
Hiệu Sách Nhỏ Ở Paris
Tổng số chương: 52
Tôi dành tặng cuốn tiểu thuyết này cho cha tôi,
JOACHIM ALBERT WOLFGANG GEORGE,
tên thường gọi là Broad Jo.
Sinh ngày 20-3-1938 tại Sawade/Eichwaldau,
mất ngày 4-4-2011 tại Hamelin.
Cha à,
Cha là người duy nhất đã đọc mọi thứ con viết ra từ ngày con mới bắt đầu học viết. Con sẽ luôn nhớ cha. Con thấy cha trong từng tia nắng mai, từng ngọn sóng biển.
Cha đã ra đi đột ngột quá.
NINA GEORGE
Tháng Một năm 2013
Dành tặng người đã khuất.
Và những ai vẫn yêu thương họ.
* Chương 1Trời xui đất khiến thế nào mà mình lại để cho họ thuyết phục như vậy chứ?
Hai nữ tướng của ngôi nhà số 27 đường Montagnard - bà Bernard, chủ nhà, với bà Rosalette, người coi nhà - đã dùng thế gọng kìm giữ chân ông lại ở giữa hai căn hộ tầng trệt của họ.
“Cái tay Le P. đó đối xử với vợ thật chẳng ra làm sao.”
“Thật đáng kinh tởm. Có khác nào con nhậy gặm tấm voan cưới đâu.”
“Có những người ta chẳng thể trách nổi khi nhìn vợ họ. Cứ như tủ lạnh diện đồ Chanel. Nhưng còn đàn ông ư? Quái vật cả lũ.”
“Hai bà à, tôi thực sự không hiểu…”
“Không nói ông đâu, dĩ nhiên rồi, ông Perdu. So với thứ sợi tầm thường xe nên lũ đàn ông, ông là len cashmere thượng hạng.”
“À tiện đây, chúng ta sắp có khách trọ mới. Tầng bốn. Của ông đấy, ông Perdu.”
“Nhưng cô ấy chẳng còn gì. Tuyệt đối chẳng còn gì, ngoài những ảo tưởng vỡ nát. Cô ấy cần gần như mọi thứ.”
“Thế nên chúng tôi mới nhờ đến ông. Hãy tặng lại bất cứ cái gì có thể. Món gì cũng quý cả.”
“Dĩ nhiên rồi. Có thể một cuốn sách hay…”
“Thực ra bọn tôi đang nghĩ đến thứ gì đó thực tiễn hơn. Bàn chẳng hạn. Ông biết đấy, cô ấy…”
“Chẳng còn lại gì. Tôi nhớ mà.”
Ông chủ tiệm sách không thể hình dung nổi có thứ gì lại thực tiễn hơn một cuốn sách, nhưng ông hứa sẽ tặng cho người mới đến một cái bàn. Ông vẫn còn một cái.
Ông Perdu đẩy nút thắt cà vạt dọc theo hàng khuy cái áo sơ mi trắng được là phẳng lì rồi cẩn thận xắn tay áo lên. Xắn vào trong, mỗi lần một nếp, lên đến khuỷu tay. Ông nhìn chằm chằm kệ sách ở hành lang. Đằng sau nó là căn phòng đã hai mươi mốt năm ông chưa đặt chân vào.
Hai mươi mốt năm, hai mươi mốt mùa hè, hai mươi mốt buổi sáng đầu năm mới.
Nhưng cái bàn lại ở trong căn phòng ấy.
Ông thở hắt ra, lần tay chọn đại một cuốn sách và rút ra cuốn 1984 của Orwell từ trên giá. Nó không vụn ra. Cũng không cắn tay ông như một con mèo bị chọc giận.
Ông lấy cuốn tiếp theo, rồi hai cuốn nữa. Giờ thì ông thò hẳn hai tay vào giá sách, lôi ra cả một chồng rồi đặt xuống bên cạnh mình.
Mấy chồng sách cao vồng lên thành những cái cây. Những tòa tháp. Những ngọn núi thần. Ông nhìn xuống cuốn sách cuối cùng cầm trên tay. Khi chuông đồng hồ điểm tiếng thứ mười ba. Một câu chuyện du dành thời gian.
Nếu như tin vào điềm báo, ông hẳn sẽ thấy đây là một dấu hiệu.
Ông dộng hai nắm đấm lên mặt dưới từng giá sách để ốc vít lơi ra. Rồi ông lùi lại.
Và kia. Từng lớp từng lớp một, nó lộ ra. Đằng sau bức tường chữ nghĩa. Cánh cửa dẫn tới căn phòng nơi…
Mình chỉ việc đi mua một cái bàn là xong.
Ông Perdu rờ tay lên miệng. Phải rồi. Phủi bụi đống sách, cất chúng lại chỗ cũ, quên tiệt cánh cửa đi. Mua một cái bàn và tiếp tục sống như ông đã sống suốt hai thập kỷ qua. Hai mươi năm nữa ông bảy mươi tuổi, sống được đến lúc ấy rồi thì ông sẽ vượt qua được chặng còn lại. Hoặc có thể ông sẽ chết sớm hơn thế.
Đồ hèn.
Ông siết nắm tay quanh nắm đấm cửa.
Người đàn ông cao kều từ từ mở cửa ra. Ông đẩy nhẹ nó vào trong, nhắm tịt mắt lại và…
Chẳng có gì ngoài ánh trăng và không khí hanh khô. Ông hít nó vào đằng mũi, phân tích nó, nhưng chẳng thấy gì.
Mùi của___đã bay đi.
Sau hai mươi mốt mùa hè, ông Perdu đã luyện thành thục thói quen tránh nghĩ đến___, thành thục chẳng kém gì mỗi khi ông bước vòng qua hố ga lộ thiên.
Ông chủ yếu nhớ đến cô như là ___. Một quãng nghỉ giữa những suy nghĩ vo ve trong đầu, một khoảng trắng giữa những bức hình quá khứ, một chấm đen giữa những cảm xúc trong lòng. Ông có thể dựng lên đủ mọi loại khoảng trống.
Ông Perdu nhìn quanh quất. Căn phòng mới yên tĩnh làm sao. Và nhạt nhòa, bất kể lớp giấy dán tường màu tím hoa oải hương. Năm tháng trôi qua đằng sau cánh cửa khóa đã rút kiệt màu sắc khỏi bốn bức tường.
Ánh sáng từ ngoài hành lang rọi vào nhưng chẳng có mấy thứ để mà đổ bóng. Một chiếc ghế mây. Một cái bàn bếp. Một lọ hoa cắm bó oải hương hái trộm trên cao nguyên Valensole từ hai thập kỷ trước. Và một người đàn ông năm mươi mốt tuổi giờ đây ngồi xuống ghế, vòng tay ôm lấy mình.
Nơi đây từng có rèm cửa và ở đằng đó là những tấm hình, hoa, sách, một con mèo tên là Castor ngủ trên ghế xô pha. Có những giá nến và tiếng thì thầm, những ly rượu rót đầy và tiếng nhạc. Hai cái bóng khiêu vũ với nhau trên tường, một cao kều, một tuyệt đẹp. Tình yêu từng trú ngụ trong căn phòng này.
Giờ thì chỉ còn lại mình.
Ông siết hai nắm tay và ghì chặt chúng vào đôi mắt bỏng rát.
Ông Perdu nuốt xuống không ngừng để cưỡng lại những giọt nước mắt. Cổ họng ông nghẹn không thở nổi còn lưng thì phừng phừng hơi nóng và cơn đau.
Khi lại có thể nuốt xuống mà không cảm thấy đau đớn, ông Perdu đứng dậy ra mở cửa sổ. Mùi thơm xộc lên từ dưới sân sau.
Mấy loại rau thơm mà nhà Goldenberg trồng trong khu vườn nhỏ nhà họ. Mùi hương thảo và cỏ xạ hương lẫn vào mùi dầu mát xa của Che, một người mù chuyên chữa bệnh chân, “người hát ru bàn chân”. Rồi mùi bánh pancake trộn với mùi đồ nướng châu Phi đẫm gia vị và cho đầy thịt ở nhà Kofi. Bồng bềnh trên tất thảy là hương nước hoa tháng Sáu của Paris, cái mùi dịu ngọt của hoa chi đoạn và nỗi mong ngóng.
Nhưng ông Perdu không để những mùi hương ấy tác động đến mình. Ông cưỡng lại sức quyến rũ của chúng. Giờ đây ông rất giỏi tránh né những thứ có thể bằng cách nào đó khơi gợi lên trong ông những cảm xúc khao khát. Mùi hương. Giai điệu, vẻ đẹp của sự vật.
Đi lấy xà phòng với nước từ buồng kho nằm kế bên căn bếp trống trải, ông bắt đầu lau bàn.
Ông xua đi cái hình ảnh mờ nhòe ông ngồi đây bên chiếc bàn gỗ, không phải một mình mà với___.
Ông lau rồi chùi, tảng lờ cái câu hỏi nhức nhối rằng giờ đây khi đã mở cánh cửa dẫn vào căn phòng nơi ông chôn vùi toàn bộ tình yêu, giấc mơ với quá khứ, ông cần phải làm gì.
Ký ức giống như bầy sói. Ta không thể nhốt chúng lại mà mong chúng để yên cho ta.
Ông Perdu bê chiếc bàn hẹp qua cửa, nhấc nó qua giá sách, đi băng qua dãy núi thần sách vở để ra chỗ đầu cầu thang rồi dừng chân ở căn hộ bên kia sảnh.
Khi chuẩn bị gõ cửa, một âm thanh buồn bã vọng đến tai ông.
Tiếng khóc thổn thức bị bóp nghẹt, như thể nó vang lên xuyên qua một chiếc gối.
Ai đó đang khóc bên kia cánh cửa màu xanh lục.
Một người phụ nữ. Và cô đang khóc như thể chẳng muốn ai, tuyệt đối không một ai, nghe thấy tiếng mình.
Danh sách chương
- Chương 1
- Chương 2
- Chương 3
- Chương 4
- Chương 5
- Chương 6
- Chương 7
- Chương 8
- Chương 9
- Chương 10
- Chương 11
- Chương 12
- Chương 13
- Chương 14
- NHẬT KÝ DU HÀNH CỦA MANON TRÊN CHẶNG ĐƯỜNG ĐỜI, GIỮA AVIGNON VÀ LYONS-
- Chương 15 -
- Chương 16 -
- Chương 17 -
- Chương 18 -
- Chương 19 -
- Chương 20 -
- Chương 21 -
- NHẬT KÝ DU HÀNH CỦA MANON TRÊN ĐƯỜNG ĐI BONNIEUX-
- Chương 22 -
- Chương 23 -
- Chương 24 -
- Chương 25 -
- Chương 26 -
- Chương 27 -
- Chương 28 -
- Chương 29 -
- Chương 30 -
- Chương 31 -
- Chương 32 -
- Chương 33 -
- NHẬT KÝ DU HÀNH CỦA MANON PARIS-
- Chương 34 -
- Chương 35 -
- Chương 36
- Chương 37
- Chương 38
- Chương 39
- Chương 40
- Chương 41
- Chương 42
- Chương 43
- NHẬT KÝ DU HÀNH CỦA MANON BONNIEUX
- Vĩ thanh
- CÔNG THỨC NẤU ĂN
- CÔNG THỨC NẤU ĂN (2)
- CÔNG THỨC NẤU ĂN (3)
- HIỆU THUỐC VĂN CHƯƠNG CỦA JEAN PERDU DÙNG CHO TRƯỜNG HỢP KHẨN CẤP-TỪ ADAMS TỚI VON ARNIM