← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 19

Hầu như chẳng còn lại gì trên con phố Paternoster Row. Nó vẫn nằm im lìm dưới màn khói đen kịt bốc lên từ ngọn lửa vẫn âm ỉ cháy sâu bên trong đống đổ nát. Con phố hôm qua vẫn còn sầm uất nay gần như đã bị san bằng. Những tòa cao ốc sừng sững hai bên đường giờ chỉ còn là đống gạch vụn lẫn với tro tàn. Một vài bức tường trơ trọi đứng bất lực với những ô vuông trống hoác nơi đã từng là cửa sổ.

Grace đến gần một người đàn ông mặc bộ âu phục đang bước tới trước một khu đất bị san bằng. Nơi đó từng là một cửa hàng trang nhã với tấm biển ghi những dòng chữ xanh lấp lánh và những chú chim xinh xắn xếp bằng giấy báo treo bên khung cửa sổ. “Ông có phải là chủ hiệu sách Smith’s không?”

Người đàn ông đó nhìn Grace bằng ánh mắt thẫn thờ mà cô đã bắt gặp quá nhiều khi đi trực không kích. Ông gật đầu nhưng cô gần như không thể nào nhận ra.

“Smith’s là một cửa hàng rất dễ thương. Tôi rất tiếc.” Cô thận trọng lại gần. “Tôi đang làm ở hiệu sách Đồi Primrose trên đường Hosier.” Grace nhìn đống hoang tàn đã từng là kế sinh nhai của người đàn ông này. “Chúng tôi đang sắp xếp một số kệ sách để hỗ trợ những cửa hiệu bị đánh bom. Ông có thể…” Nhiều cảm xúc hỗn độn khiến cô nghẹn giọng. “Ông có thể mang sách đến chỗ chúng tôi để bán, chúng tôi đảm bảo sẽ trả đầy đủ lợi nhuận cho ông khi sách bán được.”

Grace đưa cho ông tấm danh thiếp nhỏ có ghi thông tin của cửa hàng.

Người đàn ông đó lặng lẽ nhận lấy và chăm chú nhìn cô.

“Tôi rất lấy làm tiếc,” Grace lặp lại và căm ghét cảm giác bất lực đó. “Tôi ước gì mình có thể làm được nhiều hơn.”

“Cảm ơn cô.” Ông chủ hiệu sách nhẹ nhàng đáp rồi đưa ánh mắt buồn rầu nhìn lại cửa hàng đổ nát của mình.

Grace chỉ gặp được thêm một người nữa. Cô ngỏ lời tương tự và người đó cũng hoang mang như ông chủ tiệm Smith’s.

Nhưng tất cả những việc đó cũng chẳng ý nghĩa gì. Chắc hẳn không một cuốn sách nào còn tồn tại. Chán nản, Grace rời khỏi con phố sách của London và quay về nhà với đôi mắt hằn lên vẻ mỏi mệt. Nhưng trên đường trở về phố Britton, cô sực nhớ ra có một người đã bảo toàn được kho sách tránh khỏi vụ oanh tạc đêm qua.

Bà Nesbitt.

Tâm trí Grace nổ ra cuộc đấu tranh dữ dội. Một bên thuyết phục cô nên giúp bà Nesbitt nhưng bên còn lại vẫn ấm ức vì những lời nói sắc như dao của bà và xúi giục Grace trả đũa một cách cay độc hơn. Là ăn miếng trả miếng.

Chính ý nghĩ sau cùng đó đã giúp Grace đưa ra quyết định. Cô không bao giờ cho phép bản thân trở nên khắc nghiệt như vậy, cho dù với những người như bà Nesbitt.

Grace đang ngập ngừng bước lên nhà bà Nesbitt thì một giọng nói quen thuộc gọi tên cô. “Grace, cháu nhầm nhà hả?” Bác Weatherford hỏi. “Đèn chưa tắt mà cháu đã đi nhầm rồi. Ngủ nghỉ nhiều hơn đi cháu.”

Bà Weatherford đang mặc bộ đồng phục xanh rêu của Hội Phụ nữ tình nguyện, có lẽ là vừa đi họp về. Đôi má bác ửng hồng và cặp mắt long lanh tràn đầy sức sống.

Grace bước xuống và giải thích ngắn gọn về chuyện cô muốn trao đổi với bà Nesbitt. Bà Weatherford ưỡn ngực và thẳng vai hơn một chút, “Vậy bác sẽ vào với cháu.” Grace chưa kịp phản đối thì đã bị bác ngăn lại, “Bác sẽ không để cháu một mình đương đầu với cái bà quái vật đó đâu, nhất là khi cháu mang một tấm lòng tử tế như vậy đến gặp bà ấy.”

Thế là Grace và bà Weatherford cầm chiếc vòng gõ cửa bằng đồng đập vào cửa nhà bà Nesbitt.

Bà chủ nhà chào họ bằng ánh mắt lạnh lẽo không thua gì thời tiết ngoài trời. “Nhà mấy người ở bên kia.” Bà nhướng một bên lông mày sắc sảo cong vút. “Hay là quên rồi?”

“Chúng tôi tới để gặp bà.” Grace đáp.

“Sẵn tiện dùng chút trà.” Bác Weatherford xoa xoa hai bàn tay tê cóng, thẳng thừng nhắc nhở bà hàng xóm về cung cách tiếp khách bất lịch sự. “Chúng tôi sắp chết rét ngoài này rồi đấy.”

Bà Nesbitt thở dài và mở cửa, “Vào đi. Tôi đi đun ấm nước.”

Bà dẫn họ vào gian phòng khách có bộ sô pha bọc nhung sang trọng mới tinh như thể vừa mua. Căn phòng toát lên vẻ đẹp nghiêm trang hệt như viện bảo tàng chứa đầy những món đồ dễ vỡ mà không ai được phép chạm vào. Mọi thứ đều được sắp xếp ngăn nắp gọn gàng, từ chiếc bàn nhỏ mới được đánh bóng cho đến những bức tượng đủ hình thù và nhiều tấm ảnh vương vãi dường như là hình chụp bà Nesbitt hồi trẻ.

Cả Grace và bác Weatherford đều lúng túng ngồi ướm vào mép chiếc ghế sô pha, không dám dựa ra sau vì sợ để lại vết hằn trên lớp nhung được chải chuốt kĩ lưỡng. Vài phút sau, bà Nesbitt bưng ra một khay trà với những chiếc tách được làm bằng loại sứ mỏng đến nỗi Grace nhìn thấy tia sáng từ ô cửa sổ đằng sau chiếu xuyên qua nó.

“Tôi có thể giúp gì cho hai người?” Bà Nesbitt hỏi. “Ngoài việc vét sạch phần đường với trà ít ỏi để tỏ lòng hiếu khách.”

Grace đổ trả muỗng đường vào trong chén, quyết định uống trà không. “Chúng tôi sẽ dành cho bà một chỗ trong hiệu sách Đồi Primrose để buôn bán. Tất nhiên bà sẽ nhận được toàn bộ lợi nhuận và chúng tôi đảm bảo sẽ cho mọi người biết họ đang mua sách của bà.”

Bà chủ nhà cau mày, “Cô nói nghiêm túc chứ?”

“Rất nghiêm túc.” Grace nhấp một ngụm trà. Dĩ nhiên, nó dở tệ. Có thể lá trà đã bị ngâm nước một hoặc hai lần. Đó là thứ tử tế nhất mà bà Nesbitt dành cho hai vị khách không mời mà đến.

Trước sự ngỡ ngàng tột độ của Grace, bà Nesbitt rơm rớm nước mắt rồi quay mặt đi. “Đó là điều tôi đáng phải nhận vì chưa bao giờ yêu ông Nesbitt.” Bà chấm khăn tay lên lau nước mắt, một chiếc khăn ren rua dùng để trang trí nhiều hơn là sử dụng. “Tôi cưới ông ấy chẳng qua chỉ vì hiệu sách này, để khiến cha tôi chịu để mắt đến tôi. Để…” Bà ngừng lại và nhìn hai vị khách với vẻ trách móc họ là kẻ bao đồng. “Các người không thấy sao? Chúa đang trừng phạt tôi đấy.”

“Bà thật ngạo mạn đến mức cho rằng Chúa đánh bom cả London chỉ vì muốn trừng phạt hành động ích kỉ của một mình bà à?” Bác Weatherford thở dài. “Bà Nesbitt, tôi khuyên bà nên suy nghĩ cho chín chắn và tận dụng một cơ hội tử tế đã được dâng đến tận tay bà.”

Grace suýt sặc ngụm trà.

Bà Nesbitt phẫn nộ la lên, “Sao bà dám đến nhà tôi mà ăn nói kiểu đó hả?”

“Vì cần phải có người làm như vậy.” Bác Weatherford xúc nửa muỗng đường cho vào trà. “Bà cần xin lỗi Grace và đồng ý nhận cơ hội hào phóng này. Sau đó sửa soạn cùng tôi đến trại mồ côi đọc sách cho bọn trẻ nghe.”

“Trại mồ côi?” Bà Nesbitt chớp mắt kinh ngạc. “Đọc sách hả?”

“Chẳng phải ngày nào bà cũng đọc sách cho người ta nghe ở cửa hàng đấy à?”

Bà chủ nhà liếc nhanh về phía Grace rồi ngẩng đầu lên, khịt mũi, “Phải.”

“Bây giờ có vẻ bà đã được rảnh rỗi và có rất nhiều đứa trẻ đang khát khao được nghe đọc sách.” Bác Weatherford khuấy nhẹ tách trà.

“Được rồi.” Bà Nesbitt hất đầu.

Grace và bác nhìn bà đầy hi vọng.

Bà Nesbitt thong thả thêm chút đường vào ly trà và dùng ngón tay cầm lấy chiếc quai mảnh mai nâng nó lên một cách duyên dáng rồi nhấp một ngụm. Sau đó, bà đặt tách trà xuống chiếc đĩa đi cùng bộ khiến nó phát ra tiếng kêu lanh canh trong trẻo, rồi bà hít một hơi.

“Tôi chấp nhận đề nghị đó, cô Bennett.” Bà nhìn chằm chằm xuống tấm thảm dày sang trọng dưới chân, lí nhí, “Cảm ơn cô.”

“Còn trại trẻ mồ côi?” Bác Weatherford nhắc nhở.

Bà Nesbitt ngước lên, “Tôi sẽ chuẩn bị đi sau khi chúng ta uống trà xong.”

Bác Weatherford nở nụ cười đắc thắng, “Tuyệt lắm!”

Năm 1940 trôi qua và rồi năm 1941 lặng lẽ đến. Bác Weatherford và Grace không chuẩn bị gì cầu kì vì đã quá tất bật. Bà Nesbitt bắt đầu tự nguyện đến trại mồ côi nên bác cũng không phải mất công thuyết phục nhiều. Bên cạnh đó, kệ sách dành cho cửa hàng Nesbitt’s Fine Reads được nhiều độc giả quan tâm nên chủ của nó rất hãnh diện.

Bà Nesbitt không phải người duy nhất đón nhận tấm lòng hào hiệp của hiệu sách Đồi Primrose. Trong thành phố bị bom đạn cày xới triền miên này, chẳng còn bao nhiêu tòa nhà mở cửa nên tin tức nhanh chóng lan khắp giới bán sách trên phố Paternoster Row. Thế là có thêm năm người chủ khác đến xin đặt kệ sách ở cửa tiệm của ông Evans, trong đó có ông Smith. Grace gấp những chú chim xinh xắn trang trí cho quầy hàng của họ và luân phiên sử dụng sách của tất cả cửa hàng để đọc cho mọi người nghe vào những buổi chiều. Chẳng bao lâu sau, không chỉ khách quen của hiệu sách Đồi Primrose mà cả nhiều nơi khác cũng đổ về đây đông vui nhộn nhịp.

Jimmy vẫn đều đặn tham gia những buổi đọc sách. Bác Weatherford rất đỗi vui mừng khi thấy cậu bé mồ côi giờ đây đã được ăn uống tử tế, mặc quần áo vừa vặn, sạch sẽ và còn dắt theo em gái nhỏ Sarah. Các thính giả của Grace ở ga tàu điện ngầm rủ cả bạn bè đến nghe chung và chủ của những hiệu sách khác thường đi cùng khách hàng thân quen của họ.

Lời đề nghị chia sẻ không gian cho các cửa hàng khác không chỉ giúp đỡ những người bán mà còn vô tình giúp cho hiệu sách Đồi Primrose không bị hết hàng quá nhanh. Ngoài chuyện đại lý Simpkin Marshalls không thể giao sách nữa thì việc tìm một nhà cung cấp mới giữa thời buổi nguồn giấy khan hiếm như lúc này cũng hết sức khó khăn. Hơn nữa, khi khách hàng mua sách của cửa tiệm khác thì họ cũng thường mua một cuốn của ông Evans.

Grace viết thư kể với George về số phận của con phố Paternoster Row và việc hiệu sách Đồi Primrose đã trở thành điểm hẹn nổi tiếng để độc giả nán lại trao đổi về văn chương. Mỗi khi nghe họ chuyện trò, cô lại nhớ anh da diết, ao ước được nghe anh hùng hồn miêu tả về những cuốn sách và lôi cuốn cô vào những câu chuyện đầy mới mẻ. Trong thư hồi âm, George nói rằng anh cũng rất nóng lòng được đến hiệu sách trong kì nghỉ phép về London kế tiếp mà anh hi vọng là chỉ sau vài tháng nữa thôi.

Anh thú thật: Anh rất mong được trở về hiệu sách Đồi Primrose thân quen, nơi mọi người say sưa chuyện trò về văn chương và nhất là có một cô nhân viên xinh đẹp thổi hồn vào những câu chuyện bằng giọng đọc ngọt ngào.

Những dòng thư của George đã sưởi ấm trái tim Grace nhưng cô cũng rất hồi hộp khi nghĩ đến việc đọc sách trước mặt anh, giống hệt như lần đầu tiên cô đọc cho mọi người nghe trong ga tàu điện ngầm. Những lá thư của Viv cũng tràn trề hi vọng. Đáng mừng nhất là tin cô sắp chuyển địa điểm công tác về London trong vài tháng nữa vì Viv đang được cân nhắc thực hiện một nhiệm vụ mới mà cô không thể giải thích cặn kẽ. Từ đầu đến cuối bức thư sáng bừng lên sự phấn khởi và Grace cũng rất háo hức gặp lại bạn mình.

Vào một buổi sáng yên tĩnh hiếm hoi ở hiệu sách, ông Evans đứng ở quầy thu ngân kiểm tra một dãy số trong sổ thu chi. “Cháu từng nói bác là một ông thầy giỏi.” Ông đặt cây bút chì vào gáy sổ rồi ngước nhìn Grace. “Vậy bác muốn nói cho cháu biết rằng bác cũng học được một điều hay ho ở cháu.”

Grace nhìn ông ngờ vực rồi đặt một quyển sách của tiệm Stephens vào chỗ trống.

“Lại đây xem lòng trắc ẩn của cháu đã làm được gì này.” Ông chỉ vào những kệ sách được dành cho các cửa hàng khác. “Cháu đã nỗ lực hết sức để giúp đỡ mọi người. Không chỉ là tình nguyện tham gia giám sát không kích mà còn ở ngay đây, với nhiều người bán sách, với những độc giả đến nghe cháu đọc sách mỗi chiều. Ngoài kia, cháu cứu sống nhiều sinh mạng. Còn ở đây, cháu cứu lấy những tâm hồn.”

Hai má Grace nóng bừng lên trước lời khen đó. “Cháu nghĩ bác nói quá rồi.” Cô thì thầm đáp lại nhưng quả thật, những lời nói ăm ắp niềm vui của ông Evans giống như tia nắng sưởi ấm lòng cô.

Ông nở nụ cười dịu dàng, chứng tỏ ông cũng biết rõ điều đó.

Bà Nesbitt đẩy cửa bước vào với dáng vẻ kiêu hãnh như thường lệ. Nhưng lần này, trông bà như biến thành một người khác. Không còn chiếc váy áo choàng sang trọng sẫm màu thắt lại ngay chỗ eo gầy, với cái mũ hộp trùm lên tóc rồi giữ cố định bằng chiếc ghim mũ sắc nhọn. Thay vào đó bà mặc bộ đồng phục và đội chiếc mũ lưỡi trai màu xanh xám xịt của Hội Phụ nữ tình nguyện.

“Thôi đi, đừng nhìn tôi như thể cô chưa từng thấy người phụ nữ nào mặc bộ đồng phục này chứ, cô Bennett.” Bà Nesbitt sải bước đến kệ sách của mình, đôi giày gót thấp hữu dụng kêu lên những tiếng lộc cộc trên sàn.

Grace thầm ngưỡng mộ bác Weatherford biết bao vì đã khiến bà Nesbitt thay đổi đáng kể.

“Tôi mới kiểm kê xong đây. Bà có muốn xem không?” Ông Evans nâng cuốn sổ cái lên để chuẩn bị cho bà Nesbitt xem dãy số gọn gàng mà lần nào ghé qua bà cũng hỏi.

“Không cần, cảm ơn ông.” Bà vui vẻ đáp rồi lấy một quyển sách thiếu nhi màu vàng tươi ra khỏi kệ. “Tôi đến chỉ để lấy vài cuốn mang đến trại mồ côi. Sách cho tụi nhỏ ở đó thật sự nghèo nàn quá.” Bà chọn hơn năm cuốn rồi đưa tựa sách cho ông Evans xem. “Tôi sẽ lấy mấy cuốn này mang tặng cho bọn trẻ.”

Ông Evans nhướng cặp lông mày rậm rạp nhìn Grace với vẻ nghi ngờ, “Cứ tự nhiên.” Ông rút cây bút chì khỏi gáy sổ và ghi nhanh mấy tựa sách lên giấy.

“Cảm ơn nhé, ông Evans.” Bà nói rất dứt khoát.

“Người bà nên cảm ơn không phải là tôi.” Ông hất đầu về phía Grace. Bà Nesbitt dừng lại trước mặt cô và trầm ngâm quan sát. Gương mặt gay gắt của bà dịu đi nhưng chỉ trong chốc lát. “Cảm ơn nhiều, cô Bennett, về tất cả mọi việc.”

Nói xong bà vênh mặt lên, lấy lại vẻ kiêu kì và rời khỏi cửa hàng.

Tháng tiếp theo, Grace quay cuồng như con thoi với những giờ đọc sách hằng ngày. Hoạt động này giúp cho cửa hàng ngày càng được nhiều người biết đến. Nếu như chuỗi nhà sách Foyles tiếp tục thu hút những nhân vật nổi tiếng nhờ món nước trà khét tiếng thì hiệu sách Đồi Primrose trở nên khác biệt nhờ tiết mục đọc sách của Grace và nhiều cuộc thảo luận mở ra sau đó, khi các độc giả quây quần lại để chia sẻ về câu chuyện họ vừa nghe.

Bác Weatherford vẫn đến hiệu sách mỗi ngày trong bộ đồng phục tình nguyện. Cặp mắt nhạy bén của bác tìm ra ngay những em nhỏ mồ côi cần được chở che, chăm sóc. Bác thật sự đã lấy lại được sức sống, mặc dù mái tóc búi gọn của bác điểm thêm nhiều sợi bạc. Lần duy nhất Grace thấy bác Weatherford rầu rĩ là khi danh sách thực phẩm bị hạn chế lại bổ sung thêm một món mới vào hồi tháng Ba: mứt. Nhận được thông báo đó, bác khổ sở kêu trời, “Rồi tiếp theo sẽ là gì đây? Phô mai chắc?”

Những vụ đánh bom vẫn đều đặn trút xuống khiến London một thời hoa lệ đã hoàn toàn chìm vào dĩ vãng. Nhưng bất chấp sức cùng lực kiệt và thương tích đầy mình, thành phố này vẫn dang tay che chở cho người dân suốt cả ngày lẫn đêm. Xe tải qua lại bên cạnh các hố bom toang hoác trên đường, những bà nội trợ tiếp tục xếp hàng mua thức ăn theo khẩu phần và khéo léo liệu cơm gắp mắm cho thật nhiều bữa. Sáng sáng, người ta quét vô số mảnh vỡ ra khỏi cửa rồi thu gom lại bình sữa để dùng. Cuộc sống vẫn không ngừng tiếp diễn.

Thời tiết thật kinh khủng với sương mù dày đặc xen lẫn với những đợt tuyết rơi và đóng băng liên miên. Hầu như chẳng mấy khi thấy được ánh mặt trời. Nhưng người dân Anh đã chuyển sang yêu thích tiết trời khắc nghiệt này vì nó hứa hẹn sẽ ngăn chặn kẻ thù ném bom.

Bất lực trước bầu trời xám xịt u ám, quân Đức quyết định chuyển sang chiến thuật “đánh nhanh rút gọn”. Chúng lượn qua thành phố, thả hú họa vài quả bom rồi nhanh chóng bỏ đi. Thiệt hại của những cuộc tập kích bất ngờ này thường rất nhỏ và số người mất mạng cũng giảm đi nhiều so với các đợt tấn công hồi trước.

Grace vẫn tiếp tục thư từ với Viv và George mặc dù việc tìm một bưu điện còn hoạt động trong hoàn cảnh này quả thật rất gian nan. Bây giờ, người đưa thư thường chỉ ngồi cạnh một cái quầy được thắp sáng bằng ngọn nến cháy leo lét trong chai, bên cạnh là tấm biển ghi độc nhất một dòng “Bưu điện ở đây”. Những nhân viên điện tín thậm chí còn làm việc trong điều kiện thiếu thốn hơn. Họ mặc bộ đồng phục gọn gàng, tất bật xuôi ngược khắp thành phố London với chiếc bảng đeo lòng thòng ở cổ thông báo rằng họ vẫn nhận điện tín. Mỗi khi có người muốn gửi thư, họ sẽ dùng lưng của các nhân viên làm chiếc bàn đối phó để viết thông điệp cần chuyển.

Công việc giám sát phòng không tuy không kém phần vất vả nhưng đã bớt đáng sợ hơn nhiều. Họ không còn hốt hoảng bỏ chạy ngay khi máy bay hoặc vài quả bom vừa xuất hiện. Bây giờ, mỗi lần còi báo động vang lên, Grace và ông Stokes vẫn thong thả bình tĩnh, không vội vắt chân lên cổ nếu như chưa thấy máy bay không người lái xuất hiện hay nghe tiếng pháo cao xạ đì đùng thông báo quân Đức đang áp sát.

Tháng Tư đến mở ra một vụ trồng trọt mới. Bây giờ, bác Weatherford đã thành thạo việc đánh dấu các loại cây trước khi bắt đầu gieo hạt. Tabby đã trở thành bạn thân của người phụ nữ tốt bụng này, cả hai gắn bó như hình với bóng. Bởi vậy không có gì lạ khi mỗi lần bác ra vườn, chú mèo mướp đều lon ton chạy theo sau, nghịch ngợm đào xới một chút đất. “Grace, đừng lo nhé,” bác Weatherford nói sau khi đã gieo hết mớ hạt giống xuống mảnh đất màu mỡ. “Bác không thèm trồng cây rau diếp nào đâu.”

Mấy hôm sau, những chồi non bắt đầu nhú lên khỏi mặt đất và thời tiết dần trở nên ôn hòa hơn mặc dù mưa vẫn còn. Tiệm sách ngày càng tấp nập với nhiều khách hàng mới. Tuy nhiên, Grace nhận ra dạo này ông Evans dường như không được khỏe kể từ hôm ông bê một cái thùng nhỏ ra khỏi căn phòng đằng sau. Rõ ràng nó khá nhẹ nhưng lại khiến ông lảo đảo, thở dồn dập trong lúc bưng đến quầy tính tiền đằng trước. Khi Grace hỏi thăm thì ông chỉ xua tay không nói gì.

Sau đó vài ngày, cô lại thấy ông ngồi trong căn phòng phía sau, tay chặn lên ngực và khuôn mặt tím tái. Grace một mực nài nỉ ông đi khám nhưng với bản tính cố chấp, tất nhiên không đời nào ông chịu nghe.

Tuần đầu tiên của tháng Tư vừa trôi qua, vào một buổi sáng se lạnh, sương phủ khắp các mái nhà bằng đá phiến như rắc bột, Grace vừa đến tiệm thì thấy ông Evans đang cúi gập người trên quầy tính tiền.

“Bác Evans?”

Ông không ngẩng đầu lên mà chỉ phát ra một tiếng rên rỉ khó khăn và gập cánh tay trái lại.

Grace xô cửa ra để cầu cứu người qua đường. Chiếc túi xách tuột khỏi tay và cô vừa loay hoay quanh quầy tính tiền vừa nhanh chóng cởi áo khoác ra. Công việc ở đồn giám sát đã huấn luyện cho Grace khả năng hành động linh hoạt trong lúc đầu óc vẫn quay cuồng vì lần này người cần cứu là bác Evans.

Grace gồng hết sức để đỡ được sức nặng của ông rồi đặt ông nằm xuống sàn. “Hãy cố bình tĩnh và hít thở đều.” Cô nói bằng giọng dịu dàng như thường nói với các nạn nhân bị đánh bom nhưng vẫn không kìm được sự run rẩy. Grace không tài nào bình tĩnh được.

Ông Evans co giật và thở dồn dập giống như không thở nổi. Khuôn mặt nhăn lại đầy đau đớn. Thật đau lòng khi nhìn thấy một người đàn ông thường ngày mạnh mẽ và kiên định nhường ấy lại bị rơi vào tình trạng yếu ớt và khó thở như này. Cơn sóng cảm xúc trào lên đe dọa nhấn chìm Grace ngay khi cô sơ sẩy.

Một vệt mồ hôi lấp loáng trên chân mày ông Evans rồi khuôn mặt ông chuyển sang trắng bệch một cách bất thường, còn đôi môi thì tái xanh nhợt nhạt. Chắc chắn cơ thể ông đang gặp vấn đề nào đó phải cần đến bác sĩ, trong khi Grace chỉ quen sơ cứu những vết thương ngoài da.

Ông đưa cánh tay không còn chút sức lực lên quờ quạng, cố bám vào Grace một cách vô vọng. Mọi lời an ủi trên đời này đều hóa thành vô ích.

Ông nắm lấy tay cô, tay ông lạnh ngắt và ướt đẫm mồ hôi. “Alice,” ông thều thào.

“Bác nhất định sẽ ổn thôi,” cô đảm bảo chắc nịch.

Nhưng Grace biết rõ điều đó sẽ không bao giờ xảy ra và đau khổ bất lực khi không thể làm gì hơn vào lúc này.

Cơ thể ông đột ngột cứng lại và cặp mắt mở to, lồi hẳn lên như đang nhìn thấy một điều vô cùng kinh ngạc.

“Sẽ nhanh có người đến giúp thôi.” Giọng Grace đứt quãng. “Sẽ nhanh có người đến thôi.”

Luôn có một tia sáng lóe lên rồi vụt tắt trong đôi mắt của những người sắp từ giã cõi đời, nó chẳng khác gì những cây đèn đã cạn pin vậy. Tia sáng đó, Grace từng nhìn thấy ở một bà già bị căn nhà đổ sập lên người trong khi bà chới với cố bám lấy sự sống.

Tia sáng đó cũng lóe lên trong mắt ông Evans, lấp lánh sự thông thái, tốt bụng và óc hài hước lạnh lùng. Một tia sáng từng rất rực rỡ và tràn đầy sức sống nhưng giờ đây dường như đã tắt lịm.

“Không.” Grace lắc đầu. Cô cảm thấy lồng ngực nghẹn lại và cổ họng đau rát. Cô run rẩy đặt mấy ngón tay lên cổ tay ông Evans nhưng không còn nghe thấy mạch đập. “Không.”

Grace cẩn thận lật người ông nằm sấp xuống và đưa hai cánh tay ông lên đầu, để trán gối lên mu bàn tay áp xuống thảm. Đúng là cô không thể chữa trị những vấn đề bên trong cơ thể nhưng cô đã được huấn luyện kĩ càng về cách sơ cứu cho người bị ngừng thở. Grace đặt lòng bàn tay vào giữa hai bả vai ông Evans, vừa thở ra vừa chậm rãi dồn sức nặng nhấn xuống người ông. Tiếp theo, cô hít vào và kéo tay ông ra, quyết tâm tìm lại hơi thở cho ông bác ấy. Grace cứ lặp đi lặp lại với hi vọng ép ông thở thêm lần nữa.

Chuông cửa kêu lên một âm thanh sắc lẹm, khó chịu giữa hoàn cảnh đau đớn khôn tả. “Có ai cần giúp đỡ phải không?” Một người đàn ông hỏi.

“Ở đây,” Grace hét lên.

Người đàn ông đó mặc trên mình bộ vest và đeo chiếc túi da màu đen bên hông. Mái tóc muối tiêu của ông rối bù còn đôi mắt đen thâm quầng vì kiệt sức.

Grace giải thích tình trạng của ông Evans một cách rõ ràng, mạch lạc như một người giám sát phòng không đang tiếp tục trông cậy vào nhân viên y tế. Chỉ đến bây giờ, cô mới hiểu rõ về ông ấy, người mà cô đã thương yêu như một người cha mà mình chưa từng có. Nhưng bây giờ, ông ấy đã lìa xa cõi đời.

Vị bác sĩ đặt tay lên vai cô an ủi, “Cô đã cố hết sức rồi. Không thể làm gì hơn được nữa.” Ông chau mày lại, nói một cách hết sức chân thành mặc dù chắc hẳn ông đã phải thốt ra những lời đó rất nhiều lần, “Tôi xin lỗi.”

Xin lỗi.

Một từ quá tầm thường so với nỗi đau lớn lao như vậy. Một sinh mạng vừa vụt tắt, một người đã trở nên không thể thiếu trong cuộc đời Grace. Ông là người thầy, người bạn và cũng là người cha.

Nhưng bây giờ ông đã đi rồi. Ra đi vĩnh viễn.

Xin lỗi lúc này có ý nghĩa sao.

Thi thể ông Evans được đưa đi, để lại cửa hàng chìm trong sự im ắng bất thường. Lần đầu tiên kể từ khi chiến tranh nổ ra, Grace đóng cửa hiệu sách sớm rồi đi về nhà. Cô để mặc cho đôi chân dẫn đi mà không buồn suy nghĩ.

Khi Grace mở cửa bước vào, bác Weatherford kêu lên, “Trời ạ, áo khoác con đâu?” Bà hỏi dồn. “Chuyện gì vậy Grace? Viv hả? Chúa tôi, làm ơn không phải là Viv.”

Grace gần như không hề biết rằng mình đã lắc đầu, “Bác Evans.”

Khuôn mặt bà Weatherford rúm ró lại, rồi hai người phụ nữ ôm chặt lấy nhau trong nỗi mất mát quá tàn nhẫn khác.

Tuy vậy, Grace vẫn gắng gượng mở hiệu sách vào ngày hôm sau và những ngày sau nữa. Khách hàng lo lắng hỏi thăm về người chủ tiệm. Sự quan tâm của họ thể hiện lòng quý mến dành cho người đàn ông rất quan trọng đối với Grace, nhưng mỗi một câu hỏi lại khoét sâu vào vết thương đang hở miệng trong lòng cô.

Cô vẫn còn choáng váng và vùng vẫy trong nỗi đau này. Mỗi lần mở khóa bước vào hiệu sách, Grace đều ao ước được nhìn thấy ông Evans đứng đó, cặm cụi ghi chép vào cuốn sổ cái và lơ đễnh chào hỏi cô. Nhưng mỗi lần như thế, không gian trống không đằng sau quầy tính tiền lại giống như một cú đấm dội thẳng vào trái tim cô.

Cho dù Grace muốn chạy trốn thực tế, cho dù cô không muốn tin vào sự thật đi chăng nữa, thì ông Evans cũng đã mãi mãi ra đi.

Phải đến khi tham dự đám tang của ông Evans, tận mắt nhìn thấy hũ tro của ông được chôn xuống đất, Grace mới có thể chấp nhận sự mất mát này. Hôm ấy trời mưa tầm tã như thể cả thế giới cũng đang khóc thương cho sự ra đi đáng tiếc của một con người như ông Percival Evans.

Hoạt động đọc sách mỗi chiều vẫn được Grace nỗ lực duy trì. Có lẽ cô đã không làm được như vậy nếu như không nghĩ đến ông Evans và nhớ lại nụ cười khích lệ đầy tự hào của ông. Mỗi tối trước khi đóng cửa, Grace đều cất tiền vào chiếc tủ có khóa trong căn phòng phía sau như thường lệ, nhưng cô lại băn khoăn không biết rồi đây chúng sẽ được dùng vào việc gì. Thậm chí cô còn không rõ số phận của cửa hàng này sẽ ra sao. Có lẽ sẽ giao cho một người họ hàng nào ở quê mà ông chưa từng nhắc tới chăng?

Chưa đầy một tuần sau, Grace đã có câu trả lời. Vào một buổi chiều âm u, sau khi giờ đọc sách kết thúc thì có một người đàn ông đứng tuổi tiến lại gần cô.

Việc này không có gì lạ. Nhiều thính giả mới thường nán lại trò chuyện với cô về quyển sách vừa nghe hoặc nhờ Grace giới thiệu vài cuốn sách khác. Bình thường Grace rất cởi mở chia sẻ với họ nhưng hôm nay, lồng ngực cô đang muốn vỡ vụn.

“Xin hỏi cô có phải cô Bennett không?” Người đàn ông lên tiếng.

“Tôi có thể giúp gì cho ông?”

“Tôi là Henry Spencer, luật sư ở văn phòng Spencer & Clark.” Người nọ mỉm cười. “Nếu có thể, tôi xin phép trao đổi với cô vài lời.”

Grace đưa mắt nhìn bác Weatherford đang đứng khá gần đó, đủ để nghe được cuộc nói chuyện. Bác dùng tay ra hiệu cô nên đi theo người đàn ông đó.

Grace dẫn vị luật sư đi theo mình vào căn phòng phía sau và ngại ngùng xin lỗi vì không gian quá chật chội. Từ khi không thể đặt được sách ở đại lý Simpkin Marshalls, họ đã bán hết những cuốn sách cuối cùng còn trong kho. Tuy nhiều chiếc thùng đã được dọn sạch sẽ nhưng gian phòng gọn gàng này vẫn quá khiêm tốn.

“Tôi thường không bao giờ đến chỗ làm ăn của thân chủ mình,” ông Spencer mở lời. “Nhưng ông Evans còn là bạn tôi nên tôi muốn chắc chắn có cơ hội nói chuyện riêng với cô.”

Một cơn đau chẹn ngang cổ họng Grace.

“Cô biết đấy, ông Evans không có người thân.” Vị luật sư đưa tay vào túi và rút ra vài chiếc chìa khóa. “Ông ấy để lại tất cả cho cô. Hiệu sách, căn hộ phía trên, mọi tài sản của ông Evans bây giờ đều thuộc về cô.”

Grace chớp mắt kinh ngạc, “Tôi sao?”

“Đúng vậy, cô Bennett. Theo những gì tôi biết thì cô chính là người đã giúp cho hiệu sách Đồi Primrose được như ngày hôm nay. Tôi nghĩ ông ấy biết rằng không ai có thể chăm chút cho nó chu đáo như cô.” Ông Spencer trao chùm chìa khóa cho Grace và nói cô kí vào một văn bản. Tay Grace run rẩy đến mức chữ viết trở nên xiêu vẹo.

Grace nhận ra chìa khóa của cửa hàng vì nó giống hệt cái của cô. “Còn hai cái này thì sao?” Cô hỏi.

Vị luật sư chỉ vào chìa khóa lớn hơn, “Cái này của căn hộ. Cái kia thì tôi không biết.”

Nhưng ngay khi ông trả lời thì Grace đã biết ngay chiếc chìa khóa đó là của cái gì: két sắt của bác Evans.

Grace nhớ lại cái ngày ông cho cô xem những quyển sách quý được giải cứu từ ngọn lửa hủy diệt của Đức quốc xã. Ngày đó mới xảy ra cách đây vài tháng nhưng cô cảm giác đã xa xôi như cả một đời, và cũng chỉ như mới ngày hôm qua mà thôi. Qua những lời nói sâu sắc của mình, ông không chỉ muốn chia sẻ tài sản lớn lao đó với riêng cô mà còn với cả thế giới.

Từ bây giờ, hiệu sách đã thuộc về Grace. Hơn bao giờ hết, cô quyết tâm phải làm cho cửa hàng Đồi Primrose thành công rực rỡ, không chỉ vì bản thân mình mà còn vì ông Evans.