← Quay lại trang sách

Chương 2

“Cô ấy là vợ cũ của Người-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy, ông Le P.”

Nhưng ông không biết. Perdu không đọc báo lá cải Paris.

Một tối thứ Năm nọ, Catherine Le P.-Người-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy về nhà muộn sau khi hoàn tất công việc ở đại lý môi giới nghệ thuật của chồng, nơi cô phụ trách việc PR. Chìa khóa của cô không cắm vào ổ khóa được nữa và trên cầu thang là vali bên trên để giấy tờ ly hôn. Chồng cô đã chuyển đến một địa chỉ không ai hay biết cùng với đống đồ đạc trong nhà và một người phụ nữ mới.

Catherine, sắp-sửa-trở-thành-vợ-cũ-của-ông-Le-P.-Khốn-Nạn, chẳng còn gì trong tay ngoài chỗ quần áo ngày trước cô mang theo khi lấy chồng - cùng một sự giác ngộ rằng mình đúng là khờ khi tin chắc rằng tình yêu trước đây giữa hai người sẽ đảm bảo cho cô được đối xử tử tế sau khi họ chia tay nhau và rằng cô hiểu quá rõ chồng rồi, ông ta không thể làm cô ngạc nhiên được nữa.

“Một sai lầm phổ biến,” bà Bernard, chủ nhà, đã phán chắc nịch vậy giữa những luồng khói phụt ra từ cái tẩu thuốc bà đang hút. “Ta chỉ biết được bộ mặt thật của chồng mình khi hắn bỏ rơi ta.”

Cho đến lúc này ông Perdu vẫn chưa nhìn thấy mặt người phụ nữ đã bị chồng ruồng rẫy phũ phàng đến vậy.

Ông lắng nghe tiếng khóc cô đơn mà cô đang tuyệt vọng ghìm xuống, có thể là bằng tay hay khăn lau. Giờ mà gõ cửa thì thể nào cũng làm cho cô lúng túng. Ông quyết định quay về nhà lấy nốt lọ hoa với ghế mây.

Ông nhón chân đi đi lại lại giữa hai căn hộ. Ông biết rõ căn nhà xinh xắn cổ lỗ này có thể tráo trở đến mức nào, miếng ván nào sẽ kêu cọt kẹt, bức tường nào mới xây mỏng quẹt, và đường ống âm tường nào là những cái loa trá hình.

Khi ông nhìn chăm chăm xuống bức xếp hình mười tám nghìn mảnh ghép thành bản đồ thế giới ở căn phòng khách trống trải chẳng có gì khác ngoài nó, âm thanh cuộc đời những cư dân khác truyền qua cốt nhà đến tai ông.

Những cuộc cãi cọ của vợ chồng nhà Goldenberg (Ông chồng: “Sao em không thể một lần…? Tại sao em…? Không phải anh đã…?” Cô vợ: “Anh lúc nào cũng phải… Anh chẳng bao giờ… Em muốn anh…”) Ông biết hai người từ hồi họ còn là vợ chồng son. Hồi đó họ cười với nhau suốt. Rồi thì bọn trẻ xuất hiện và họ dạt ra khỏi nhau như các lục địa.

Ông nghe thấy tiếng xe lăn điện của Clara Violette lăn bánh trên rìa thảm, sàn gỗ và ngưỡng cửa. Ông vẫn còn nhớ hình ảnh cô nhạc công piano trẻ tuổi ấy cái thời đôi chân cô vẫn còn nhảy múa được.

Ông nghe thấy tiếng Che với cậu Kofi nấu nướng. Che đang khuấy nồi. Bị mù từ khi lọt lòng mẹ nhưng cậu ta nói mình có thể nhìn thấy thế giới thông qua những vệt thơm ngát theo sau cảm xúc và ý nghĩ của một người. Che có thể cảm nhận được một căn phòng đã từng có tình yêu, có sự sống, có cãi vã hay chưa.

Vào Chủ nhật hằng tuần, Perdu cũng nghe cả tiếng bà Bomme với câu lạc bộ bà góa cười rúc rích như những thiếu nữ với đống sách “đen” ông tuồn cho họ sau lưng đám họ hàng bảo thủ.

Những lát cắt cuộc đời mà ta nghe lỏm được ở ngôi nhà số 27 đường Montagnard tựa như đại dương vỗ sóng vào bờ hòn đảo câm lặng của Perdu.

Ông đã lắng nghe như thế hơn hai mươi năm qua. Biết tường tận về hàng xóm xung quanh, ông đôi khi đâm ra ngạc nhiên trước việc mọi người biết về ông ít ỏi nhường nào (dầu cho ông cũng chẳng bận tâm). Họ không hay biết rằng ông chẳng có đồ đạc gì trong nhà ngoài một chiếc giường, một chiếc ghế với một cái giá treo quần áo - không đồ trang trí, không đĩa nhạc, không tranh hay album ảnh, không bát đũa cốc chén (ngoài một bộ ông dùng), không cả một bộ com lê ba mảnh - hay họ cũng chẳng biết ông đã tự nguyện chọn lấy cho mình cuộc sống đơn giản này. Hai căn phòng ông sống trống trải đến nỗi chúng vọng lại cả tiếng ông ho. Món đồ duy nhất có trong phòng khách là bức xếp hình khổng lồ dưới sàn nhà. Phòng ngủ trống tênh chỉ kê mỗi giường, cầu là, đèn đọc sách với giá treo quần áo có bánh xe, bên trên treo ba bộ đồ giống hệt nhau gồm: quần xám, áo sơ mi trắng, áo len màu nâu cổ chữ V. Còn ở bếp thì chẳng có gì ngoài bình pha cà phê, hộp cà phê bằng thiếc với giá để đồ ăn. Sắp xếp theo thứ tự alphabet. Không ai trông thấy cảnh tượng này có khi lại hay.

Dẫu vậy, ông nuôi dưỡng một thứ tình cảm yêu mến lạ lùng với những cư dân trong căn nhà số 27 đường Montagnard. Ông cảm thấy một niềm vui khó lý giải khi biết họ vui - và bằng cái lối khiêm nhường của mình, ông cố gắng đóng góp đôi chút. Ông giúp họ bằng những cuốn sách. Ngoài những lúc ấy ra thì ông lui về phía sau làm một bóng hình nhỏ bé trong bức tranh trong khi cuộc sống nhộn nhịp diễn ra ở mặt tiền.

Tuy vậy, cậu khách trọ mới ở dưới tầng ba, Maximilian Jordan, không để cho ông Perdu được yên thân. Cậu ta đeo nút tai được thiết kế riêng, bên ngoài trùm bịt tai, cộng thêm một chiếc mũ len vào những ngày trời lạnh. Kể từ khi cuốn tiểu thuyết đầu tay làm cho danh tiếng cậu nhà văn trẻ đó nổi lên như cồn, cậu ta đã phải trốn biệt khỏi đám fan cuồng sẵn sàng chặt tay mình để được dọn vào ở chung với thần tượng. Trong khi đó, Jordan lại dành cho ông Perdu một mối quan tâm đặc biệt.

Trong khi Perdu đứng ở đầu cầu thang xếp cái ghế cạnh bàn bếp rồi để lọ hoa lên trên, tiếng khóc ngừng lại.

Thế vào đó là tiếng tấm ván cọt kẹt, có người đang cố đi thật khẽ để không gây ra tiếng động.

Ông dòm qua tấm kính mờ trên cánh cửa màu xanh lục. Rồi ông gõ hai tiếng thật nhẹ.

Một khuôn mặt tiến lại gần. Một khuôn mặt trái xoan trắng trẻo, mờ nhòa.

“Vâng?” khuôn mặt trái xoan thì thầm.

“Tôi mang qua cho cô cái bàn với cái ghế.”

Khuôn mặt trái xoan chẳng nói chẳng rằng.

Mình phải nói thật nhẹ nhàng với cô ấy. Cô ấy khóc nhiều quá, chắc là giờ đã hết cả nước mắt rồi, nếu mình nói to quá cô ấy sẽ gục luôn mất.

“Và cả lọ hoa nữa. Để cắm hoa. Những bông hoa đỏ chẳng hạn. Chúng sẽ hợp với cái bàn trắng này lắm.”

Giờ thì gò má ông gần như tì hẳn vào ô cửa kính.

Ông thì thầm, “Nhưng tôi cũng có thể tặng cho cô một cuốn sách.”

Đèn ngoài cầu thang vụt tắt.

“Sách kiểu gì cơ?” khuôn mặt trái xoan thì thầm đáp lại.

“Kiểu an ủi ta.”

“Tôi muốn khóc thêm nữa. Nếu không thì tôi chết đuối mất. Ông hiểu chứ?”

“Hẳn rồi. Đôi khi ta bơi giữa những giọt nước mắt chưa được khóc ra và sẽ chết chìm nếu cứ giữ chúng lại trong lòng.” Và tôi thì đang chìm nghỉm dưới đáy một đại dương nước mắt. “Vậy tôi sẽ mang qua cho cô một cuốn sách để khóc nhé.”

“Khi nào?”

“Ngày mai. Hứa với tôi cô sẽ ăn uống gì đó trước khi khóc tiếp nhé.”

Ông không hiểu sao mình lại nói năng mạo muội như vậy. Ắt hẳn là do cánh cửa đứng chắn giữa hai người họ.

Ô cửa kính nhòa đi vì hơi thở người phụ nữ.

“Vâng,” cô nói. “Vâng.”

Khi ánh đèn hành lang sáng trở lại, khuôn mặt trái xoan kia lùi lại khỏi cánh cửa.

Trong thoáng chốc, ông Perdu đặt tay lên tấm kính vừa in dấu khuôn mặt cô một giây trước.

Nếu cô ấy cần bất kỳ món đồ nào khác, tủ com mốt hay là dao gọt khoai tây, mình sẽ đi mua rồi bảo nó là đồ trong nhà mình.

Ông quay về căn hộ trống trải bên kia sảnh, cài chốt lại. Cánh cửa dẫn vào căn phòng đằng sau kệ sách vẫn mở toang. Càng nhìn lâu vào trong phòng ông càng có cảm giác như thể cái mùa hè năm 1992 ấy đang dâng lên từ sàn nhà. Nhảy xuống từ trên ghế xô pha, con mèo đáp đất bằng bốn bàn chân đệm thịt mịn như nhung và duỗi người. Ánh nắng vuốt ve một tấm lưng trần, tấm lưng ấy quay lại và___hiện ra. Nàng mỉm cười nhìn ông Perdu, nhỏm người dậy khỏi tư thế đọc sách và bước về phía ông, trên người không một mảnh vải, tay cầm cuốn sách.

“Cuối cùng anh cũng đã sẵn sàng rồi à?”_­__ hỏi.

Ông Perdu đóng sầm cửa lại.

Không.