← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 20

Grace đóng quyển sử thi Odyssey lại. Đây là một trong những tác phẩm cô thấy ông Evans thường xem lướt qua khi còn sống.

Và chiều nay cô đã đọc nó cho các thính giả trong tiệm nghe.

Nếu như không vì hiệu sách này, có lẽ Grace khó lòng vượt qua được những ngày tháng vừa rồi.

Cô chìm đắm trong những trang sách, trong việc bán hàng và đọc truyện cho mọi người nghe.

“Cô có ổn không?” Bà Smithwick, một người nội trợ đứng tuổi luôn đeo chuỗi vòng cổ ngọc trai, đặt tay lên cánh tay Grace.

Mỗi khi được thăm hỏi như vậy, cô luôn luôn gật đầu, “Việc đọc những cuốn sách bác Evans thích khiến tôi đỡ buồn hơn rất nhiều.” Grace chân tình đáp. “Cảm ơn bác.”

“Tôi chưa bao giờ nghĩ những quyển sách cổ như vậy lại hay đến thế.” Bà Smithwick nháy mắt thích thú.

“Tôi cũng vậy.” Grace thoáng cười một mình. “Bác Evans thích tất cả những cuốn sách kinh điển. Tôi rất vui vì mọi người đã nghe tôi đọc thử cuốn này.”

“Cô hãy tiếp tục đọc hết nhé.” Bà Smithwick khuyến khích. “Và chúng tôi sẽ thường đến đây nghe.”

Grace gật đầu cảm ơn rồi đặt quyển sách ở phía sau quầy thu ngân để nó không bị lẫn lộn với những cuốn khác. Cô đã lấy quyển sử thi này từ kệ sách đồ sộ trong căn hộ của ông Evans nằm phía trên cửa hàng.

Các mép trang sách mềm đi chứng tỏ ông Evans từng đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần. Một góc bìa bị móp và bên trong có nhiều chỗ bị nhòe mực như thể ông đã đặt ngón tay lên một đoạn văn nào đó. Quyển sách rõ ràng đã sờn cũ và rất đáng quý.

Grace chạy như con thoi giữa việc quản lý cửa hàng và trực giám sát phòng không suốt những đêm dài nên gần như không còn thì giờ dọn dẹp căn hộ mà ông Evans để lại nữa. Thời gian này, những trận đánh bom tuy đã bớt đi nhưng vẫn còn nhiều việc phải làm. Sự ra đi của ông Evans khiến Grace quá đau khổ nên cô không còn thiết đến việc gì, huống hồ là chuyển đến ngôi nhà nhỏ đó. Thật lòng mà nói, cô vui vẻ quyết định ở lại với bác Weatherford thêm một thời gian nữa vì cảm thấy bản thân chưa đủ mạnh mẽ để sống một mình.

Quá nhiều người đã ra đi.

Quá nhiều.

Mẹ Grace. Colin. Ông Evans. Ông Pritchard. Và tất cả nạn nhân chiến tranh mà cô đã nhìn thấy trong những ngày tháng đau thương vừa rồi.

Chỉ trong một thời gian ngắn ngủi mà đã xảy ra nhiều mất mát đến vậy. Tất cả tích tụ trong cô như cơn sóng thủy triều cuồn cuộn đập vào con đập đang lung lay. Cơn sóng càng dữ dội, Grace càng vùi đầu vào công việc.

Bác Weatherford dĩ nhiên không muốn thấy đứa cháu gái miệt mài làm việc để quên đi nỗi buồn và thường xuyên than phiền về diện mạo ngày càng tiều tụy của cô. Bà cố đẩy thức ăn về phía Grace để ép cô ăn nhiều hơn. Nhưng Grace không thiết tha một món nào, kể cả món bánh Woolton mà họ đã đổi tên thành bánh Le Woolton kể từ sau buổi hẹn hò của cô ở khách sạn Ritz, hay ngay cả món thịt vịt hiếm lắm mới tìm được mà cô cũng không buồn ngó đến.

Làm sao Grace có thể vui vẻ ăn uống ngon lành khi xung quanh cô có quá nhiều sự mất mát và hủy diệt? Ngày nào cũng có nhiều ngôi nhà bị phá hủy và biết bao người vô tội bị tàn sát. Bóng tối bao trùm khắp nơi, thức ăn nhạt nhẽo và đầy xương xẩu. Chen giữa tất cả là tiếng còi báo động rền rĩ không ngớt vang lên, nhắc nhở rằng tình trạng này sẽ còn tái diễn đến vô cùng.

Chiến tranh đã kéo dài đằng đẵng và cảm giác như không có ngày kết thúc.

Sau khi báo tin ông Evans mất, Grace bắt đầu hồi âm cho Viv và George chậm hơn trước. Những lời lẽ cô có thể nghĩ ra chỉ càng khiến cánh thư thêm trĩu nặng, và chẳng có ích gì khi để cho hai người bạn gánh thêm nỗi phiền muộn của mình.

Cô chuyển sang sắp xếp lại phần trưng bày ở ô cửa sổ lớn. Có lẽ công việc đòi hỏi óc thẩm mỹ này sẽ giúp Grace tạm quên đi cảm giác trống vắng trong lòng.

Một khuôn mặt quen thuộc xuất hiện bên cạnh cô.

Bà Nesbitt lướt mắt nhìn dãy sách ngăn nắp gọn gàng nằm giữa các bông hoa được gấp bằng giấy báo màu. Chúng báo hiệu mùa xuân đang đến bất chấp cơn mưa phùn ảm đạm ngoài kia.

“Cô lại đổi cách trưng bày à?” Bà khịt mũi. “Chẳng phải tuần này cô đã làm rồi sao?”

Grace nhún vai, “Nó sẽ thu hút nhiều khách hàng hơn, tốt cho tất cả chúng ta thôi.”

Bà Nesbitt ngập ngừng như định phản đối bằng một lý do mà bà rất không muốn nói ra. Bà nhặt một sợi dây vướng trên chiếc áo khoác đồng phục của mình, “Nếu cô chết vì kiệt sức thì chẳng có lợi cho ai hết.”

Grace cười rầu rĩ.

“Tôi không đùa đâu,” bà lạnh lùng nói tiếp. “Tôi nói chân thành, cô Bennett ạ, cho dù cô có làm bao nhiêu đi nữa thì cũng không thể nào khiến ông ấy sống lại.”

Trong tất cả những điều gây tổn thương mà người phụ nữ đó đã ném vào Grace, thì câu nói vừa rồi là lưỡi dao sắc nhọn nhất.

Những giọt nước cứ ầng ậc tuôn ra từ mắt cô, “Làm ơn đi đi.”

“Trước đây cô đã nói với tôi những điều tôi cần nghe, bây giờ tôi muốn đền đáp lại.” Giọng bà dịu lại. “Dù cô có tin hay không nhưng khi nói vậy, bản thân tôi cũng rất đau lòng.”

Tuy những lời nói khắc nghiệt vừa nãy giống như kim châm vào lòng Grace, nhưng sự thông cảm bất ngờ của người phụ nữ cáu kỉnh này chỉ càng khiến cơn đau trong lồng ngực cô dâng lên dữ dội.

“Tôi có thể giúp một tay nếu cô cần, tôi sẽ làm ở đây một, hai ngày cho đến khi cô tìm được nhân viên.” Bà Nesbitt thở dài trước sự cống hiến to lớn mà bà vừa đề nghị. “Chứ cô không thể cứ tiếp tục thế này.”

Bác Weatherford cũng đã đề nghị giống y như vậy. Grace đột nhiên hiểu ra động lực thật sự của bà Nesbitt - chắc hẳn là vì bác của cô.

“Bác Weatherford nhờ bà đến đây sao?” Grace hỏi.

Bà Nesbitt mỉa mai, “Cô gái thân mến, tôi tự có mắt. Nhìn cô yếu ớt như cơn gió bướng bỉnh sắp tàn vậy.”

Grace đưa mắt sang chỗ khác, không muốn thừa nhận những điều bà vừa nói. Bà Nesbitt cũng không nói gì thêm và quay gót rời đi.

Tối hôm đó, Grace rất giận dữ và mệt mỏi vì cho rằng bác Weatherford đã nhờ bà Nesbitt cũng như tất cả mọi người đến nhắc nhở rằng cô đang bán sức làm việc. Cô xô cửa bước vào, định bụng phải hỏi người phụ nữ mà cô vẫn luôn xem là bạn cho ra lẽ.

“Grace,” bác Weatherford uể oải nói vọng ra, “Grace, cháu về đó hả?” Tiếng bước chân của bà vang lên trong nhà bếp, sau đó là giọng thủ thỉ âu yếm chứng tỏ con mèo Tabby đang quanh quẩn bên chân bà.

Bà Weatherford đẩy cửa nhà bếp ra, than thở, “Grace ạ, bây giờ họ còn thêm phô mai vào danh sách hạn chế nữa. Phô mai đấy!” Bà đưa mắt nhìn lên trời.

“Có phải bác đã kêu bà Nesbitt đến nói chuyện với cháu không?” Grace hỏi, cố gắng kiềm chế giọng nói gay gắt.

Bà Weatherford khịt mũi, “Bác không bao giờ nhờ bà ta xen vào chuyện riêng của mình đâu.”

“Vậy không phải do bác kêu bà ấy đến gặp cháu và nói rằng cháu đang làm việc quá nhiều sao?” Grace chống nạnh, ngờ vực hỏi.

Đến lúc này thì bác Weatherford bật cười sảng khoái, “Vậy là cháu cũng nghe rồi đó. Nhưng bác vẫn sẽ cứ lải nhải dù cháu có bỏ ngoài tai, cho đến khi nào cháu chịu hiểu tại sao bác phải nhắc nhở cháu.” Bà bế con mèo lên lòng mình. Tabby rúc vào dưới cằm bà chủ và bà nói tiếp trong lúc trìu mến vuốt ve đầu nó. “Bác cam đoan là bác không bao giờ nhờ bất kì ai thay mình đi nói chuyện với cháu, trong khi bác có thể khuyên nhủ cháu tốt hơn.” Bác ngập ngừng. “Tuy rằng bác hi vọng có thể nói với cháu về một chuyện khác.”

Grace chuẩn bị tinh thần đón nhận một điều gì đó rất khủng khiếp. Hầu hết tin tức đến với cô trong thời gian này chẳng có gì tốt đẹp.

“Bác đã cân nhắc về việc làm một số thủ tục cần thiết để nhận nuôi Jimmy và Sarah.” Bác Weatherford đặt Tabby xuống giữa đống lông mèo vừa cắt. “Bác muốn hỏi cháu nghĩ thế nào nếu như hai đứa trẻ về sống với chúng ta.”

Cuộc sống của anh em Jimmy càng lúc càng tươi sáng và lạc quan hơn qua từng tuần. Bây giờ, cả hai không chỉ đến nghe Grace đọc sách mỗi chiều mà còn thường xuyên ghé nhà bà Weatherford để ăn tối hoặc giúp bà làm vườn. Những đứa trẻ đã mang tiếng cười trở về với ngôi nhà quá lặng lẽ bấy lâu nay. Nghĩ đến việc chúng sẽ ở đây lâu dài, Grace bất giác mỉm cười vui vẻ.

“Bác cũng nghĩ cháu sẽ thấy vui.” Bác Weatherford tươi cười. “Ngày mai bác sẽ nói chuyện với tụi nhỏ để xem chúng có đồng ý không.”

Grace gật đầu đáp lại và đi lên phòng. Cảm giác mệt mỏi siết chặt lấy người cô đúng như cô mong đợi. Như vậy sẽ không có những kí ức đau buồn trỗi dậy trong tâm trí khi Grace đang cố gắng dỗ giấc, những điều chỉ khiến cho Grace thao thức, trằn trọc suốt đêm. Tối nay cô sẽ ngoan ngoãn để cho bóng đêm đưa mình vào giấc ngủ.

Grace mở tủ ra để treo áo khoác và bắt gặp bộ đồng phục giám sát phòng không. Gần đây, họ đã đổi sang trang phục mới màu xanh da trời may bằng vải xéc. Đàn ông sẽ mặc quân phục dã chiến còn phụ nữ mặc áo đồng phục với váy. Đêm nay cô được nghỉ trực nên không cần đến chúng.

Grace buộc bản thân phải tỉnh táo và xuống ăn tối với bác Weatherford. Bác đã nhắc đến tình hình thực phẩm khan hiếm vì quy định thời chiến và khơi dậy cảm giác áy náy để khuyến khích cô cố gắng ăn một chút. Một bữa ăn có thịt xông khói, bơ, một chút phô mai hay một miếng thịt thái mỏng đều rất đỗi đáng quý nên tuyệt đối không lãng phí được.

Sau khi ăn xong, rửa sạch bát đĩa và xếp lên ngăn nắp, hai bác cháu chuẩn bị đến ngủ ở nhà ga Farringdon. Tuy những cuộc không kích dần dần ít lại nhưng để đề phòng cẩn thận, mọi người vẫn đến ga tàu điện ngầm trú ẩn.

Điều đó có nghĩa là sàn nhà ga vẫn sẽ chật như nêm không còn lấy một chỗ trống. Vì vậy khi trời vừa tối, hai bác cháu đã ôm cuộn chăn gối đến ga đứng xếp hàng. Lúc này, Grace nhận thấy bầu trời u ám đã bắt đầu quang đãng. Làn da cô bỗng run rẩy như bị kim châm, những sợi lông nhỏ trên cánh tay dựng đứng lên hết.

Đêm nay chắc chắn sẽ có trăng soi đường cho máy bay ném bom. Cần phải có thật nhiều mây để che chắn cho thành phố London này.

Nhất là khi thủy triều sông Thames đang xuống thấp.

Nỗi lo sợ chờn vờn trong đầu Grace, cộng thêm cảm giác kiệt sức càng khiến cô bồn chồn hồi hộp.

Grace và bác Weatherford tiến vào ga tàu, bước qua những người đã sắp xếp yên ổn chỗ ngủ cho cả đêm hôm đó rồi tìm một chỗ ngả lưng cho cả hai. Mặc dù Grace đã thấm mệt nhưng vẫn không tài nào an tâm ngủ được.

Bình thường cô có thể ngủ ngon lành bất chấp tiếng nói chuyện lao xao lẫn tiếng ngáy khò khò xung quanh. Chỉ cần vài phút là Grace đã mơ màng thiếp đi vì quá mệt. Nhưng tối nay, giấc ngủ của cô liên tục bị gián đoạn với những kí ức đầy ám ảnh lởn vởn trong tâm trí giống như một túi sỏi to đầy ứ.

Khoảng sau 11 giờ đêm, tiếng còi không kích lại ré lên tiếng rền rĩ nhưng đã bị các lớp đất và vỉa hè bên trên bóp nghẹt. Tuy nhiên, trận giội bom thường lệ thì không dễ dàng chịu im tiếng như vậy.

Những tiếng bom rú rít. Tiếng pháo cao xạ bắn đùng đùng. Tiếng chất nổ bùng lên như sấm rền, quét sạch mọi thứ ở khu vực chúng giáng xuống. Vô số mảng thạch cao và bụi phấn trên trần nhà rơi xuống lả tả như mưa. Đèn đuốc chập chờn nhấp nháy rồi có lúc đột ngột tắt phụt.

Dĩ nhiên họ đã quen với những âm thanh đó, nhưng tình hình đang xảy ra trên mặt đất còn ác liệt hơn nhiều so với những đêm đánh bom bình thường.

Nỗi lo sợ càng đè nặng trong ngực Grace.

Bác Weatherford ôm chặt chiếc túi lớn màu xanh, một tay bác thò vào bên trong và Grace biết bác đang vuốt ve Tabby. Lẽ ra họ không nên mang theo vật nuôi nhưng bác nhất quyết không bỏ lại chú mèo nhỏ, và chú mèo cũng biết điều ngoan ngoãn nằm im trong túi cho đến khi họ về nhà vào buổi sáng hôm sau.

Màn đêm chầm chậm bò qua. Những âm thanh đáng sợ dội xuống hết giờ này sang giờ khác, cho đến tận khi trời sáng thì cuộc oanh tạc mới chấm dứt. Linh tính không lành nhộn nhạo trong lòng Grace đã tích tụ thành một khối sắc lạnh. Rắn chắc.

Có điều gì đó không ổn.

Cô có thể cảm nhận được nó.

Cảm giác đó giống như bị kiến chích vào da, hay bầu không khí đầy ẩm ướt trước khi xảy ra đại hồng thủy. Chắc chắn có điều gì đó chẳng lành.

Cuối cùng, một hồi còi dứt khoát vang lên báo hiệu nguy hiểm đã qua đi. Những người tị nạn ở ga Farringdon lục tục xếp hàng rời khỏi. Grace gần như không còn kiên nhẫn nổi nên khoảng thời gian chờ đợi này khiến cô vô cùng khổ sở. Cô không thể đứng yên được mà sốt ruột thay đổi dáng đứng từ chân này sang chân khác.

Mọi người chậm chạp lê từng bước ra ngoài, và Grace hiểu ngay lý do tại sao họ phải làm vậy khi cô bước chân ra khỏi nhà ga. Bầu trời đỏ rực ánh lửa, những cột khói đen sì cuồn cuộn bao trùm khắp nơi. Nhà cửa nứt toác và đổ sụp, nhiều nhà hoàn toàn biến mất, văng khỏi dãy phố như chiếc răng bị gãy trong một nụ cười lởm chởm.

Trái tim Grace đập như trống dồn. Mồ hôi rịn ra trong lòng bàn tay.

“Trời, Grace,” bác Weatherford thảng thốt. “Thật khủng khiếp.”

Grace chạy nhanh về phía dãy nhà. Cô gần như hụt hơi khi vòng qua góc phố, hồi hộp không biết cảnh tượng gì đang chờ trước mắt.

Bà Weatherford thở hồng hộc chạy theo sau, “Bác không chạy nổi khi mang theo Tabby.”

Nhưng Grace không nghe thấy vì đang mải xem xét dãy nhà gọn gàng nằm trên con phố của họ. Ngôi nhà của hai bác cháu vẫn nguyên vẹn không hư hại gì. Bên cửa sổ là những cây cà chua đang nảy mầm trong mấy cái chậu thay cho những bông hoa dã quỳ tím và trắng trước đây.

Cảm giác khiếp sợ càng dâng lên trong lòng Grace.

Máu trong người cô dường như đóng băng.

Hiệu sách.

“Đừng đi theo cháu,” Grace nói với bác Weatherford.

Không để bác kịp hỏi thêm câu nào, Grace cắm đầu chạy về phía đường Hosier với bọc chăn gối ôm chặt trên ngực. Không khí cay sè và mù mịt khói đốt cháy cổ họng và xộc thẳng vào mắt Grace nhưng cô không hề giảm tốc độ. Grace chạy vụt qua những người đang lũ lượt trở về nhà sau một đêm nằm vật vạ ở ga tàu.

Cô phải tự trấn an mình rằng nó vẫn an toàn, nó ắt sẽ sống sót vượt qua cuộc tấn công tàn bạo vừa rồi. Và rằng ông Evans đã tin tưởng giao lại cửa hàng cho cô.

Thế nhưng càng đến gần, cảm giác bất an càng tăng lên dữ dội. Và khi rẽ vào đường Hosier, Grace đột ngột dừng lại, lúc này cô đã biết chính xác lý do tại sao mình đã lo lắng đến vậy.

Những ngọn lửa đã được dập tắt vẫn cháy âm ỉ trên đường. Tòa nhà bên phải cửa hàng bị tấn công, chỉ còn lại đống gạch nát vụn. Hiệu sách Đồi Primrose vẫn đứng đó, nhưng không còn nguyên vẹn.

Tất cả kính cửa sổ bị vỡ tan, những trang giấy rách tả tơi bị một cơn gió vô hình thổi bay tứ tung lẫn giữa đống cát sỏi trên vỉa hè. Cửa lớn đã mất và toàn bộ đồ đạc bên trong biến thành mớ hỗn độn. Bên trên, mái nhà tốc lên một mảng và lớp vữa gần đó bị cháy xém nhưng may mắn là ngọn lửa không tàn phá đến bộ khung.

Tim Grace như thắt lại, rơi tõm vào hố sâu khiếp sợ vô cùng. Cô đứng lặng, thẫn thờ, bất động trước cảnh tượng trước mắt. Một cơn gió thổi tung váy của cô, cuốn theo đống tro tàn và hơi nóng phả ra từ ngọn lửa gần đó.

Cửa hàng không thể hoạt động nữa.

Nguồn sức mạnh của Grace đã bị hủy hoại triệt để.

Grace cố thúc ép bản thân phải làm gì đó, rồi cô bước đến tòa nhà bị tàn phá, tấm khăn trải giường tuột khỏi tay tự lúc nào không hay. Xung quanh cô là tiếng nổ lách tách của đám lửa gần cạnh, tiếng thủy tinh lạo xạo vỡ ra dưới chân hòa trong tiếng thở dồn dập của cô.

Grace đã thầm cầu mong rằng khi nhìn gần, biết đâu hiệu sách Đồi Primrose sẽ bớt tan hoang phần nào, nhưng mọi hi vọng đều hóa thành mây khói. Trước mặt cô chính là nơi cô đã dốc hết lòng chăm chút, là kết tinh thành quả cả cuộc đời miệt mài lao động của ông Evans, và là cộng đồng đọc sách mà cô đã bỏ công gầy dựng.

Grace khổ sở tìm lại nhịp thở khi nỗi đau nứt toác ra trong lòng, nóng bỏng và thấm thía. Một bông hoa nhỏ gấp bằng giấy báo in màu dùng để trang trí cho khung cửa sổ đang lăn lông lốc giữa những mảnh kính vỡ lẫn bụi bặm, và nó dừng lại ngay trước mũi giày của Grace. Cô cúi xuống nhặt nó lên. Cành hoa được cuộn bằng giấy báo tỏa ra cảm giác mát lạnh và cứng cáp giữa các ngón tay Grace. Những cánh hoa màu hồng vẫn mới tinh, sạch sẽ như khi vừa mới gấp.

Grace phải đi vào trong để tận mắt kiểm tra.

Nếu như không còn gì, cô cũng phải bảo vệ cho những quyển sách quý giá nằm trong két.

Grace bước qua ngưỡng cửa trống hoác và chầm chậm bước qua đống hỗn độn, thận trọng để không giẫm phải những quyển sách bị rơi xuống đất. Cô sẽ cứu chúng, chỉ cần còn nước còn tát.

Nhưng lúc này, Grace đang hoang mang tự hỏi làm sao để phân loại sách của cửa hàng Đồi Primrose với những cửa hàng khác. Sau đó cô nhớ ra mình đã đóng dấu tên của mỗi hiệu sách ở bên trong bằng mực xanh. Tạ ơn Chúa vì chính nhờ óc tổ chức tỉ mỉ đó mà Grace đã quán xuyến được mọi thứ từ trước đến nay.

Bây giờ thì điều đó cũng chẳng giúp ích gì cho những chủ cửa hàng khác, giống như hiệu sách của họ, cửa tiệm Đồi Primrose hầu như đã bị tàn phá hoàn toàn. Chẳng còn nơi nào cho họ trông cậy nữa.

Grace giàn giụa nước mắt khi ý thức được sự bất lực không thể tiếp tục giúp đỡ những người đang nương tựa vào mình.

Căn phòng sau đã bị mất cửa và chiếc bàn nhỏ vỡ ra thành những khối kim loại vương vãi trong một góc. Thật may vì chiếc két sắt vẫn nằm âm vào tường. Grace khổ sở đánh vật với cái ngăn kéo để lấy đèn pin ra. Sau đó, bằng đôi tay run rẩy, cô nín thở rồi từ từ mở khóa két sắt ra.

Di sản của ông Evans chính là những quyển sách đáng quý mà ông đã thu thập và hết lòng bảo vệ.

Cánh cửa kẽo kẹt mở ra khiến Grace thở mạnh dồn dập. Những cuốn sách từng được giải cứu khỏi ngọn lửa căm thù của Hitler lại một lần nữa thoát khỏi cái chết trong gang tấc. Chúng an toàn nép mình trong chiếc két âm tường với tất cả các cạnh đều được bọc lại trong lớp vỏ kim loại dày cứng cáp.

Grace đã định lấy chúng ra để mang về nhà ở phố Britton. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, cô thấy tốt hơn hết vẫn nên để chúng ở trong cái hộp sắt này. Khi chuẩn bị đóng cửa lại thì Grace chợt nhìn thấy một mảnh giấy lộ ra.

Một phong bì.

Một góc phong bì thò ra giữa hai quyển sách có tựa đề bằng tiếng Đức mà cô không biết đọc. Grace rút nó ra và thấy tên mình được viết trên đó bằng nét chữ nghiêng nghiêng của ông Evans.

Grace nín thở.

Cô trượt ngón tay xuống mở nắp phong bì rồi rút ra một lá thư được đánh máy ngay ngắn.

Kính gửi Ông/Bà,

Tôi viết thư này để giới thiệu cô Grace Bennett đến làm việc ở chỗ ông/bà. Cô Bennett đã làm nhân viên ở cửa hàng của tôi, Hiệu sách Đồi Primrose, trong sáu tháng qua. Suốt thời gian đó, cô ấy đã biến cửa hàng bừa bãi, lộn xộn của tôi trở thành một nơi xinh xắn, trang nhã, từ đó giúp gia tăng doanh thu đáng kể và được nhiều người biết đến hơn.

Cô Bennett là một cô gái trẻ trung, nhã nhặn với tấm lòng nhân hậu và trí thông minh nhạy bén. Quả thật cô ấy rất xuất sắc.

Nếu ông/bà không tuyển cô ấy thì thật là ngốc nghếch, và tôi còn ngốc hơn nếu để cô ấy đi.

Sẽ không có bất kì ai chăm sóc cho hiệu sách của tôi chu đáo hơn cô Bennett, kể cả chính tôi.

Trân trọng, Percival Evans

Grace có thể nghe thấy giọng nói của ông văng vẳng trong đầu, mỗi lúc một quyết liệt hơn.

Sẽ không có bất kì ai chăm sóc cho hiệu sách của tôi chu đáo hơn cô Bennett.

Nhưng đống đổ nát xung quanh cô dường như nói lên điều ngược lại. Grace cẩn thận gấp lá thư bỏ vào phong bì và cất trong két sắt.

Nếu không còn hiệu sách, chắc chắn cô sẽ khiến mọi người thất vọng. Những người bán hàng đang dựa vào nơi này để tìm kế sinh nhai, những độc giả tới đây để đắm chìm vào trang sách, chưa kể cả bản thân cô. Và ông Evans nữa.

Phải chăng Grace đã mất tất cả rồi?