← Quay lại trang sách

Chương 4

Mùa mưa đã vào sâu tới mấy tháng, ngày mưa nhiều hơn ngày tạnh. Mưa rừng bao giờ cũng làm lính tráng ngại ngần trong mọi tình huống. Vất vả hơn, mệt mỏi hơn. Ở tuyến trước thì lúc nào cũng ướt và bẩn. Đánh trận nào cũng phải đào hầm trú ẩn trước giờ xuất kích. Mùa mưa đất ẩm tưởng đào dễ, nhưng ở cao nguyên đất đỏ bazan cứ bết chặt lấy lưỡi xẻng. Xắn đất rồi nhấc lên mà gỡ bình thường nó không rời ra, phải dùng tay cào vuốt từng nắm đất. Cứ như thế, đào một cái hầm cá nhân phải mấy tiếng đồng hồ. Quần áo bê bết bùn đất đỏ vì cứ phải chùi tay vào quần áo liên tục khi đào hầm, chả cần ngụy trang vì người và đất đã hòa quyện vào nhau một màu đỏ đất. Lúc chờ xuất kích mà pháo địch bắn thì dù bẩn mấy cũng phải nhào luôn xuống hầm. Trên cao nguyên tưởng rằng bình độ cao hầm sẽ không đọng nước, thế mà cứ mưa xuống là nước ngập lấp xấp, có khi tới gần đầu gối. Hầm đào chỉ đủ ngồi nên mỗi lần lao vào hầm là phải chịu mặc cho nước ngập đến đâu thì ngập, cốt giữ được cái gáo trước đã. Đánh trận đã vậy, ngồi chốt cũng chẳng hơn gì. Ở chốt bao nhiêu ngày là từng đấy ngày không tắm giặt. Ban đêm hoặc khi mưa, quần áo không chỉ bẩn mà còn dẻo vì ngấm bùn đất. Bộ quần áo mặc trên người lúc này nặng gấp mấy lần bộ áo quần nguyên thủy. Đến lúc ban trưa nếu trời không mưa mà hửng nắng thì quần áo khô dần, nửa do ánh nắng mặt trời, nửa do hơi ấm trong người tỏa ra. Bây giờ cái gấu áo, gấu quần bắt đầu cứng như miếng mo nang, cầm tay bẻ được như bẻ miếng bánh đa. Nếu lấy tay vò vò một chút thì đất đỏ vụn tơi ra như bột, chỗ vải quần áo nơi ấy chuyển dần từ màu đỏ sang màu xanh áo lính. Bộ quân phục trên người cứ lúc dẻo lúc cứng như vậy làm cho da người cảm thấy lúc nóng lúc lạnh, bi bí và nhiều lúc thấy bứt rứt như có con gì cắn. Ghét và đất bám trên da như quyện vào nhau, đôi lúc thò tay luồn vào người vê vê một sợi đất và ghét to như sợi len lôi ra thì cái chỗ ấy thấy da thịt như thoáng hẳn ra. Nhiều khi lính tráng bảo nhau, ở chốt chỉ có tắm kiểu người Mông. Nghe nói họ ở tít trên núi cao, ít nước nên ít tắm, chỉ cần đi nương mồ hôi túa ra làm ghét bở, cởi bỏ quần áo đứng nơi có gió vừa xoa vừa đập khắp cơ thể một lúc cho ghét rụng hết ra là coi như đã tắm xong. Nhưng có lẽ bộ quần áo dày dệt kiểu thổ cẩm ấy sẽ hôi tới mức những con bọ chét cũng không dám trú ngụ.

Người đã vậy nhưng súng đạn lúc nào cũng phải sẵn sàng. Chiến sĩ hỏa lực thì lo giữ cho liều phóng B-40, B-41 luôn khô, xung lực AK đỡ lo hơn nhưng nhiều khi dầm mưa nhiều quá, băng đạn ngấm nước nên lúc bắn cũng có khi bị tắc súng vì có viên không nổ. Chiến sĩ ta nghĩ ra cách lấy mảnh vải dù pháo sáng chập đôi lại cho đủ dày rồi bịt vào nòng súng buộc lại để tránh cho bùn đất khỏi mắc vào những khi đào hầm dính bùn đất hay qua những đoạn đường lầy chống súng xuống đất lấy đà. Khi lâm trận, súng AK cứ thế mà bóp cò, miếng vải dù che đầu nòng tự động rách ra.

Được về tuyến sau đối với anh em chiến sĩ cũng là một điều hạnh phúc. Trước hết là cái chết không rình rập, không phải căng mình ra nghe tiếng đề pa của pháo địch để kịp xuống hầm. Ca gác đêm lỡ có mất cảnh giác dựa vào gốc cây chợp mắt vài ba phút thì độ nguy hiểm cũng không cao. Và trên hết là kiểu gì cũng tranh thủ để một tuần tắm được một lần. Mưa suốt ngày không có nắng thì ban đêm đốt lửa trong lán, gác gậy quanh đống lửa để phơi quần áo, qua một hai đêm cũng có bộ quần áo khô. Những ngày về tuyến sau đối với họ không phải để nghỉ ngơi, mà hầu như ngày nào cũng phải đi gùi cõng gạo đạn cho đơn vị mình và cho đơn vị bạn. Lúc nào cũng lầm lũi đi trong mưa, từ mông trở xuống thường xuyên ướt nhoèn. Trừ gạo phải đảm bảo khô, có hai thứ cá nhân của lính cũng phải giữ khô, luôn được ưu tiên cất trong túi áo ngực, đó là nắm cơm đem theo ăn trưa và gói thuốc rê. Nói chung là mùa mưa khổ hơn mùa khô đủ thứ về điều kiện sinh hoạt, chỉ được bù lại là có lắm thứ rau ăn, từ rau xin của dân trên nương đến các loại rau rừng.

Cuộc sống trong chiến trường tuy vẫn phải giữ nền nếp sinh hoạt đều đặn, nhưng nội dung không có gì nên buổi tối thường chỉ là nghe phổ biến công tác hôm sau, rồi ngồi quanh đống lửa giữa lán đun nước chè uống hay tổ chức đánh bài tiến lên. Vào đơn vị mới một tháng mà Sáng học hỏi được rất nhiều qua các anh lính cũ, qua sinh hoạt và công tác hàng ngày. Ngay như cái chuyện đánh tú lơ khơ này chẳng hạn. Ở nhà, bộ bài tú lơ khơ thường chỉ có mỗi kiểu chơi đánh tấn, nay vào trong đơn vị có thêm kiểu đánh tiến lên. Kiểu chơi này một ván đánh nhanh và luôn sôi nổi, náo nức kể cả người chơi lẫn kẻ ngồi xem. Hình phạt thường là bắt đeo đủ thứ lên cổ như xanh-tuya-rông, bi đông hay bất cứ thứ gì nghĩ ra được. Ai thua nhiều quá nặng cổ thì bị loại ra cho người khác vào chơi. Thi thoảng cũng có đợt học chính trị, đều do chính trị viên đại đội lên học trên trung đoàn, ghi chép về rồi phổ biến lại. Tình hình thời sự thật thì ít khi được nghe, chủ yếu là động viên. Ví dụ như tin các đơn vị bạn trong trung đoàn vừa đánh thắng trận ở đâu địch bị diệt bao nhiêu tên, thu bao nhiêu súng mà không nói đến chuyện quân ta hy sinh bao nhiêu người. Chỉ khi các đơn vị hành quân gặp nhau trên đường, đồng hương í ới hỏi thăm nhau thì biết được đứa này đứa khác đã hy sinh hay bị thương được ra Bắc. Tiêu đề các bài học chính trị qua thời gian mà rồi ai cũng thuộc, đó là “Ta thắng, địch thua, miền Bắc được mùa, miền Nam thắng lớn”. Sáng thấy thiết thực nhất trong những ngày ở hậu cứ có lẽ là chiến sĩ mới được học về các loại súng hỏa lực cả của ta lẫn của địch như súng chống tăng B-40, B-41, súng cối cá nhân M79 của Mỹ. Có đợt còn được học thêm súng chống tăng M72 của địch (còn gọi là rốc két 66) vì loại này khi đánh trận nhất là đánh vào căn cứ địch, ta thu được cũng nhiều. Khác với súng chống tăng B-40 hay B-41 của ta súng và đạn riêng rẽ, súng M72 của địch là loại súng hỏa lực cá nhân có đạn lắp sẵn, hai nòng lồng vào nhau, lúc sử dụng rút nòng cho dài ra, bắn xong thì vứt bỏ vỏ. Rồi là kinh nghiệm sử dụng lựu đạn US lấy được của địch nữa. Chỉ được lấy loại mà ở đầu cọc chốt của nó có sơn 2 vạch đỏ là loại có dây cháy chậm 4 giây. Loại chỉ có một vạch đỏ là loại nổ tức thì địch dùng để cài bẫy. Quân ta chả cài bẫy bao giờ nên không được lấy loại này, nhỡ sơ ý có ngày chết oan.

Mùa mưa không phải mùa chiến địch, ta không mấy khi tổ chức đánh lớn, nhưng tình thế chiến trường luôn là lấn dũi và giằng co, cấp trên không chỉ mong bộ đội giữ chốt, giữ đất mà còn muốn quấy nhiễu, đánh nhỏ để tiêu hao sinh lực địch. Về hậu cứ củng cố và gùi cõng được hơn một tháng, Đại đội 6 lại được lệnh ra tuyến trước. Lần này là vượt huội Champi ở phía đường 23 để sang khu vực nam đường. Trung đội 5 của anh Quân được đi trước đóng vai trò tiền trạm. Trong đơn vị, Trung đội trưởng Quân nổi tiếng tinh ranh. Anh được mệnh danh là có giác quan thứ sáu vì có tài ngửi hơi địch. Các cán bộ đại đội đi trinh sát các căn cứ mới hoặc vùng đất lạ mà có anh Quân đi cùng thì yên tâm vô cùng. Nhiều khi trong tiết trời mưa to, mọi thứ đều nhạt nhòa mà anh Quân vẫn ngửi thấy mùi thuốc lá của địch từ khoảng cách rất xa. Đại đội phó Hùng bảo anh Quân: “Mày tinh như chó săn ấy nhỉ”, và nhiều lúc gọi tếu anh ấy là Quân chó. Cái tên này anh Quân chả thích tẹo nào, nhưng các cán bộ đại đội hay tiểu đoàn đôi lúc vẫn buột mồm. Vì bên Đại đội 7 cũng có một anh tên Quân là đại đội phó, nên nhiều lúc trao đổi công việc, sợ lẫn nên hỏi “Quân nào?”, thế là nói luôn “thằng Quân chó Đại đội 6” cho nó tiện. Trong đơn vị nhiều khi bộc tuệch nên có người không thích tên lóng biệt danh mà rồi cuối cùng vẫn phải chấp nhận.

Nước suối mùa mưa luôn dâng cao và lũ về bất thình lình nên công binh trung đoàn phải mở một vài đường nhỏ từ cánh rừng phía bắc sang đường 23 tại những chỗ có thể làm cầu. Cầu là những cây gỗ to bên bờ suối được dùng mìn dây đốn hạ cho đổ ngang qua suối rồi chặt bỏ cành, vạch khấc tạo ma sát để có thể đi qua. Mỗi lần qua cây cầu như thế là phải tổ chức hỗ trợ nhau rất cẩn thận. Bên Tiểu đoàn 3 đã có lính trượt chân rơi xuống suối sâu, ba lô súng đạn trên người kéo chìm nghỉm và trôi luôn theo dòng nước lũ. Chả ai có thể nhảy xuống cứu được cứ trơ mắt ra nhìn trong nỗi sợ hãi. Tai nạn như thế dù ít những vẫn xảy ra, xác người liệt sĩ chả biết trôi đến đâu. Hôm hành quân ra đến huội Champi thì đã nhập nhoạng tối, trời lại lây rây mưa nên anh Quân quyết định cho trung đội dừng lại nghỉ đêm bên này cầu. Sáng hôm sau lại cơm nước đầy đủ rồi mới vượt suối đi tiếp. Sáng nhìn cái dây song to tướng công binh chăng cạnh cầu làm dây vịn mà run. Nó chỉ là dây vịn hờ thôi chứ nếu trượt chân thì bám vào cái dây song ấy cũng vô nghĩa. Nhìn tất cả trung đội qua cầu an toàn, anh Quân thở phào nhẹ nhõm. Yên tâm lúc này nhưng không xóa hẳn được lo lắng. Rồi đây các trung đội khác tiếp tục hành quân qua, rồi cánh lính công tác lẻ về hậu cứ lấy gạo tiếp tế sẽ còn phải nhiều lần qua chiếc cầu này. Thêm một khó khăn của mùa mưa mà những người lính phải âm thầm vượt qua.

Nam đường 23 không có các hậu cứ của bộ đội ta. Bên ấy địch cũng không triển khai quân lấn dũi như vùng đường 231 chạy từ ngã ba Lào Ngam ra. Địa hình nam đường có nhiều nhánh suối sâu, nhiều dốc cao và rừng rậm nên chỉ có thưa thớt một hai bản Lào dựa vào đường 23 phía đó. Tuy vậy, địch cũng có nhiều điểm chốt đóng quân để tạo thành cánh cung bảo vệ cho Phù Chiêng ở cửa ngõ thủ phủ Pakse.

Anh Quân tìm vị trí đóng quân cho đại đội trong một khu rừng già, cạnh một con suối to. Bên kia suối và các khu vực xung quanh cũng đều là rừng già. Không có đường mòn qua đây và trên bản đồ tất cả cũng chỉ có một màu xanh đậm chỉ rừng. Khu vực này chưa xảy ra tác chiến nên mọi thứ còn nguyên sơ. Căn cứ đóng quân gần nhất của địch cũng còn cách tới hơn cây số. Thông thường bọn địch trong các căn cứ chỉ lùng sục ra ngoài tới nửa cây số, nhất là theo các lối mòn nên khu rừng này có thể coi là an toàn. Để đảm bảo an toàn cho đơn vị nên không được săn bắn cải thiện ở đây và cũng không được đánh cá, dù gần đó có một khúc suối đất lượn vòng tạo một cái hủm rộng và sâu. Suối đất trong rừng thường hay có các loại cá như cá trê và cá quả là loại sống khỏe và dai trong tự nhiên. Anh Quân nghe mấy thằng lính gốc vùng đồng chiêm trũng tán bùi tai nên đồng ý cho đi câu. Đồ nghề câu đơn giản do lính tự làm, còn mồi là giun đất đào ngay bên bờ suối. Ngay hôm đầu tiên hành quân đến đây, anh Quân đã bố trí cho anh em đào hầm chữ A đầy đủ và cẩn thận. Dù chỉ là khu vực dã chiến, song trung đội vẫn đào cả hầm thùng để ngày mưa mắc võng trong đó mà có pháo bắn bất chợt thì cũng yên tâm hơn. Đến tối, mấy anh em đi cắm cần câu vài tiếng đồng hồ mà cũng kiếm về khá nhiều cá. Cá suối đói ăn nên thấy mồi giun là thi nhau đớp, nhiều chiến sĩ bảo câu cá ở đây còn dễ hơn câu cá ngoài đồng ở quê. Cá câu được đem về chỉ có mỗi tiết mục nấu cháo kiểu nhà quê. Cho cả con cá làm sạch cắt khúc bỏ vào nồi cháo ninh nhừ chứ không làm cầu kỳ kiểu luộc cá gỡ thịt rồi giã xương lọc nước riêng rẽ được. Nhưng do cá nhiều hơn cháo, lại toàn thứ cá nạc nên nồi cháo cá béo mẫm.

Hai ngày sau cả Đại đội 6 hành quân đến, chia khu vực đóng quân cho các trung đội. Cán bộ đại đội cùng Trung đội trưởng Quân đi trinh sát nắm địch ngay. Đại đội trưởng Khâu phổ biến cho các trung đội trưởng nhiệm vụ lần luồn sâu này, đơn vị sẽ tổ chức vài ngày một lần cử nhóm nhỏ luồn vào sau khu căn cứ địch để tập kích các đơn vị dã ngoại của chúng. Trung đội 5 sẽ tổ chức trận tập kích đầu tiên. Đơn vị cử sáu người lấy lẫn trong trung đội, do Trung đội trưởng Quân chỉ huy, vì anh Quân đã được đi trinh sát trước. Cả nhóm mang theo ba khẩu hỏa lực: một B-40, một B-41 và một M79, còn lại mang AK. Sáng cũng được đi tập kích trận này. Do đã được học về súng hỏa lực, Sáng rất háo hức xin anh Quân cho bắn B-41, nhưng anh bảo trận đầu phải giao cho chiến sĩ cũ đã. Cả nhóm ăn cơm chiều xong, đợi sẩm tối lên đường. Lối xuất kích bám theo con suối tới hơn cây số rồi mới vòng lên con đường xe bò phía đường 23. Khu vực này có một trung đội địch bung ra đóng dã ngoại, chỉ đào hầm, không có hàng rào. Anh Quân dẫn cả nhóm bò vào sát gần mấy cái hầm vòng ngoài của địch, cách chừng ba chục mét. Tất cả súng đạn sẵn sàng và nằm im chờ lệnh. Sau khi kiểm tra, biết chắc bọn địch đã nghỉ ngơi, vài đốm thuốc lá đỏ của mấy tên gác thỉnh thoảng lóe lên trong bóng đêm chứng tỏ chúng cũng chủ quan. Anh Quân đã chỉ sẵn mục tiêu cho các tay súng hỏa lực và chuẩn bị phát lệnh nổ súng. Bỗng nhiên có tiếng mưa rơi lộp bộp rồi càng ngày mưa càng nặng hạt hơn. Tốt quá, đúng là trời giúp vì mưa thế này địch sẽ càng chủ quan hơn và chúng sẽ phải giở những tấm pông-sô ra che mưa, lại thêm phần vướng víu, anh Quân nghĩ bụng, nên cố nén chờ thêm thời gian. Quả như Trung đội trưởng Quân phán đoán, phía địch thấy ồn ào hẳn lên khi chúng tổ chức che mưa.

“Bắn!”, Trung đội trưởng Quân hô nhẹ nhưng dứt khoát. Theo như đã hiệp đồng từ nhà, hai khẩu B-40 và B-41 của Trân và Hiếu cấp tập mỗi khẩu ba trái liền. Mấy chớp lửa bùng lên kèm những tiếng nổ trầm đục trong mưa. Khẩu M79 của anh Nhạn cũng cấp tập nhanh đủ năm trái. Lúc này ba khẩu AK mới đồng loạt kéo từng nhịp dài xả về phía địch. Thời gian trôi qua có lẽ chỉ hai ba phút, anh Quân hô tiếp “rút” rồi nhanh chóng quay lui chạy trước dẫn đường. Sáng và Nghi bồi tiếp mấy loạt AK nữa kiềm chế địch rồi mới rút theo. Cả tốp chạy đến gần bờ suối cách gần trăm mét mới nghe lẹt đẹt vài loạt AR-15 của địch, chả biết chúng bắn vào đâu. Xem chừng địch không thể phản ứng tiếp, bờ suối cũng không có hầm ẩn nấp nên anh Quân kéo tất cả cùng rút chạy về hậu cứ. Suốt đêm hôm đó, địch cũng không có động tĩnh hay phản ứng gì thêm. Nhiệm vụ của trận tập kích đầu tiên thế là xong, kết quả thế nào sẽ chờ đài kỹ thuật của trung đoàn nghe địch truyền tin và thông báo lại. Anh Quân không quan tâm lắm đến số liệu cụ thể vì những nhiệm vụ đánh địch kiểu này thường chỉ tính thành tích chung cho cả đại đội chứ không có thành tích cá nhân.

Luồn sâu dã ngoại, mặc dù hậu cứ làm bí mật, nhưng đại đội vẫn phải tổ chức đào thêm hầm lập tổ chốt cách xa đơn vị vài trăm mét để làm nhiệm vụ cảnh giới, canh gác cả ngày lẫn đêm. Từ đây, hàng ngày đại đội vẫn tổ chức cho các trung đội đi trinh sát địch để lên phương án tập kích quấy rối. Tập kích ở đâu, khu vực nào thường do các trung đội chủ động lựa chọn và báo cáo đại đội thống nhất phương án tác chiến.

Trận thứ hai là phục kích một trung đội địch hành quân thay phiên dã ngoại ở sát đường 23. Căn cứ địch đóng ngay sát đường 23 nhưng địch không đi theo đường cái mà đi theo một đường xe bò phía trong cách đó hai trăm mét. Trung đội 6 đi trinh sát nhiều lần, phát hiện quy luật địch nửa tháng thay quân một lần nên quyết định tổ chức phục kích. Trung đội 6 đào hầm độn thổ ngay sát đường xe bò và được đại đội cử Trung đội 5 đi hỗ trợ đào thêm mấy hầm chữ A sát bờ suối làm nơi trú tạm cho Trung đội 6 sau trận phục kích, đề phòng nếu địch phản ứng kịp mà gọi pháo bắn. Địch hành quân luôn cảnh giác cao và có lính thông tin mở máy thường trực để sẵn sàng gọi pháo chi viện, nên không thể cứ đánh trận xong là ào ào rút chạy được.

Trận phục kích của Trung đội 6 diễn ra vào một buổi chiều mưa. Địch đổi quân trong ngày mưa vì nghĩ sẽ an toàn hơn, quân ta tổ chức đánh trong một ngày mưa vì cũng nghĩ địch chủ quan. Tiếng súng vừa nổ là bọn địch chạy tóe ra. Chỉ có vài tên chết tại chỗ, còn lại chạy thoát. Rất may là tên lính thông tin bị diệt ngay từ phút đầu. Ta thu được vài khẩu súng, một máy thông tin PRC-25 và bắt được tên tù binh. Trung đội 6 rút về an toàn. Thông tin khai thác từ một tên tù binh lính quèn chả có gì nên hôm sau Đại đội trưởng Khâu cử Sáng và Phiên, một tiểu đội trưởng của Trung đội 6 dẫn nó về hậu cứ tiểu đoàn báo cáo, lúc ra sẽ kết hợp gùi gạo cho đơn vị.

Tên lính địch bị trói hai tay vòng ra sau, bắt đi đất, còn đôi giày thì buộc treo ở cổ nó. Thêm một sợi dây rừng buộc vào tay để lính ta cầm dắt đi đường. Anh Ngự, Trung đội trưởng B6 còn cẩn thận chặt thêm một đoạn gậy to bằng cổ tay, dài gần mét buộc thêm lên cổ tên này và buộc kéo hai cánh tay của nó vòng lên. Cách buộc này làm tên tù binh rất vướng víu và mỏi hai cánh tay vì bị treo lên, đi đường cũng rất chậm vì cái “đòn gánh” trên vai nó vướng cây rừng hai bên. Phiên bảo anh Ngự:

“Trói chặt tay nó rồi buộc thêm dây để bọn em nắm giữ là được rồi, anh buộc thế này đi đến tối chúng em cũng chưa chắc về đến nhà”.

Anh Ngự lừ mắt gắt:

“Không được, buộc thế này mà tao còn chưa yên tâm đâu. Thằng này thổ dân nó đi rừng vù vù chắc gì chúng mày đã nhanh bằng nó. Nương tay một tí là nó sổng mất đấy”.

Phiên và Sáng im lặng không nói thêm gì, dong tên tù binh đi mà trong bụng vẫn lấn cấn nghĩ, bố Ngự này quá quan trọng hóa. Phiên đi trước dẫn đường, tên lính địch đi giữa còn Sáng đi sau cầm dây trói nó. Hai khẩu AK đạn lên sẵn trong nòng. Lúc đầu tốc độ đi rất chậm vì đường mòn là đường đạp trong rừng, trên cao là tán rừng già nhưng dưới mặt đất cây con bằng cổ tay mọc dày, xen rất nhiều những cây dại như sa nhân hay lá dong cùng nhiều loại dây leo chằng chịt, rất vướng víu. Về sau Phiên ra hiệu cho tên tù binh nghiêng người đi ngang như kiểu cua bò thì có vẻ nhanh hơn. Dọc đường tất cả im lặng, chả ai nói với ai câu nào. Phiên và Sáng chỉ được phổ biến mấy khẩu lệnh cần thiết nói với tên địch lúc đi đường, đó là pay (đi), dưn (đứng lại), nằng lông (ngồi xuống), lúc khựn (đứng lên).

Cả tốp mới đi được chừng hơn tiếng đồng hồ thì trời tối sầm sầm rồi mưa rơi. Đi trong rừng già giữa trời mưa khiến tốc độ càng chậm, có lúc ba người như ríu vào nhau. Phiên và Sáng chấp nhận cùng chịu ướt như tên tù binh chứ không thể lấy ni lông ra quàng được. Quần áo cứ dính vào người lép nhép, có lúc phải đưa tay vuốt nước mưa trên mặt để nhìn đường cho rõ. Ra đến gần đường 23, Phiên cho dừng lại tạm nghỉ. Sáng ngồi trông tên tù binh còn Phiên lò dò cắp súng ra mặt đường 23 nghe ngóng. Căn cứ địch đóng trong Lào Ngam còn cách chỗ này tới hai cây số, nhưng vì quân ta không lập chốt cạnh đường 23 nên về lý, một đơn vị nhỏ của địch có thể lùng sục ra hướng này cả dăm cây số mà quân ta cũng chưa chắc biết. Cẩn thận vẫn hơn chứ vớ vẩn bất ngờ gặp địch ở nơi này thì hai thằng trở tay không kịp.

Thấy mọi sự an toàn, Phiên quay lại rồi cả ba nhanh chóng vượt đường 23 theo một lối mòn đi xuống huội Champi. Nhìn dòng nước chảy không xiết và đi dọc theo suối một đoạn, Phiên quyết định tìm đoạn suối rộng nước đỡ sâu để lội qua chứ không đi theo lối cầu bằng cây chênh vênh. Trời tạnh đi qua đã khó, mưa to thế này càng khó đi hơn. Phiên lo nhỡ ra giữa cầu, tên tù binh trượt chân rơi xuống thì không biết làm thế nào. Đi ngược suối chừng hơn trăm mét, thấy suối mở rộng ra nước chảy mạnh hơn nhưng có vẻ nông vì lòng suối lổn nhổn những tảng đá to, Phiên quyết định lội qua chỗ này. Không có lối mòn, nhưng cứ lội qua rồi leo lên bờ suối đi sâu vào rừng chắc sẽ gặp lối mòn dọc bờ suối bên kia là đường quân ta vẫn đi. Nghĩ vậy, Phiên lội xuống trước rồi bảo Sáng dong tên tù binh theo. Nước chảy xiết ngập quá đầu gối nhưng Phiên vẫn dò bước được theo các tảng đá, tuy có hơi chấp chới. Tên tù binh cũng lò dò bước, thấy nó cứ ngả nghiêng người chới với như muốn ngã nên Sáng nới lỏng dây cầm tay. Bất ngờ đến giữa suối, nó lội nhanh hơn dù cho chân có trượt lên trượt xuống trên các phiến đá và có lúc tưởng như nó ngã xuống nước. Sợi dây trên tay Sáng tuột ra và trong khi Sáng kêu to cho Phiên biết thì tên lính địch đã vượt được qua Phiên và ào ào bước lên bờ rồi cắm đầu cắm cổ chạy tiếp, mặc cho cây rừng vướng víu. Phiên hô to “dưn” rồi hạ súng trên vai xuống bắn một phát chỉ thiên, nhưng tên tù binh vẫn chạy. Một phát chỉ thiên nữa vang lên nhưng bóng tên tù binh đã khuất sau mấy bụi cây, còn Phiên và Sáng thì vẫn còn chưa leo được lên bờ. Cả hai cùng cuống lên, càng cố chạy càng ngã dúi dụi xuống nước, người đã ướt vì mưa lại càng thêm ướt vì ngã suối. Cuối cùng cũng leo lên được bờ nhưng bóng tên tù binh đã mất tăm. Mưa to chả để lại dấu vết gì, đoán tên tù binh chạy thẳng nên Phiên và Sáng cố lao thẳng lên dốc, hai tay vạch cây mà bươn lên. Tới khi gặp được con đường mòn lính ta vẫn đi thì cả hai đều mỏi nhừ hai đùi, bắp chân cứng ngắc, mồm há ra thở như cá ngáp. Không biết tên tù binh chạy phía nào. Phiên thở hổn hển như đứt hơi bảo:

“Tao với mày mỗi đứa một ngả, chạy mau. Nếu ai tóm được nó thì bắn ba phát súng nhé”.

Mỗi người một phương, chạy mãi mà chẳng thấy dấu vết gì, có lẽ tên tù binh không chạy theo đường mà lủi ngang vào bụi rậm nào đó cũng nên. Đuổi mãi mà chẳng thấy gì, đoạn đường đuổi tìm có lẽ đã xa lắm Sáng càng ngày càng nản, mệt quá nên ngồi bệt xuống vệ đường nghỉ, chẳng kể đến ướt át và bẩn thỉu. Sáng chỉ mong túm được tên tù binh và cho nó một phát AK cho xong chuyện. Đương khi vừa mệt vừa bực như thế, Sáng nghe tiếng ba phát AK nổ ở hướng Phiên. Thế là tóm được tên tù binh chó chết rồi, Sáng mừng quá đứng dậy và tất tưởi vừa đi vừa chạy ngược trở lại. Mãi rồi cũng tới nơi, Sáng thấy Phiên đang đứng một mình giữa đường mòn, khẩu AK cầm trên tay thõng xuống. Sáng hỏi:

“Thằng tù binh đâu?”.

“Không thấy, có lẽ nó rúc vào một chỗ nào rồi. Rừng rậm lắm bụi cây thế này chả biết chỗ nào mà tìm nữa”.

“Vậy sao mày lại bắn AK?”.

“Tao nghĩ chúng mình để sổng nó rồi. Tìm đến tối chắc cũng chẳng thấy đâu. Thôi đành về đơn vị báo cáo và nhận kỷ luật vậy. Tao bắn AK để gọi mày cùng về vì hướng này là về hậu cứ, chứ lại đuổi theo tìm mày thì biết đến bao giờ”.

“Mẹ kiếp”, Sáng chửi tục một câu rồi bật chốt an toàn chĩa súng vào rừng định bắn bừa mấy loạt. Phiên vội giơ tay ngăn lại:

“Đừng bắn nữa, vô ích. Vớ vẩn có khi đạn lạc vào mấy thằng trinh sát hay bọn đi lẻ như tụi mình ở khu vực này thì tai hại hơn”.

Hai người một trước một sau bước thấp bước cao nhằm về hậu cứ. Được một thôi dài bỗng thấy Sáng dừng lại, tháo gùi lấy tấm ni lông. Nghĩ nó lấy ra che mưa, Phiên gàn:

“Thôi đằng nào cũng ướt như chuột rồi, quàng ni lông thêm vướng mà chẳng đỡ được tẹo nào đâu”.

“Không, tao định lấy ra che mưa để rủ mày dừng lại ăn trưa. Có lẽ cũng quá trưa rồi còn gì, tao thấy đói rồi”.

Phiên dừng lại giúp Sáng lấy tấm ni lông ra che đầu cho cả hai rồi lục tìm gói cơm. Sờ đi sờ lại quanh người, Phiên đần người ra:

“Rơi túi cơm lúc nào rồi mày ạ”.

Sáng trân mặt ra nhìn, nghi ngại rồi loay hoay sờ người, sờ gùi của Phiên. Nắm cơm trưa của cả ba người giao cho Phiên cầm, buộc vào xanh-tuya-rông đã rơi mất thật rồi. Bây giờ quay lại tìm nắm cơm có lẽ cũng khó ngang bằng đi tìm thằng tù binh bị sổng, Phiên và Sáng đành chậc lưỡi bấm bụng chịu đói lên đường đi tiếp. Sáng lẩm bẩm: “Mẹ kiếp, đúng là họa vô đơn chí, các cụ xưa nói cấm có bao giờ sai”. Không còn tên tù binh vướng víu, nhưng Phiên và Sáng cũng chẳng đi nhanh hơn được bao nhiêu, phần vì đói và mệt, phần vì chán nản. Phải cuối chiều hai người mới về đến gần hậu cứ đại đội. Phiên kéo Sáng tạt vào một nương của dân gần đó tìm mỗi đứa hai quả dưa chuột ăn chống đói. Chưa khi nào Sáng thấy quả dưa chuột ngon như thế, dù dưới trời mưa lâu ngày, quả dưa chuột như sũng ra, nhạt hoét.

Về tới hậu cứ, hai người báo cáo Đại đội phó Hùng mọi chuyện. Không có điện thoại liên lạc, bây giờ anh Hùng mới biết chuyện đơn vị bắt được tù binh giao cho hai cậu này đưa về và đã để sổng nó. Báo cáo xong, cả hai đứng yên lặng cúi đầu chờ nghe anh Hùng trách mắng. Nhưng khác hẳn với dự đoán của Phiên, Đại đội phó Hùng nghe xong chỉ nhíu mày một cái rồi cười vui vẻ như không có chuyện gì xảy ra:

“Thôi, bỏ chuyện ấy lại xét sau. Bây giờ chúng mày đi rửa chân tay rồi vào bếp hong quần áo cho đỡ lạnh. Để anh bảo mấy đứa dưới bếp nấu thêm cơm cho hai đứa ăn bù bữa trưa phải nhịn”.

Tối hôm ấy anh Hùng hỏi chuyện Phiên và Sáng kỹ hơn về chuyện sổng tên tù binh ra sao. Hôm sau anh lên tiểu đoàn báo cáo rồi quay về phổ biến công việc ngày mai. Mấy cậu sốt rét đã khỏe sẽ cùng Phiên và Sáng chuẩn bị gạo đem ra tuyến trước cho đại đội. Anh Hùng cũng ra ngoài đó luôn, thay cho hai cán bộ chính trị về hậu cứ. Chính trị viên Cẩm về họp trên trung đoàn, còn Chính trị viên phó Tuyến sẽ về hậu cứ trông coi thay anh Hùng. Tháo sau mấy ngày ở hậu cứ làm việc lặt vặt sau đợt đi mua lợn cũng sẽ ra tuyến trước cùng đơn vị luôn.

Anh Hùng cho cả tốp gùi gạo ra đại đội theo đúng vệt đường mà Phiên và Tháo vừa dẫn tên tù binh về bữa trước. Anh nhìn cái vệt đường trên đỉnh dốc cây cối rậm rạp và nhìn đoạn suối Champi lúc vượt qua mà chỉ tủm tỉm cười. Đường đất thế này, hai cậu lính để sổng tên tù binh là phải. Suối nước đá to lộc cộc thế đi nhanh mà không bị trượt ngã mới là chuyện lạ. Ra tới đơn vị, anh Hùng trao đổi lại chuyện để sổng tên tù binh cho các cán bộ đại đội cùng nghe. Đại đội trưởng Khâu và Chính trị viên Cẩm chỉ đưa mắt nhìn nhau, còn Chính trị viên phó Tuyến lại nhăn mặt gắt:

“Sao anh không sạc cho hai cậu ấy một trận? Gọi chúng nó lên đây, tuyên bố kỷ luật cho chúng nó chừa”.

Vẫn vẻ mặt thản nhiên, Đại đội phó Hùng cười bảo:

“Tôi đã xem đường đất rồi, suối đá lộc cộc như thế thì chuyện thằng tù binh sổng mất cũng dễ xảy ra. Sự cố bất ngờ xảy ra chứ có phải các cậu ấy cố tình đâu mà bảo chừa hay không chừa. Làm gì có lần sau nữa. Mà chuyện bắn chết hay bắt thêm bớt một tên lính địch thì cũng có gì quan trọng lắm đâu. Mình rút kinh nghiệm chung là được rồi”.

Anh Tuyến lặng im nhưng Chính trị viên Cẩm băn khoăn:

“Liệu chúng ta có phải chuyển cái hậu cứ dã ngoại đã bị lộ này không? Tôi sợ thằng lính địch này về đơn vị nó rồi báo tọa độ nơi này để chúng pháo kích thì nguy cho đại đội mình”.

“Các anh cứ yên tâm đi. Tôi đảm bảo chả có chuyện gì xảy ra đâu. Tôi ở Lào lâu tôi biết. Thằng lính này sẽ nhân cơ hội chuồn thẳng về bản nhà nó, bỏ áo lính luôn chứ chả thiết tha gì chuyện quay lại cầm súng đánh nhau đâu. Hơn nữa cấp trên của nó có biết được tọa độ nơi này, nhưng không phải do tụi thám báo truyền về tức thời thì cũng nghĩ quân ta đã rời đi từ tám hoánh nào rồi, pháo kích thêm làm gì cho phí đạn”.

Hai ông cán bộ chính trị nghe anh Hùng nói, đành thở dài chuẩn bị đồ đoàn để quay về hậu cứ. Đại đội trưởng Khâu nheo mắt ra ý tán đồng rồi kéo Đại đội phó Hùng về hầm. Ông biết anh Hùng nói thẳng và nói đúng, nghĩ sao nói vậy chả nể sợ ai cái gì, kể cả với cán bộ tiểu đoàn. Anh Hùng dân tỉnh lẻ nhưng lại là người thị xã, đang học dở lớp 10 thì xung phong đi bộ đội, vào làm chiến sĩ của một tiểu đoàn tình nguyện Việt Nam chiến đấu ở Nam Lào từ những ngày Trung đoàn 9 còn đang an dưỡng huấn luyện quân ở ngoài Quảng Bình. Khi Trung đoàn 9 vào cao nguyên Boloven, anh được điều động về làm Đại đội phó C6. Trước đó anh bị thương trong trận đánh ở Phù Khăm La gần ngã ba Tha Teng trên đường 23, lối rẽ từ Saravan đi sang tỉnh Tà Vên Oọc, sau khi ra viện anh không về đơn vị cũ nữa mà được trên điều về Tiểu đoàn 2. Có lẽ cũng vì cái tính thẳng thắn bộc trực và có vẻ lãng tử, chả quan trọng hóa chuyện gì của anh, nên đến giờ anh vẫn là đại đội phó. Bằng tuổi với Đại đội trưởng Khâu nên hai cán bộ quân sự rất tôn trọng nhau trong mọi việc ở đại đội. Lần này cũng vậy, Đại đội trưởng Khâu bàn tiếp với Đại đội phó Hùng tổ chức tiếp các trận đánh nhỏ của đợt luồn sâu mà không đả động gì đến chuyện di chuyển chỗ đóng quân nữa. Suốt cả đợt làm nhiệm vụ luồn sâu cho đến tận khi đơn vị có lệnh tập trung về tiểu đoàn để tổ chức đánh tập trung vào cuối mùa mưa, cái hậu cứ dã chiến ấy của Đại đội 6 vẫn bình yên. Các cán bộ trung đội biết chuyện tranh luận giữa Đại đội phó Hùng và ban chỉ huy đại đội về chuyện hai chiến sĩ để sổng tên tù binh hôm ấy càng thêm cảm phục và tin tưởng người chỉ huy quân sự của đại đội mình.

Ra tuyến trước được một hôm, anh Hùng tổ chức nhóm đi trinh sát nắm địch luôn. Mấy vị trí gần với khu ngã ba Lào Ngam bị ta tập kích mấy lần rồi, địch cũng không dám đóng nguyên một chỗ. Dù là dã ngoại chỉ có một trung đội, chúng cũng thay đổi vị trí trú quân ban đêm thường xuyên. Nhiều khi địch cũng tổ chức lùng sục bất chợt và đã có lần phải đánh tao ngộ chiến với quân ta. Lần này anh Hùng quyết định trinh sát vào sâu hơn ngã ba Lào Ngam để đánh một trận lớn hơn do chính anh chỉ huy. Khu vực này có một đại đội địch đóng quân, có một hàng rào đơn bao quanh. Theo định kỳ, chúng thường cho một trung đội về tuyến sau lấy lương thực và đạn tiếp tế. Cũng vì là khu vực phía sau, có đến mấy lượt quân dã ngoại trấn giữ phía trước nên chúng có phần chủ quan. Nhưng là căn cứ xây dựng có hàng rào nên chắc chắn chúng có hiệp đồng chi viện chặt chẽ của pháo binh. Anh Hùng lên phương án đem hai trung đội đi, tổ chức phục kích đánh bọn tiếp tế hậu cần khi chúng từ hậu cứ ra, đồng thời tổ chức tiếp đội hình phục kích bọn từ căn cứ ra ứng cứu, dùng đúng theo chiến thuật “công đồn diệt viện” nhưng theo cách đảo ngược lại.

Vị trí phục kích bọn lính địch tiếp tế chỉ cách căn cứ của chúng ba trăm mét, đủ khoảng cách để địch trong căn cứ thấy rõ chiến sự và điều quân ra ứng cứu. Trung đội đánh bọn ra ứng cứu được bố trí ngay ngoài căn cứ chỉ chừng hơn trăm mét. Vẫn theo cách thức bố trí cũ, anh Hùng cho đào sẵn một loạt hầm đệm cách xa địch nửa cây số từ chiều hôm trước, nhưng chỉ là loại hầm bằng có nắp. Tại hai vị trí phục kích, mỗi chiến sĩ phải đào một hố cá nhân trong đêm và ngụy trang cẩn thận. Vị trí phục kích tương đối quang nên cả hai trung đội đều phải đào hầm xa con đường mòn tới hơn hai chục mét. Cơm ăn đem theo là ba bữa do anh nuôi nấu từ chiều hôm trước, còn nước mỗi người chỉ có một bi đông dùng từ lúc xuất quân đến cả ngày hôm sau. Trời vẫn cứ lúc mưa rả rích, lúc tạnh nên quân ta phải chấp nhận ướt hai ngày và chịu lạnh. Nhưng đánh phục kích vào lúc trời mưa thì vẫn có điểm lợi là bọn địch khi hành quân bình thường vẫn phải khoác áo mưa nên chúng sẽ phải lúng túng và vướng víu khi bất ngờ bị ta nổ súng.

Anh Hùng trực tiếp chỉ huy Trung đội 5 đánh bọn lính đi tiếp tế để chọn thời điểm phát lệnh nổ súng. Anh Lâm, Trung đội trưởng B4 chỉ huy trung đội đánh bọn ứng cứu. Mấy tiếng đồng hồ buổi sáng, tất cả ngồi im tại vị trí, không ai được hút thuốc. Gần trưa mới phát hiện trung đội địch đem đồ tiếp tế từ phía hậu cứ đi tới. Bọn địch vẫn đi lại trên con đường mòn nhỏ do chúng tạo ra khi lập căn cứ này. Suốt dọc hai bên lối mòn chỉ có những vạt cỏ tranh mọc ngang lưng nên bọn địch đi trên đường quan sát được rất xa và chúng hoàn toàn yên tâm. Hơn chục tên địch quàng pông-sô lặng lẽ đi hàng một giãn cách nhau hơn mét. Tiểu đội trưởng Bấn và Sáng ngồi ở vị trí chặn đầu. Lần này Sáng đã xin được Trung đội trưởng Quân và anh Bấn cho giữ súng B-41. Anh Quân vui vì cậu lính mới ham đánh trận nhưng vẫn dặn Bấn phải theo sát cậu ta. Có bắn tốt tạo được niềm tin cho bản thân thì mới trở nên dày dạn trong chiến đấu. Vừa lúc tên địch đi đầu tới ngang chỗ Sáng, Bấn nhìn Sáng rồi phẩy nhẹ tay. Sáng bóp cò, một chớp lửa da cam bùng lên cùng tiếng nổ chói tai, quả đạn B-41 từ khoảng cách chỉ hơn chục mét lao thẳng vào khoảng giữa đội hình địch, cùng lúc Bấn điểm xạ AK hạ luôn tên địch đi đầu. Sau tiếng B-41 hiệu lệnh ấy, cả Trung đội 5 đồng loạt nổ súng về phía địch. Vài tên địch ngã gục, nhưng vẫn có một số tên kịp nằm xuống lăn nhào sang phía đường bên kia và nổ súng bắn lại. Có tên còn nhanh chân chạy lao thẳng về phía căn cứ của chúng. Anh Hùng ra lệnh xung phong nhằm giải quyết cho xong bọn địch vừa bị phục kích. Cũng đúng như Đại đội phó Hùng dự liệu, thời gian trôi qua chắc mới chỉ vài phút mà phía Trung đội 4 tiếng súng đã vang giòn. Nghe rõ lẫn lộn cả tiếng súng ta và địch. Bọn địch trong căn cứ đã kịp tổ chức nhào ra và Trung đội 4 của anh Lâm đã nổ súng chặn lại. Phía Trung đội 5 sau khi lao ra đường, anh Quân cho anh em thu nhanh súng của gần chục cái xác địch nằm trên đường. Chắc có vài tên chạy thoát sang phía bãi cỏ gianh bên kia. Một vài chiến sĩ ta cũng nhanh tay vơ vội được mấy chiếc ba lô chiến lợi phẩm rồi mới rút về vị trí hầm phục kích. Đại đội phó Hùng cũng ra lệnh cho Trung đội 4 rút luôn với sự chi viện của Trung đội 5. Cứ thế, từng bộ phận theo hình cuốn chiếu rút dần về khu hầm tạm. Bọn địch trong căn cứ không dám truy kích mà chỉ bắn đuổi theo, nhiều nhất là M79, nhưng quân ta vô sự cho đến khi rút về được tới khu hầm tạm.

Vừa chia nhau chui xuống các căn hầm tạm đào từ hôm trước, đã nghe tiếng đề pa rồi đạn pháo địch bắn tới. Có đến mấy nòng pháo 105 ly cùng bắn vì tiếng đề pa dồn dập và tiếng đạn pháo nổ vung vãi trên một vùng khá rộng. Địch không biết chắc vị trí quân ta nhưng vẫn tập trung bắn về phía rừng già, vì quân ta chỉ có thể rút về theo hướng đó. Cũng vì mục tiêu không rõ ràng nên địch cũng chỉ bắn chừng hơn hai chục trái đạn pháo rồi thôi. Chắc chúng đang tổ chức thu dọn ngoài khu vực căn cứ, nơi vừa bị phục kích. Anh Hùng cho kiểm tra lại quân số trước khi ra lệnh rút tiếp. Có ba chiến sĩ bị dính mảnh đạn pháo. Nặng nhất là Hưng của Trung đội 4 bị mảnh pháo khá to phang vào đùi, có thể gãy xương, phải ga rô, băng bó và anh em phải chặt đòn làm cáng khiêng. Nghi ở Trung đội 5 bị một mảnh đạn nhỏ cắm vào vai phải sệ cả cánh tay xuống, y tá bảo không nguy hiểm vì chỉ là phần mềm, băng treo tay lên vẫn còn đi được, chỉ không mang được súng, phải giao cho người khác mang hộ. Nhẹ nhất là Sáng bị một mảnh chả biết to đến đâu nhưng sượt ngang cánh tay trái rách một vết tới bốn phân nhưng nông, dù máu chảy ướt cả cánh tay áo. Cái vết này anh y tá bảo chỉ nghỉ vài ngày là lành vì nó cũng chỉ ngang như một vệt dao rạch nhẹ. Nhưng đến lúc về tới hậu cứ tạm, đơn vị tổ chức cho người cáng và dìu đưa Hưng và Nghi về hậu cứ tuyến sau, y tá Lộc rửa và băng lại vết thương cho Sáng thì mới biết Sáng đã cận kề cái chết chỉ bằng sợi tóc. Chỉ có sự màu nhiệm vô tình mới cứu Sáng khỏi tay thần chết.

Số là khi bảo Sáng cởi áo ra xem vết thương ở vai, y tá Lộc mới phát hiện túi áo trái của nó có vết rách và ngay tại ngực trái cũng có một vệt sước rất nhỏ trên da chỉ hơi rớm máu. Anh Bấn mở cái túi áo trái của Sáng và lôi cái ví trong đó ra xem. Đó là chiếc ví bằng ni lông bốn lớp dày cộp màu xanh nhạt trong đựng đủ thứ linh tinh của Sáng, từ mấy cái ảnh, giấy cuốn thuốc lá tới một mảnh lược nhựa nhỏ bằng bốn ngón tay. Tất cả đã kết dính chặt vào nhau, phải gỡ mãi mới lôi ra được một mảnh đạn pháo lam nham chỉ nhỏ bằng đầu ngón tay út. Bốn lớp ni lông chảy sùi cùng các thứ linh tinh đã giữ kẹt mảnh đạn pháo đó lại khiến nó hết lực, chỉ còn đủ sức chui mớm ra nốt qua làn vải áo trong của Sáng. Nếu không có cái ví này, hiển nhiên mảnh đạn đã cắm sâu vào tim Sáng để ghi tên Sáng vào danh sách liệt sĩ của đại đội. Nghe y tá Lộc kêu lên, mấy chiến sĩ quanh đó xúm lại xem, ai cũng lắc đầu lè lưỡi. Còn Sáng thì ngây người ta nhìn trân trân vào cái mảnh đạn, phải thật lâu sau mới thấy sợ và mới ngấm về nỗi nguy hiểm và sự may mắn không thể tưởng tượng nổi đó. Anh Lộc băng lại vết thương ở vai cho Sáng, còn cái vệt rớm sước ở ngực thì chỉ lau qua chút thuốc tím chống nhiễm trùng. Đại đội phó Hùng đến gặp Sáng, cười rất tươi và vỗ vai:

“Em là người rất cao số. Đã thoát khỏi thần chết một lần như thế này thì sau này chẳng bom đạn nào đụng vào được nữa đâu”.

Sáng nhìn anh Hùng cười ngượng nghịu vẻ cảm ơn về lời phán của anh và khẽ “vâng ạ”. Cái ví rách ấy, Sáng vuốt lại mấy chỗ thủng rồi vẫn giữ lại để dùng. Nó còn cẩn thận gói cái mảnh pháo 105 ly ấy nhét luôn vào ví, thầm coi đó như là một cái bùa hộ mệnh. Vết thương nhỏ trên vai trái của Sáng chỉ vài hôm sau đã liền miệng rồi khỏi, chỉ để lại một vết sẹo nhỏ trông như gai tre cào nên Sáng vẫn tiếp tục ở lại cùng đại đội. Sáng còn thấm thía hơn về vận may của mình khi sau đó vài hôm, tiểu đội trưởng Nhạn ngồi chơi trong lúc rỗi đã kể cho nó nghe về Sơn, một người chiến sĩ cũ trong tiểu đội của anh đã hy sinh hồi đầu mùa khô năm trước trong một trường hợp thật đáng tiếc.

Lúc ấy là vừa qua một mùa mưa. Quân ta đã giải phóng thị trấn Paksoong và lấn thêm được cả chục cây số nữa trên đường 23. Ngoài vị trí đóng chốt ở thị trấn, cả một đoạn dài trên đường 23 bị bỏ trống. Nếu có việc gì phải lên đường 23 hay sang phía nam đường, quân ta toàn phải vượt qua huội Champi, con suối chính nằm trên cao nguyên Boloven chảy song song dọc đường 23 từ suốt thị trấn Paksoong cho đến tận gần ngã ba Lào Ngam mới đổi hướng. Lý do là toàn bộ các khu hậu cứ của Trung đoàn 9 được xây dựng toàn bộ bên phía bắc đường 23, nơi có nhiều bản Lào trù phú vẫn còn có dân ở lại sinh sống. Suốt cả mùa mưa năm trước, không có chiến sự trên đường 23, địch chấp nhận mất thị trấn Paksoong và lùi quân xuống bảo vệ khu vực trung tâm thứ hai là ngã ba Lào Ngam, nơi có tới một tiểu đoàn quân Thái Lan và hai tiểu đoàn quân Phumi trấn giữ. Suốt hai chục cây số trên đường 23 từ Paksoong về hướng ngã ba Lào Ngam cả mùa mưa hầu như chẳng có ai qua lại, kể cả những người dân trong vùng bắc đường 23 mò ra các nhà sàn của các bản dân bỏ cạnh đường 23 gỡ tôn về lợp nhà hay cánh chiến sĩ của các đơn vị ra các vườn dân ở đây để tìm các thứ cải thiện. Hầu như tất cả đều nhằm một hướng vượt qua huội Champi đi lên, tạo ra vô số con đường nhỏ như xương cá vắt ngang con huội này. Vì thế mà qua mấy tháng mùa mưa, hai loài cây dại trên cao nguyên là cây xấu hổ và cây mâm xôi thả sức phát triển tràn lan. Chúng mọc lấn mọc đè lên tất cả mọi loại cây khác, từ cỏ dại đến những rặng dã quỳ vốn là hình ảnh đặc trưng ven các con đường đất đỏ trên các cao nguyên rồi mọc tràn lan ra mặt đường. Con đường 23 là đường nhựa có mặt đường vốn rộng đến năm, sáu mét mà nay chỉ còn là một vệt đường rộng chừng hai mét vòng vèo, đôi chỗ cây xấu hổ còn vươn ra từ hai bên đường giao ngọn vào nhau. Đơn vị nào phải đi một đoạn đường dài qua đó thật chẳng dễ dàng gì.

Qua thông tin quân báo, biết được quân Thái Lan có kế hoạch lấn dúi thăm dò theo đường 23 lên Paksoong, Tiểu đoàn 2 được lệnh triển khai quân chốt giữ và Đại đội 6 nhận nhiệm vụ ra tuyến đầu. Một cái chốt nhưng mang dáng dấp một trận địa phục kích được lập gần bản Vườn Lê 42, và như thông lệ Trung đội 5 của anh Quân lại đi trước. Trung đội trưởng Quân chọn vị trí đào các hầm chốt bên mé bắc đường, lẫn vào những vạt cây mâm xôi và xấu hổ để ngụy trang đồng thời tạo luôn đường rút thẳng xuống huội Champi sau trận đánh. Những vạt cây xấu hổ bùng nhùng và rất vướng víu, nhưng dùng những đoạn gậy chống cao lên thì lại là những mảng cây xanh ngụy trang rất tốt, không dễ gì nhìn thấy từ xa, máy bay trinh sát L-19 có dòm ngó cũng khó phát hiện. Hai ngày đầu yên ắng, anh nuôi vẫn đưa cơm cho cả ngày từ lúc sáng sớm và quân ta vẫn cử nhau xuống suối lấy đủ nước uống trong ngày. Đã sang mùa khô, trời có nắng nên mọi thứ khô ráo, ban đêm vơ tí cỏ khô lá rụng và trải ni lông ngủ ngay trên miệng hầm. Mục đích đánh địch xong là rút luôn không chốt lại dài ngày nên chỉ đào hầm bằng có nắp. Anh Quân có lúc nghĩ chưa chắc địch đã lên tới đây vì khoảng cách quá xa, nhưng ban đêm vẫn phải tổ chức một điểm gác cho yên tâm.

Ngày thứ ba, chừng 10 giờ sáng đã nghe tiếng địch lao xao trong gió, thò hẳn đầu ra mặt đường, Trung đội trưởng Quân đã nhìn thấy thấp thoáng những cái mũ địch nhấp nhô từ phía xa. Anh ra hiệu cho anh em chuẩn bị đánh địch. Nhưng rồi chờ khá lâu vẫn chưa thấy gì, anh Quân lại bò ra mé đường nghe ngóng. Hóa ra chúng đang ngồi nghỉ giải lao cách đó một đoạn khá xa, chừng như đã mệt sau chặng đường hành quân dài cả chục cây số thì phải. Mà có thể chúng chỉ đi đến đây rồi quay trở lại cũng nên vì lùng sục đến đây cũng là quá xa nơi đóng quân của chúng rồi. Nếu vậy thì quá dở cho quân ta. Địch đang chủ quan và mệt mỏi như thế mà bỏ không đánh thì phí mất một cơ hội tốt. Nổ súng đánh luôn thì hơi vuốt đuôi vì không thể vận động vòng lại tiếp cận sau lưng chúng mà bắn từ xa thì không hiệu quả. Đang lo lắng như vậy thì bỗng nghe địch thổi còi toe toe rồi cả đội hình của chúng đứng dậy rùng rùng hành quân tiếp. Bây giờ mới thấy rõ, địch chỉ đi được hàng một vì khoảng trống giữa đường quá nhỏ. Đợi cho những tên địch đi đầu tới ngang đội hình bố trí của trung đội, anh Quân phẩy tay ra hiệu nổ súng. Hai khẩu B-40 cùng đồng loạt chớp lửa “ùng, oàng” vào giữa đội hình địch. Khẩu M79 của anh Lục cũng bắn thẳng còn AK thì quân ta cứ đứng thẳng người lên kẹp nách ngang tầm mà quạt. Những tên địch phía trước mặt đổ gục không có cơ chạy thoát còn bọn đi sau ríu vào nhau lúng túng như gà mắc tóc. Chúng không còn chỗ nào để nằm hay quỳ bắn vì thằng sau vướng thằng trước. Không thể tạt sang hai bên đường triển khai nổ súng chống lại vì những cành gai xấu hổ và mâm xôi bám chặt vào quần không chạy được. Ngay cả bọn phía sau rút lui mà cũng đạp cả vào nhau mà không có đường chạy. Những vạt cây xấu hổ và mâm xôi hai bên đường như một cái bẫy bùng nhùng tự nhiên gây ra một cảnh tắc đường hy hữu cho địch. Trong khi đó thấy thuận lợi, anh Quân cho anh em đứng sát ra đường cứ thế nổ súng. Chẳng mấy chốc trên cả đoạn đường trước mặt chỉ còn xác địch. Bọn địch ở tít sau đã chạy xa và cũng không biết đằng nào mà bắn lại. Chỉ nghe vài loạt AR-15 bắn lẹt đẹt vu vơ. Hai khẩu B-40 đã bắn hết cơ số đạn năm quả mà dù có còn cũng không thể bắn tiếp vì đuối tầm. Thời gian này cấp trên chưa có trang bị B-41 cho các đơn vị bộ binh. Chỉ có khẩu M79 của anh Lục là cứ nâng tầm bắn dần và cũng câu được hơn hai chục trái. Trung đội trưởng Quân hô anh em thu vũ khí và rút. Chiến sĩ ta bổ ra đường nhặt nhanh mỗi người một khẩu súng và giật vội ba lô địch rồi theo anh Quân rút nhanh về huội Champi. Súng đạn chiến lợi phẩm còn rất nhiều nhưng anh Quân vẫn cho lệnh rút, không thể chần chừ để tránh bị địch câu pháo tới, hoặc những tên địch nằm ở xa bắn bừa M79 tới gây thương vong cho quân ta. Tất cả bước thấp bước cao ào ào lội qua huội Champi rồi lao lên đường, cứ theo lối mòn mà chạy.

Có lẽ phải chạy rất xa tới vài trăm mét mới nghe tiếng đề pa rồi ba trái 105 ly của địch bắn tới. Chúng bắn vu vơ mỗi nơi một quả, mà cũng chỉ có ba trái rồi thôi. Một trái pháo rơi ngay cạnh đội hình trung đội, đất đá bay rào rào làm tất cả ào ào nằm rạp xuống rồi lại ào ào bật dậy chạy tiếp. Thêm một đoạn chạy xa nữa, thấy im ắng anh Quân cho anh em dừng lại kiểm tra quân số. Không ai làm sao cả, nhưng thiếu mất Sơn, người Hà Tây. Anh Quân cho anh em tạm nghỉ và cử một nhóm ba người quay lại tìm Sơn. Anh Nhạn và hai lính trong trung đội tìm thấy Sơn đang nằm cạnh một gốc cây nhỏ, người nằm đè lên khẩu AK đeo trước bụng, còn khẩu súng và cái ba lô chiến lợi phẩm của địch văng ra cạnh đó. Mọi người xốc Sơn lên thấy nó đã tắt thở, người mềm nhũn ra nhưng vẫn còn ấm. Anh Nhạn sờ quanh người nó tìm vết thương mà không thấy ở đâu cả. Không lẽ nó bị ngã va mạnh vào đâu đó mà bị chết. Anh Nhạn đành cho anh em thay nhau cõng Sơn đưa về chỗ trung đội đang nghỉ. Anh Quân nghe báo cũng ngạc nhiên, cho kiểm tra lại khắp người Sơn. Cởi cái áo ra thì mới phát hiện một vết máu rỉ bé tẹo trên ngực ngay giữa chỗ tim, gạt gạt tay vào mới thấy máu ứa ra. Hóa ra Sơn bị một mảnh pháo chỉ bé như hạt đỗ nhưng xuyên đúng vào tim. Máu cũng chảy ngấm bên trong chỉ ứa ra ngoài một ít nên lúc đầu không phát hiện ra. Cả trung đội cứ ngơ ngẩn cả người đau xót. Anh Quân cho anh em chặt cáng khiêng Sơn về hậu cứ. Trận đánh ấy ta thắng to, cả một đại đội quân Thái Lan hành quân ra đây chủ quan bị ta diệt mấy chục tên, bọn còn sống rút chạy suốt thẳng qua ngã ba Lào Ngam về tận Pakse. Thật tiếc về trường hợp hy sinh không đáng có của Sơn, thấy nó vô lý thế nào ấy. Sơn đánh trận này là trận đầu tiên và đã ra đi thật tức tưởi.

Kể lại trận đánh bọn Thái Lan khi ấy cùng sự hy sinh của Sơn xong, anh Nhạn nhìn Sáng bảo:

“Mảnh đạn của mày còn to hơn mảnh pháo của thằng Sơn rất nhiều, cũng trúng ngay vào chỗ tim. Nhưng cái ví nhựa đã cứu mày, thật là hồng phúc”.

Nghe chuyện kể của anh Nhạn, Sáng càng ngẫm càng thấy mình may mắn. Nhất định phải giữ lại cái ví thủng và mảnh đạn pháo này đem về nhà nếu như còn sống để kể lại cho bạn bè và người thân nghe câu chuyện lạ mà hay trong chiến tranh. Còn chuyện Đại đội phó Hùng bảo cái số nó cao, thoát chết một lần đặc biệt như thế thì bom đạn nó tránh, Sáng chưa tin. Sáng chỉ coi đó là lời động viên của một cán bộ đại đội với cấp dưới để củng cố tinh thần chiến đấu. Nhưng quả thật đó là lời động viên tốt.

Gần cuối đợt luồn sâu, tiểu đội của Nhạn được đi công tác lẻ đặc biệt. Trung đội bổ sung thêm Sáng của tiểu đội cậu Bấn sang thành nhóm bốn người, mang AK tất cả. Còn Trân trong tiểu đội là người giữ B-40 sẽ ở lại cùng trung đội để tăng cường hỏa lực cho những trận tập kích nhỏ mà Đại đội 6 vẫn đang tiến hành. Vậy là có bốn người gồm Nhạn, Tháo, Hoài và Sáng. Đại đội trưởng Khâu trực tiếp giao nhiệm vụ cho cả nhóm:

“Từ chỗ chúng ta đang đóng quân đây nhìn về phía đông là Phù Khống Phạ. Dãy núi này ngăn cách cao nguyên Boloven với tỉnh A-tô-pơ giáp với Việt Nam. Bên ấy là vùng giải phóng của ta, có tuyến vận tải của đường dây 559 qua đó. Cấp trên phán đoán trên đỉnh Phù Khống Phạ có một đài thông tin của địch để liên lạc với các đơn vị thám báo hoạt động ở Tây Trường Sơn. Nhiệm vụ của các cậu là lên đó trinh sát tìm xem có trạm thông tin đó không. Có nhiều khả năng không có đường dẫn tới đó, mà địch xây dựng trạm thông tin biệt lập và tiếp tế bằng máy bay trực thăng. Các cậu sẽ nằm trên đó một tuần theo dõi tình hình trực thăng tiếp tế để xác định có trạm đó hay không và đánh dấu lại trên bản đồ. Từ đây lên đỉnh Phù Khống Phạ chừng năm chục cây số đường chim bay, các cậu sẽ đi công tác trong khoảng hai tuần lễ, có tìm thấy hay không cũng trở về. Tất cả đã rõ chưa và có gì cần hỏi thêm không”.

Nhạn không hỏi gì thêm vì nhiệm vụ thế là rõ. Tiểu đội không phải chiến đấu mà chỉ là trinh sát tìm một mục tiêu có thể có mà cũng có thể không. Anh đã có địa bàn nên chỉ xin cấp đủ bản đồ khu vực Phù Khống Phạ. Anh đề nghị cho anh em chỉ mang theo đủ cơ số đạn cá nhân, còn lại tập trung mang lương thực đủ cho nửa tháng và xin y tá đại đội cấp cho một túi thuốc cá nhân tối thiểu. Tiểu đội cũng sẽ mang theo hai con dao tông để phát cây rừng. Đây là loại dao do công binh trung đoàn rèn từ nhíp xe ô tô nhẹ và rất sắc. Đại đội trưởng Khâu và Trung đội trưởng Quân đồng ý. Cả hai rất tin tưởng khi giao nhiệm vụ này cho tiểu đội của Nhạn. Công tác trinh sát và đi rừng đòi hỏi kỹ năng đặc biệt là sử dụng bản đồ, địa bàn thành thạo, đồng thời có kinh nghiệm nhìn thực địa. Trong Đại đội 6, Nhạn rất giỏi trong việc đạp đường và đi rừng, mấy lần cấp trên đã định lấy lên trinh sát tiểu đoàn mà Nhạn đều xin rút. Tất nhiên ở đâu cũng là nhiệm vụ và vì ở lại đơn vị bộ binh chiến đấu cũng không phải là thoái thác khó khăn nguy hiểm nên cấp trên đành chấp nhận.

Thực ra trước khi giao nhiệm vụ cho tiểu đội của Nhạn, Trung đội trưởng Quân đã có chút lăn tăn hỏi Đại đội trưởng Khâu:

“Nhiệm vụ trinh sát kiểu này đáng lẽ phải giao cho cánh trinh sát trung đoàn hay tiểu đoàn chứ sao lại giao cho bộ binh ta anh Khâu nhỉ. Mà tôi xem ra nó cũng lờ mờ thế nào ấy. Định xóa sổ nó thì cho quân lên đi cùng trinh sát rồi nện luôn là xong chứ chấm bản đồ để đi lần nữa à?”.

“Tớ lúc đầu cũng nghĩ như cậu, không khoái với cái nhiệm vụ kiểu này lắm. Sau nghĩ lại, có lẽ nó chả bõ cho việc điều trinh sát của trung đoàn. Nhân có đại đội mình ở đây thì giao làm luôn. Tách ra mấy cậu bộ binh đi làm nhiệm vụ thì cũng chả mất gì. Nếu không có cái đài thông tin ấy thì thôi, còn có thì chấm tọa độ rồi dội cho nó ít quả ĐKB là xong”.

Ngừng một lát, Đại đội trưởng Khâu nói tiếp:

“Chính ông Phát, Tiểu đoàn trưởng nói giao nhiệm vụ trực tiếp cho tiểu đội cậu Nhạn đấy. Hình như các bố ấy nhân việc này làm luôn cái chuyện kiểm tra trình độ đi rừng của cậu Nhạn để sau này lôi luôn lên trinh sát tiểu đoàn cũng nên”.

Trung đội trưởng Quân nghe thế tặc lưỡi: “Thôi tùy cấp trên vậy”.

Sáng sớm hôm sau, Nhạn lặng lẽ dẫn tiểu đội lên đường sau khi lấy cho mỗi người một đùm cơm nắm ở chỗ anh nuôi, chả chào hỏi ai câu nào cả. Việc này hoàn toàn bình thường vì trong đơn vị có một điều kiêng kỵ, không bao giờ bắt tay hay chia tay ai khi đi nhận công tác đặc biệt hay thậm chí là chuyển đi đơn vị khác. Cứ lặng lẽ việc ai nấy làm, không tò mò hỏi han. Chỉ đến mãi sau khi không thấy ai đó trong đơn vị mà hỏi thì mới biết người đó đã không còn ở đơn vị nữa, thế thôi.

Qua suối vẫn là một cánh rừng rậm và bằng phẳng. Càng đi càng thấy là phía này chả có ai mò đến, cây rừng gần như nguyên sinh, không có một dấu vết bom đạn nào. Những nơi không có vị trí chiến lược nào thì dù thừa mứa bom đạn đến đâu, tụi Mỹ nó cũng chẳng buồn thả xuống một trái. Suốt buổi sáng cả tiểu đội cứ bá