần đầu tiên cô quay lại khu phố sách này. Cả người cô mỗi lúc một run lên khi đi qua từng tòa nhà bị phá hủy. Mùi khói xộc thẳng vào mũi và cảnh tượng đổ nát trước mắt khiến Grace không khỏi buồn lòng.