4. CẢI CÁCH KINH TẾ TÀI CHÁNH ĐIỀN ĐỊA KINH TẾ TÀI CHÁNH
Hồ Quý Ly xuất chính vào thời vua thì hèn yếu, đẳng cấp quí tộc quá đông đảo, ăn không ngồi rồi bắt đầu suy sụp, tranh giành quyền lợi kinh tế với dân, quan lại tham nhũng, giặc cướp khắp nơi. Chánh quyền không đủ sức bảo vệ an ninh và tài sản nhân dân. Loạn ly, hạn hán gây nên nạn đói ; chánh quyền cũng không cứu trợ được dân.
Để có lúa giúp dân, chánh quyền phải mở cuộc quyên thóc dưới hình thức phong tước cho những ai dâng thóc cho nhà nước. Năm Kỷ mão (Long Khánh thứ ba – I370), vua ra chiếu buộc nhà giàu các lộ phải nộp lúa đổi tước phẩm.
Năm Đinh Sửu (I397), thương mãi bắt đầu bành trướng mặc dầu nông nghiệp vẫn là căn bản của nền kinh tế quốc gia. Quí Ly ban hành các đồ đo lường (cân, thước, đấu, thưng) có tiêu chuẩn nhất định để chấn chỉnh việc mua bán trong nhân dân. Ông đặt ra chức giám thị để kiểm soát sự mua bán và ban hành các điều luật thương mãi, cấm dân chúng tự ý tăng giá hàng và đóng cửa hàng không lý do, mục đích bài trừ nạn đầu cơ, tích trữ, gây khó khăn cho người tiêu thụ.
Quí Ly nhận thấy hình thức tiền tệ từ trước đến bây giờ là một trở ngại cho việc phát triển kinh tế.
Chẳng những ở Việt Nam, mà khắp thế giới từ xưa đến cuối thế kỷ I4, việc thương mãi hay các dịch vụ được trao đổi hoặc bằng hiện vật, rồi tiến hơn nữa, thì người ta dùng những đỉnh vàng, đỉnh bạc, hoặc tiền bằng vàng, bằng bạc, bằng đồng, bằng kẽm. Nhiều bộ lạc ở Châu Phi dùng vỏ sò, vỏ ốc làm tiền.
Việt Nam chúng ta cũng đổi chác nhau hoặc bằng sản vật, bằng vàng, bạc, và thời Bắc thuộc thì dùng tiền đúc của Trung Quốc.
Khi nước nhà độc lập, thì triều đại nào cũng có đúc tiền.
Đời Đinh Tiên Hoàng đúc tiền đồng hiệu Thái bình thông bảo ; đời Lê Hoàn đúc tiền đồng hiệu Thiên phúc trân bảo ; đời Lý Thái Tông đúc tiền đồng hiệu Minh đạo thông bảo ; đời Trần Minh Tông đúc tiền kẽm.
Cả những đời sau: Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Mạc Đăng Dung, Lê Hiến Tông, Quang Trung, Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức đều có đúc tiền. Riêng Tự Đức còn có đúc những đỉnh vàng, đỉnh bạc, một nén và một lượng.
Ngay ở Âu Châu, ta đọc truyện « Ba người ngự lâm pháo thủ » của Alexandre Dumas, vào thế kỷ I7, vẫn thấy D’Artagnan buộc kè kè túi tiền vàng bên hông!
Tiền đúc, vàng, bạc nén nặng nề, cồng kềnh. Khi cần xê dịch, chuyên chở những số lượng to thật là bất tiện và nguy hiểm, nhứt là vào những thời đại mà đường giao thông và các phương tiện lưu thông hãy còn thô sơ. Tuy nhiên, vì thương mãi còn ấu trĩ, tiểu công nghệ không đáng kể, kỹ nghệ chưa có, nên ngoài chánh quyền, sự chuyên chở tiền bạc với những số lượng khổng lồ không phải là mối lo nghĩ của quần chúng.
Thời bình thì cũng chẳng có gì đáng nói, nhưng thời loạn thì việc chôn giấu hay mang theo người một ít đỉnh vàng, nén bạc hoặc một vài chục quan tiền thôi cũng là cả một vấn đề. Ngoài ra, các tư nhân giàu có thường có thói quen tích trữ hay chôn giấu tiền bạc, gây trở ngại cho sự lưu hành tiền tệ và như vậy, rất nguy hại cho nền kinh tế nước nhà.
Với đầu óc đi trước thời đại, Quí Ly nhận thấy cần phải cải cách tiền tệ và đưa ra một biện pháp tài chánh vô cùng mới mẻ vượt thời gian hằng vài trăm năm, nhưng lại quá táo bạo. Uy tín của chính quyền lúc ấy và uy tín của cá nhân ông không đủ để bảo đảm cho biện pháp tân tiến vượt bực ấy. Đó là việc phát hành giấy bạc .
Tiền giấy của ông đưa ra gồm 7 hạng:
- Giấy vẽ rêu biển ăn I0 đồng tiền.
- Giấy vẽ sóng nước ăn 30 đồng tiền.
- Giấy vẽ đám mây ăn I tiền.
- Giấy vẽ con rùa ăn 2 tiền.
- Giấy vẽ con lân ăn 3 tiền.
- Giấy vẽ con phượng ăn 5 tiền.
- Giấy vẽ con rồng ăn I quan.
Ai làm giấy bạc giả bị tội tử hình, tịch thu gia sản.
Để khuyến khích nhân dân xài tiền giấy, ai có một quan tiền cũ được đổi lấy một quan hai tiền giấy. Tiền đồng phải đem nộp kho đổi lấy tiền giấy. Người nào giấu giếm và xài tiền đồng cũng phải tội như người làm giả tiền giấy.
Chẳng những thời đại của Quí Ly, mà cả những đời sau, cũng chẳng hiểu được biện pháp tiền tệ nầy của ông. Bằng chứng là các triều đại sau đó đều đúc tiền bằng kim khí. Cả sử gia Trần Trọng Kim trong VIỆT NAM SỬ LƯỢC cũng nhận định: « Quí Ly đặt ra một cách làm tiền giấy để thu tiền của dân ».
Về THUẾ MÁ, như chúng tôi có nói qua, các triều đại Việt Nam thường đặt ra hai hạng thuế: trực tiếp và gián tiếp.
Công kỹ nghệ và thương mãi chưa phát triển, nên thuế gián thâu chưa phải là nguồn lợi tức đáng kể cho quỹ của triều đình, nên các triều đại đều đặt trọng tâm vào thuế trực thâu, là thuế đinh và thuế điền.
Về triều Trần, mỗi suất đinh đều phải nộp 3 quan, theo đề nghị của Đỗ Tử Bình được áp dụng từ năm Mậu Ngọ, Xương phù thứ hai (I378). Mỗi mẫu tư điền phải nộp 3 thang lúa.
Năm Nhâm Ngọ (I402), họ Hồ định lại:
- THUẾ ĐINH: tùy tình trạng gia cảnh mỗi người, nhưng chiếu theo số ruộng tư hữu mà đánh. Hạng vô sản được đặc miễn. Hạng có 5 sào nộp 5 tiền giấy. Hạng có từ 6 sào đến I mẫu, nộp I quan tiền giấy. Hạng có từ I mẫu một sào đến I mẫu 5 sào, nộp I quan 5 tiền giấy. Hạng có I mẫu 6 sào đến 2 mẫu nộp 2 quan tiền giấy. Hạng có 2 mẫu I sào đến 2 mẫu 5 sào nộp 2 quan 6 tiền giấy. Hạng có 2 mẫu 6 sào trở lên nộp 3 quan tiền giấy.
- THUẾ ĐIỀN: ruộng tư điền mỗi mẫu nộp 5 thùng lúa. Ruộng dâu chia làm 3 hạng: hạng nhứt đóng 5 quan, hạng nhì đóng 4 quan, hạng ba đóng 3 quan.
Thuế suất mới này công bình hơn đề nghị của Đỗ Tử Bình trước kia.
Năm Nhâm Thìn (I40I), nhà Hồ lập ra một thứ THUẾ ĐÁNH VÀO CÁC THUYỀN BUÔN. Thuyền buôn chia làm ba hạng: hạng nhất phải nộp mỗi chiếc năm quan, hạng nhì nộp 4 quan, hạng ba nộp 3 quan.
ĐIỀN ĐỊAViệt Nam là một quốc gia nông nghiệp. Ruộng đất là vấn đề sống chết của dân, cho đến nỗi người ta thường nói: thù oán nhau như giành trâu cướp ruộng! Vì vậy mà chế độ điền thổ của tư nhân được quy định chặt chẽ, rành mạch, từ quyền thừa hưởng di sản của tổ tiên đến việc kế thừa hương hỏa. Ngay dưới thời Pháp thuộc và mãi đến ngày nay, luật pháp vẫn phải nhìn nhận sự hương hỏa trong việc thừa kế của mỗi gia đình.
Dưới thời phong kiến, nhà vua thường cấp cho xã thôn hoặc các đoàn thể khác ruộng đất để hưởng dụng, tức là công điền, công thổ, cấm không cho bán, cầm thế. Công điền, công thổ, nếu thuộc về hạng khẩu phân điền, thì cứ ba năm một lần, chiếu theo số nhân đinh của xã thôn mà quân phân cho mọi người trong làng ; nếu là hạng lương điền thì để riêng, cấp cho binh lính.
Ngoài hạng công điền công thổ vua cấp, các xã thôn giàu còn có những công điền công thổ khác như trợ sưu điền để giúp tráng đinh một phần sưu ; học điền để lấy huê lợi nuôi thầy dạy học, hoặc cấp giấy bút cho học trò nghèo ; cô nhi điền, lấy huê lợi giúp trẻ mồ côi, quả phụ điền để giúp kẻ góa bụa. Xã thôn còn có bổn thôn điền do xã thôn xuất công nho ra mua của tư nhân và nộp thuế. Hạng ruộng nầy có thể cầm bán được. Còn hạng ruộng của những người tuyệt tự cũng cho xã thôn làm hậu điền thì không cầm bán được.
Công điền, công thổ do tư nhân khai thác và nộp thuế lâu ngày thành hẳn của riêng của tư nhân và trở nên đất ruộng cầm bán được. 38
Do việc qui định chặt chẽ nầy mà điền địa không bị tập trung quá nhiều vào tay một thiểu số giàu có. Cũng nhờ đó mà nhân dân được dự một phần vào quyền sở hữu về đất đai ; tại nhiều xã thôn, nông dân nghèo cũng có được một sào ruộng công điền để cày cấy, nộp thuế hay đóng góp lệ làng.
Đến triều Trần, thì chế độ tư hữu tài sản bành trướng quá mạnh. Các nhà quí tộc đã dùng nô, tì, hoành là những nông nô để đắp đê, ngăn nước mặn ngoài biển, lâu ngày thành đất ruộng rồi lập trang trại. Họ dùng những nông nô đó làm việc trong trang trại để họ ngồi không mà hưởng. Dân nghèo đã đổ không biết bao nhiêu mồ hôi nước mắt vào đó để cho các nhà quí tộc làm giàu.
Ngoài ra, mặc dầu lịch sử không nói rõ, nhưng có lẽ nhiều người giàu có đã mua gom tư điền của các nông dân suy sụp để trở thành những đại điền chủ, cho mượn ruộng đất với địa tô nặng nề, bóc lộ nông dân đến tận xương tủy.
Số nhân khẩu tăng gia mỗi ngày một đông, nhiều nông dân không có ruộng cày để nuôi gia đình, và đa số phải phục vụ không công cho các nhà quí tộc, hoặc mướn ruộng với địa tô cao của những điền chủ, làm đầu tắt mặt tối mà không đủ ăn.
Lúc bấy giờ, Hồ Quí Ly đã có đầy đủ quyền hành và thế lực, đủ sức đương đầu với đẳng cấp quí tộc.
Ông nhìn thấy tệ trạng ấy của xã hội, và nếu để cho kéo dài, dân chúng đói khổ nhiều có thể sanh ra loạn lạc.
Là một chánh trị gia cương quyết và sáng suốt, ông can đảm đối phó với bất công xã hội ấy bằng biện pháp mạnh là TRUẤT HỮU tư điền.
Theo chánh sách điền địa mới của Quí Ly, trừ các bậc đại vương và trưởng công chúa, KHÔNG AI ĐƯỢC CÀY CẤY QUÁ I0 MẪU RUỘNG. Số ruộng thừa phải nộp cho nhà nước. Ngoài ra, ai có tội hay bị giáng truất đều được lấy ruộng để chuộc tội.
Công cuộc cải cách điền địa còn được thi hành triệt để và một cách khoa học với sự ĐẠC ĐIỀN đại qui mô trên bình diện toàn quốc. Đây là công cuộc mà chưa triều đại nào nghĩ tới.
Năm Mậu Dần, Quí Ly hạ lệnh đo lại ruộng đất, hạn cho các quan địa phương phải hoàn tất công việc vĩ đại này trong 5 năm vì có sự ẩn lậu.
Các quan lộ, phủ, châu, huyện phải cho các điền chủ khai rõ số ruộng đất mình có rồi biên họ tên vào một cái thẻ cắm trên thửa ruộng hay đất. Một hội đồng gồm các quan địa phương thân hành đến tận nơi kiểm soát và đo lại rồi lập thành điền bạ. Thửa ruộng nào không có người khai sẽ bị nhập vào công điền.
Biện pháp nầy có một tầm quan trọng rộng lớn đối với một quốc gia nông nghiệp và y như ở các nước tân tiến ngày nay. Nhờ đó chánh quyền biết rõ diện tích ruộng đất sản xuất được trong nước, lập được danh sách điền, địa chủ và số ruộng đất họ có, thực hiện công bằng thuế khóa vì không ai ẩn lậu được nữa. Ngoài ra, ruộng đất đều có sổ bộ đàng hoàng, quyền tư hữu của nhân dân được bảo đảm, sự cầm, bán, lưu truyền cho con cháu được minh bạch, và khi có tranh tụng, cũng dễ cho quan lại phân xử. Hơn nữa, việc đạc điền làm cho lòi ra một số ruộng đất bị chiếm hữu vô quyền hoặc vô thừa nhận, nhập vào công điền cấp lại cho dân không ruộng đất cày cấy hoặc trồng trọt.
Ngoài quyền lợi của chánh quyền, người ta thấy rõ Quí Ly muốn cho nông dân có ruộng cày, không bị những kẻ giàu có và đẳng cấp quí tộc, tức là những thành phần có nhiều uy thế trong giai cấp thống trị bóc lột sức lao động.
Muốn hay không, Quí Ly cũng đã thực hiện được công bằng xã hội có lợi cho đại chúng, vừa củng cố được chính quyền và mang lại cho đất nước những quy mô của một quốc gia văn minh ở một thế kỷ mà cả thế giới hãy còn trong tình trạng bán khai.
Tiếc thay, một chánh trị gia sáng chói như vậy lại không được nhân dân hiểu biết để đến nỗi nước mất nhà tan.