CHƯƠNG 8 HÃY KÍN MIỆNG KÍN MỒM
Mối quan hệ của 2 người bạn chiến đấu xưa nay không phải là bình thường - sau này trở nên bất hoà - sau đó là thượng cẳng tay hạ cẳng chân - bạn bè trở thành kẻ thù - kẻ nào đã điều khiển việc giám định giả tạo cái chết - sao lại chết trong ghế tựa mây - đáng ngờ người đến thăm.
Sáng ngày 18 tháng 2 năm 1937, một người lạ mặt tự nhận là lái xe đến nhà ở của Ônchungnisítchơ ở Điện Kremli. Anh ta muốn chuyển cho Grigơn Côngstantinôvich Ônchungnisítchơ một túi văn kiện cửa Bộ chính trị. Kinaita Capnrốpna (vợ của Ônchungnisítchơ) hỏi "Nicôla Ivannôvích, lái xe riêng của Sécgây đi đâu rồi?”. Người kia trả lời rằng, hôm nay Nicôla Ivannôvích không đi làm.
Sau đó con người ấy đi lên tầng hai, vào phòng làm việc của Sécgây. Được vài phút, vọng tới một tiếng súng nổ. Người lạ mặt ấy ra đi khỏi văn phòng, xuống dưới nhà hỏi Kinaita "Vừa rồi bà có nghe thấy tiếng súng nổ không?"
Khi Kinaita đi vào văn phòng, bà nhìn thấy Sécgây gục ở ghế tựa, tay phải thõng xuống, một khẩu súng lục vứt ở sàn nhà, bên phải thi thể Sécgây.
Trước khi gã lạ mặt vào văn phòng, Sécgây với giọng người Gơrudia đang gắt gao gọi điện thoại (có thể đang gọi cho Stalin).
Cuối cùng sau 54 năm, lâu nay người mục kích sự việc đã mô tả thành các nguồn tin bàn tán và lan truyền được đăng tải trong một cuốn học thuật có tầm cỡ. Năm 1991, tạp chí "Vấn đề lịch sử của Đảng cộng sản Liên xô" có đăng một mẩu chuyện trong tập hồi ký của Kindơpao, từng là bạn chiến đấu thân thiết nhiều năm của Sécgây Ônchungnisítchơ. Anh đã giới thiệu màn kịch mà Vanvara Nicolayepna Sitôrôva từng làm người phụ trách trong Hội đồng công nghiệp nặng, kể và đã được nhắc tới ở trên. Câu chuyện do Sitôrôva kể đã được kỹ sư L.C. Kamarốp của Nhà máy sản xuất máy kéo Sơriyabinscơ ghi âm. Kindơpao nói, Sitôrốpva yêu cầu Kamarốp chỉ ghi âm cho Kindơpao thôi, và yêu cầu không nên công khai tất cả những cái mà bà nghe được ở nhà Kinaita Ônchungnisítchơ. Sau khi Sitôrôpva qua đời Kindơpao mới cho rằng, có thể công bố cho mọi người biết bí mật mà bà quả phụ ủy viên Hội đồng nhân dân công nghiệp nặng nghe được.
Kindơpao từng làm Cục trưởng dưới quyền của Ônchungnisítchơ. Việc anh công bố tập hồi ký, buộc tôi phải chỉnh lý lại những tài liệu về cái chết của "ủy viên hội đồng nhân dân công nghiệp nặng hà khắc" trong nhiều bài tưởng niệm có liên quan mà tôi thu thập được. Chính những tin đồn về việc Sécgây bị giết hại được tung ra từ đấy! Song có tin nói là không phải tự sát, cách nói tự sát là do Khơrútsốp công khai tuyên bố trước Đại hội 20 Đảng Cộng sản Liên Xô. Rất nhiều người nghi ngờ về tin này, mặc dầu đối với đại đa số những người hiện đại bình thường cũng giống như ném một quả bom. "Tại sao Bêria bức hại cả gia đình đồng chí Ônchungnisítchơ tàn khốc như thé. Bởi vì Ônchungnisítchơ đã ngăn cản Bêria thực hiện âm mưu của y. Bêria muốn tiêu diệt tất cả những ai ngăn cản y, gạt bỏ mọi trở ngại nhằm đạt được mục đích của y. Bê-ria nói với Stalin rằng Ônchungnisítchơ hay đối lập với y. Trong tình hình Stalin chưa làm rõ vấn đề, Stalin lại thi hành những biện pháp cần thiết, đồng ý trừ khử anh trai của Ônchungnisítchơ, và còn bức bản thân Ônchungnisítchơ đến mức phải nổ súng tự sát”. Những lời nói ấy đã từng gây rối loạn về tư tưởng của chúng tôi quen kiên nhẫn làm theo các bậc cha mẹ.
Tại lễ bế mạc Đại hội lần thứ 20 Đảng cộng sản Liên Xô Khơrútsốp đã đọc cái gọi là báo cáo bí mật lúc bấy giờ. Những người trải qua phong trào thanh trừ các phần tử phản cách mạng và chiến tranh, được bảo toàn sinh mệnh vẫn còn nhớ rõ bản thông cáo của chính giới liên quan đến cái chết của Ônchungnisítchơ công bố hai mươi năm trước đây, nói rằng ông chết vì bệnh suy tim. Bản tin cáo phó đóng khung đen trên trang nhất báo "Sự thật” rất nổi bật, trong đó nội dung cáo phó của Chính phủ là: Đồng chí Gơricơli Côngstăngtinnôvích Ônchungnisítchơ, ủy viên Bộ chính trị Trung ương Đảng cộng sản Liên Xô, ủy viên Hội đồng nhân dân Công nghiệp nặng đã tạ thế vào 17 giờ 30 phút ngày 18 tháng 2 năm 1937 tại nơi ở trong Điện Kremli Mátxcơva. Ở dưới còn có một bản tin cáo phó của Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Liên Xô (b) trong đó có giải thích thêm về từ tạ thế - chết vì bệnh tim bột phát, và có mở rộng cả nội dung phô trương ông là "nhà hoạt động vĩ đại nhất của Đảng ta, Đảng viên Bônsêvích và Lêninnít nhiệt tình hăng hái, nhà lãnh đạo xây dựng kinh tê nổi tiếng của nước ta". Một tấm ảnh ghi lại thi hài của Ônchungnisítchơ nằm trên giường đứng bên cạnh là Kinaita Cáprirốpna Ônchungnisítchơ, người vợ đau khổ đến bất động cùng các bạn chiến đấu của ông Môlôtốp, Yêdốp, Stalin, Ruđannốp, Caganôvích, Micôying, Vôrôsilốp. Mãi tới gần đây không rõ ai chụp bức ảnh đó lại hoá ra em trai Môlôtốp chụp. Lúc bấy giờ không cho bất cứ ai vào bí mật của Điện Kremli được giữ rất kín.
Cái chết xảy ra vào lúc 17 giờ 30 phút ngày 18-2 đến 19-2 bức ảnh của những bạn chiến đấu, những đồng chí của ông đến chia buồn với người quả phụ đã được đặt bên cạnh linh cữu. Dù có theo quan điển của người hiện đại thì kết quả của cách làm việc ấy cũng khiến người ta kinh ngạc. Hầu như ở hậu trường có người đã ra sức làm cho dư luận xã hội tin vào cách nói của chính giới về cái chết của Ônchungnisítchơ, được cố ý đưa vào bức ảnh để từ đó chứng minh rằng mối quan hệ bình thường trước đây của người chết với các bạn bè đến thăm viếng. Rất hiểu được một số người thân của người chết chắc chắn có sự nghi ngờ đó. Nhưng sau khi báo "Sự thật" đã đăng mấy hàng về giám định y khoa trường hợp tử vong Ônchungnisítchơ, thì những nghi ngờ đó tan đi rất nhanh.
Giám định y khoa được trích ra từ trong báo chí lẽ ra phải thật công bằng. Dưới đây là bản báo cáo giám định y khoa khiến những người nghi ngờ nhất cũng phải tin. "Đồng chí Ônchungnisítchơ bị bệnh xơ cứng động mạch vành trầm trọng, cơ tim và huyết quản cũng bị xơ cứng, năm 1929 sau khi đã cắt bỏ thận trái do kết hạch, chỉ còn thận phải cũng bị lệnh lâu dài.
Mấy năm nay những cơn đau thắt tim và khó thở của đồng chí lại tái phát. Lần tái phát cuối cùng là đầu tháng 11 -1936, tình hình lúc bấy giờ rất trầm trọng.
Sáng ngày 18-2 Ônchungnisítchơ không nói là mình bị mệt. Nhưng đến 17 giờ 30 khi ông đột nhiên cảm thấy khó chịu, sau mấy phút thì trái tim ngừng đập dẫn đến tử vong".
Các chuyên gia có trách nhiệm nhất trong giới y học đã ký vào bản giám định tử thi ấy. Họ là G.Kaminski, ủy viên nhân dân bảo vệ sức khoẻ của Liên Xô; Y.Huatơrôpski, Giám đốc Sở y tế Điện Kremli; Rêwen, bác sĩ y khoa Cố vấn Sở y tế Điện Kremli và C.Mâysư bác sĩ trực ban Điện Kremli. Nhưng được ít lâu họ đều bị bắt và bị sát hại. Họ bị lên án là phạm tội khác, nhưng ai biết được rằng, nhất định phải trừ khử những nhân chứng nguy hiểm ấy, có cần phải có nguyên nhân chính đáng không?
Năm 1937, có một ám chỉ nào về cái chết của Kaminski và Ônchungnisítchơ bị bắn thì bị coi là người điên nói mê. Tại Đại hội lần thứ 20 Đảng cộng sản Liên Xô, Khơrútsốp là người đầu tiên lật đổ Stalin về cách nói Ônchungnisítchơ chết vì tim ngừng đập. Nhưng dù là trong bài diễn văn ông đọc trong buổi lễ tang của Ônchungnisítchơ lúc bấy giờ đã quy tội cái chết này cho Trôtxki, Zinôviép và bọn chân tay của bọn phái hữu phản cách mạng. Ông nói "Những người Bônsêvích Mátxcơva chúng ta cùng toàn thể Nhân dân lao động đều chửi rủa căm thù và khinh bỉ kẻ thù của Liên Xô và của giai cấp công nhân toàn thế giới - những phần tử Trôtxki phản bội, các phần tử phái hữu Zinôviép vô liêm sỉ. Bọn chúng với những hành động biến chất phản bội và những hoạt động gián điệp phá hoại, đã làm thương tổn đến trái tim vĩ đại của đồng chí. Những tên gián Piyatacốp ấy, những phần tử Trôtxki đê tiện, những tên phản cách mạng, kẻ thù của nhân dân đã bị giai cấp công nhân bắt sống ở hiện trường, một tên ác ôn bị xét xử và phán quyết, song hành vi phản cách mạng của y đã tăng nhanh cái chết của Sécgây thân yêu của chúng ta".
Môlôtốp nhắc lại bài diễn văn của Khơrútsốp, "kẻ thù của nhân dân và tất cả những người lao động nước ta, bọn phát xít xấu xa kiểu Trôtxki và phái hai mặt vô liêm sỉ khác cùng bọn phản bội làm cho sự nghiệp tư bản giẫy chết tăng nhanh, khiến cho đồng chí Ônchungnisítchơ bị đau khổ mà chúng ta đều biết, điều đó đã tăng nhanh cái chết cho Secgây của chúng ta. Đồng chí ấy đã không ngờ được rằng mặc dù đồng chí ấy đã giành cho bọn Piyatacốp rất nhiều cơ hội, song bọn chúng vẫn sa đọa, thậm chí rơi vào vũng bùn đen tối phản cách mạng. Chúng ta biết làm thế nào để trả thù cho đồng chí..." Trong buổi lễ truy điệu ngày 21 tháng 2 năm 1937, Vôrôsilốp, Bêria, Côsalép và những người khác đều có phát biểu theo tinh thần ấy.
Việc trình bầy công lao thành tích của người chết đã chiếm gần hết bài diễn văn của họ. Quả thực công lao thành tích của ông không ít, hồi tưởng lại cũng không phải là thừa. Bởi vì một số việc xẩy ra gần đây: như đã dỡ bỏ bia kỷ niệm Ônchunguisítchơ ở thành phố Tibilitsi, xoá bỏ tên Ônchungnisítchơ đã dùng làm tên thủ đô hơn nửa thế kỷ nay ở Nước Cộng hoà.
Nay trở lại tên cũ, cũng như lên án ông đến chết vẫn chưa làm rõ ông đã tận tụy làm việc cho ai. Tất cả những cái đó đã ám ảnh lên con người phi phàm ấy, đã xuyên tạc những nhận thức mâu thuẫn về ông tạo nên bi kịch. Người ta còn nhớ rõ "Sự kiện Grudia" nổi tiếng, nhớ rõ nhiệt tình của ông khi thực hiện đường lối tự trị hoá Capcadơ, đặc biệt nhớ rõ ông cương quyết ủng hộ kế hoạch hoá và tập thể hoá toàn diện. Lên án trong cách lãnh đạo kiểu mệnh lệnh chỉ huy của ông, khi phổ biến nhiệm vụ cho các giám đốc nhà máy, ông không nêu rõ căn cứ kinh tế, trong công tác thiếu nguyên tắc nghiên cứu tối thiểu và duy ý chí, vô căn cứ.
Năm 1937, B.B Phukin làm Giám đốc Nhà máy máy kéo Stalin viết một cách hồ đồ khiến người ta ngạc nhiên rằng: Những điều mà ủy viên Hội đồng nhân dân Công nghiệp nặng không hiểu tý gì về kinh tế đã làm cho tất cả các Nhà lãnh đạo và Giám đốc xí nghiệp Liên hiệp giận dữ. Có một lần Sécgây bảo một vị Giám đốc báo cáo xem một năm xí nghiệp của ông sản xuất được bao nhiêu chiếc máy. Sau khi vị Giám đốc này báo cáo xong, vị ủy viên công nghiệp nặng này hỏi "sản xuất thêm một số nữa không được à?"
- Đồng chí biết đấy, hiện nay rất khó, đại thể miễn cưỡng thì cũng có thể sản xuất thêm được 1.000 chiếc.
- Sản xuất thêm một số nữa không được à? Vị ủy viên lại lặp lại câu hỏi của mình.
- "Nên cần thiết nói chúng là có thể" viên Giám đốc trả lời.
- "Phải chăng có thể tăng thêm được 2.000 chiếc máy nữa không?"
- Tôi sẽ cố gắng, chúng tôi sẽ dốc toàn sức ra làm.
- "Thế thì chúng tôi định tăng thêm 3.000 chiếc". Vị ủy viên cười tuyên bố.
Thưa các bạn đọc thân mến, chắc các bạn cũng cười. Song xin các bạn hãy chờ một lát, bây giờ còn quá sớm. Phukin đã tham gia cuộc hội nghị quan trọng của chính phủ để thảo luận kế hoạch của Nhà máy này. Sécgây đề nghị vị Giám đốc Nhà máy ấy phát biểu trước. Vị Giám đốc đứng dậy tuyên bố.
"Theo đề nghị của đồng chí Sécgây, chúng tôi quyết định thi hành kế hoạch sản xuất thêm 3.000 chiếc".
Bây giờ thì có thể cười thoả mái được rồi. Con người ta là như thế, khi anh sắp chia tay với quá khứ, anh thường hay cười. Nhưng cần biết rằng thời kỳ khác nhau thì có quy tắc khác nhau. Phải chăng hiện nay với quan điểm của con người hiện đại, chỉ trích Ônchungnisítchơ rằng tại sao không hoài nghi mình giúp đỡ Stalin xây dựng chủ nghĩa xã hội? Quả thật hội nghị toàn thể Trung ương tháng 11 năm 1929, Sécgây đột nhiên tấn công phái hữu rằng các phát biểu của Bukharin, Ricốp và Tômski đều là những trò lừa bịp cả. Nhưng sau khi Bukharin bị trục xuất khỏi Bộ chính trị, ông lại giữ Bukharin ở lại trong Hội đồng nhân dân của ông, đồng thời đã đề bạt Piatacốp và Sêrêbriacốp, phái đối lập trước đây lên làm cấp phó. Trước đó Sécgây còn không đồng ý trục xuất Trôtxki đến Alamutu, nhưng đồng ý cho y di cư sang Thổ Nhĩ Kỳ.
Bi kịch của Sécgây là bi kịch của một thế hệ cách mạng. Trong một thời gian rất dài trước đây việc cố ý mô tả nhiều Nhà lãnh đạo chính trị trở thành anh hùng tuyệt đối không phải là sai lầm của các nhà sử học. Tuy phương cách sống kiểu điền viên không phải là của Sécgây nhưng ông và các bạn chiến đấu của ông đều đã sa vào vòng kỳ lạ theo chủ nghĩa lý tưởng. Chắc chắn về nhiều lĩnh vực ông là con người lý tưởng, nhưng là một con người rất trong sạch, ông là người theo chủ nghĩa lý tưởng hai mang. Ông tin chắc rằng tư tưởng xã hội chủ nghĩa tất nhiên sẽ giành được thắng lợi, không tin tưởng có con đường và phương pháp khác.
Tạm thời không coi những lời nói hoang đường bịa đặt rằng ông là thân tín của Stalin, chúng ta không có bất cứ một thành kiến nào mà không tìm hiểu về sinh hoạt và quá trình hoạt động của ông, theo dõi truy tìm nhiều tài liệu phong phú xuất hiện cùng với cải cách và những suy nghĩ của chúng tôi về lịch sử. Như thế chúng tôi càng hiểu được thực chất số phận bi kịch của ông hơn - đó là chúng tôi đã viết được rất nhiều, hơn nữa lại viết về chủ nghĩa anh hùng của ông ở địa vị chủ yếu. Khi kỷ niệm 50 năm ngày sinh nhật của ông, Tạp chí Thư viện Quốc gia liên hiệp với Công ty xuất bản cùng với nhà xuất bản nghệ thuật tạo hình quốc gia liên hiệp xuất bản cuốn tự truyện của ông. Cuốn tự truyện ấy được đóng rất đẹp có nhiều tranh ảnh mầu sắc được in bằng ốp xép chất lượng tốt. Trong đó mỗi một trang đều ca ngợi Stalin và các bạn chiến đấu thân thiết của ông là thiên tài, sáng suốt vĩ đại, kể cả Ônchungnisítchơ. Ông được coi là lãnh tụ, là học trò, người bạn, người yêu nước đáng tin cậy của nhân dân các dân tộc từng thời kỳ, là một trong những người lãnh đạo thiên tài của đảng và Chính phủ Liên Xô, là Đảng viên Bônsêvích kiên định nhất, nhiệt tình nhất là một trong những người lãnh đạo xuất sắc nhất của những năm tháng vĩ đại chưa từng có trong lịch sử phong trào cách mạng Nga lập nên Đảng Bônsêvích và cách mạng Xã hội chủ nghĩa tháng 10. Đúng như chúng ta đã thấy các nhà lãnh đạo của Đảng từ sau đại chiến thế giới lần thứ hai (Khơrútsốp, Brơgiênép và Chécnencô) xây dựng truyền thống để ca ngợi công lao thành tích của mình nhân dịp các ngày kỷ niệm lớn của đất nước theo chu kỳ là có nguồn gốc lịch sử rất sâu xa. Cuốn sách này sau khi Ônchungnisítchơ qua đời không biết tại sao lại khoá chặt trong tủ hồ sơ đặc biệt rõ ràng là do trong sách có nêu đích danh một số anh hùng trong chiến tranh giữ nước bị bức hại từ năm 1937 đến 1938. Tất nhiên hiện nay cuốn sách ấy đã được bỏ lệnh cấm, ai muốn xem đều được.
Toàn bộ cuốn sách đều rập theo một khuôn khổ, thậm chí không lấy ở góc độ con người bình thường, can thiệp vào đời tư của nhân vật, dù sao cũng có đôi chút thuộc về cuộc sống thời niên thiếu. Tuy cha của Sécgây thuộc về tầng lớp quý tộc ở Grudia, nhưng cha của Sécgây vẫn phải đi cầy cấy trên mảnh đất cằn cỗi vẻn vẹn mấy chục mẫu của gia đình họ chỉ đủ ăn hơn nửa năm. Thế rồi cha của vị lãnh đạo, nhà cách mạng tương lai ấy buộc phải rời khỏi làng trong những ngày nông nhàn đi vận chuyển quặng mănggan. Mẹ của Sécgây sau khi sinh mấy người con được ít lâu đã qua đời. Mẹ mất được 3 tháng thì được bà vú nuôi đem anh về nuôi. Còn cha anh đi bước nữa được ít lâu thì cũng qua đời.
Vận không may của gia đình cứ đeo đuổi cuộc đời của Sécgây cho tới sau khi ông mất. Ngay từ nhỏ Sécgây đã mất cả bố lẫn mẹ, chưa bao giờ nhận được tình thương của cha. Sécgây bị đi đầy ở Sibêri đã lấy một cô giáo ở địa phương. Họ không có con. A. Antônốp chứng thực rằng họ đã từng nuôi một cậu bé nhưng đến năm 14 tuổi bị ốm chết. Về sau Sécgây và Kinayta lại nuôi một bé gái tên là Aitơli dậy dỗ cháu ở nhà. Trước khi người cha nuôi mất không lâu thì Aitơli lấy chồng. Sau này chồng của cô đổi tên là Onchungnisítchơ.
Ban đầu Aitơli kể bí mật cho người quen. Sau này trong các trường hợp có tuyên bố cô là con đẻ của Sécgây. Cô là kết tinh của người cha sôi nổi, nhưng lại có cuộc sống ngắn ngủi. Kinayta nuôi bé gái trưởng thành, sau khi nghe những lời đó thì bà yêu cầu vợ chồng cô phải dọn đi nơi khác ở. Điều gì đã khiến cho Kinayta làm như thế? Phải chăng là hờn giận? Quả thật xét ở mức độ nào đó, sau khi Aitơli làm xong việc tang đã tìm cớ để lấy di sản của cha để lại. còn Đinaita nhận xét hành động vong ân bội nghĩa đó như thế nào?
Không phải chỉ riêng chuyện đó, mà vì nhiều chuyện khác thúc đẩy bà buộc phải cắt đứt quan hệ với cô con nuôi ấy. A. Antônốp chứng thực rằng, vợ chồng Aitơli vốn là gián điệp của Bộ dân ủy nội vụ. Stalin thông qua chúng để nắm được mọi cử chỉ hành động của Ônchungnisítchơ và bạn bè của ông. Sau khi Sécgây mất, có tin đôi vợ chồng trẻ này đã theo lệnh thu dọn và nộp lên trên tất cả bản thảo và những cuốn sách mà ông đã đánh dấu ở đó. Sau khi Kinayta biết được những hành động của vợ chồng Aitơli thì bà thẫn thờ cả người. Có tin trước khi bà mất được ít lâu, bà có viết thư cho Trung ương yêu cầu cấm Aitơli đến mộ của Sécgây. Có người suy đoán rằng, ngành do Bêria lãnh đạo đã triển khai công tác có hiệu quả, lấy biệt hiệu là con quỷ giám sát nhanh nhẹn đối với quả phụ Ônchungnisítchơ, đã ghi tất cả những nội dung mà Kinayta nói về cái chết của chồng mình.
Nhưng trước sau bà vẫn không để cho chúng nắm được đằng chuôi, để làm trái những điều bà thoả thuận với chúng trước thi hài ông chồng bà ngày 18 tháng 2 năm 1937. Vì thế ngành của Bêria để cho bà sống bình yên, không giống như những người bạn thân khác bị tai họa trong phong trào thanh trừng phản cách mạng. Dù cho sau khi Stalin mất, Kinayta vẫn giữ bí mật về nguyên nhân cái chết của chồng, mãi tới khi sắp mất mới nói ra sự thật về cái chết của chồng bà...
Gơrigôri thời nhỏ điềm đạm dễ thương, người trong làng không biết tại sao gọi cậu là Sécgây. Cậu nằm mơ cũng không nghĩ rằng sau này mình lại có kết cục như vậy. Chúng ta hãy nói về tình hình của Sécgây khi ở nhà vú nuôi. Khi cậu mới bảy tuổi, vú nuôi đưa cậu đến học ở Trường nhà dòng. Sau khi tốt nghiệp cậu vào học ở Trường đường sắt, nhưng sau một năm, do gia đình nghèo khó buộc phải trở về làng. Sau đó Simông Ônchungnisítchơ, một thày giáo cùng họ, đưa cậu đến một làng khác nuôi cậu ăn học ở một trường theo chế độ hai năm. Mùa xuân năm 1889 cậu tốt nghiệp ở trường đó. Trong cuốn sách có đóng bìa đẹp xuất bản nhân dịp chúc mừng Ônchungnisítchơ 50 năm nhân ngày sinh, kèm theo những bức ảnh quý của gia đình và các bản phô tô văn kiện, kể cả những báo cáo bí mật của cảnh sát nhưng điều kỳ lạ là trong cuốn sách lại không đề cập tới một việc sau đây, khi Sécgây vẫn còn là một học sinh ở trường theo chế độ hai năm, cậu đã bóc ảnh của Sa hoàng trên tường, rồi xé nát trước mặt mọi người, hành động đó nhằm kháng nghị nhà trường đã đuổi những học sinh con em nông dân nghèo. Mẩu chuyện tuyệt vời đó là khởi điểm của cuộc đời cách mạng của Sécgây và sau khi ông mất được xuất hiện trong các cuốn truyện của nhi đồng để kỷ niệm ông. Về sau cũng được trích dẫn vào sách cho mọi người cùng đọc. Có người hỏi nếu không có tình tiết này thì cuộc sống của Sécgây vẫn tràn đầy những sự kiện xuất sắc nhiều chiến công, tại sao lại phải thêm? Đây có lẽ là phục hồi theo truyền thống cũ chăng? Căn cứ vào những truyền thống cũ ấy, các anh hùng trước đây đều được khắc hoạ thành hình tượng thiêng liêng vĩ đại ngay từ thời niên thiếu đã bắt đầu làm nên những sự tích anh hùng.
Có văn kiện chứng thực lần đầu tiên Sécgây đi vào con đường cách mạng là lúc ông mười lăm tuổi đó là vào năm 1901, cũng là sau khi Tara - người anh họ của ông cùng với Paven Pakhavariôni, một người thân thích khác đưa ông đến Tibilitsi. Họ đưa ông đến học tập ở Trường y, thuộc Viện y khoa thành phố. Vì cậu mồ côi nên được đặc quyền mà không muốn, ở trường miễn phí. Từ 1901 đến 1902 trong thời gian học tập cậu đã tham gia vào những hoạt động của Tổ dân chủ xã hội phi pháp. Năm 1903, mười bảy tuổi vào Công đảng Dân chủ xã hội Nga. Lúc bấy giờ ông được Đảng ủy Tibilitsi ủy nhiệm lãnh đạo công tác "trung tâm học sinh" bí mật in ấn tài liệu bất hợp pháp, phân phát trong các xí nghiệp.
Tháng 12 năm 1905 lần đầu tiên ông bị bắt trong lúc đang bốc dỡ vũ khí. Không đến 6 tháng, ông đã hai lần tuyệt thực ở nhà tù Subumi; lần cuối cùng rất ngoan cường. Ai cũng lo cho sức khoẻ của chàng trai mười chín tuổi này, các bạn gom góp một số tiền lớn để bảo lãnh cho cậu ra tù. Viên giám thị cuối cùng động lòng. Cậu vừa được bảo lãnh ra khỏi nhà tù Subumi đã vội đến Tibihsi, sau đó là mít tinh rải truyền đơn họp Hội nghị tiểu tổ bí mật. Bọn mật thám hàng ngày theo dõi nên ông luôn đứng trước nguy cơ lại bị bắt. Rồi Sécgây quyết định ẩn náu ở nước ngoài. Ở Béclanh ông định vào đại học nhưng sau khi được tin từ Côcadơ về tổ chức Bônsêvích bị phá hoại, thì nhà cách mạng trẻ tuổi quyết định trở về. Ông đến giếng dầu ở Bacu làm y sĩ ở đó. Được ít lâu ông trở thành Thành viên ủy ban khôi phục thành phố Bacu. Sau đó lại bị bắt, được thả lại bị bắt.
Tháng 11 năm 1907, ông bị bắt lần thứ tư, bị giam ở nhà lao Payrốp. Chính tại nơi đây Stalin cũng bị bắt giam ở đó. Họ gặp nhau tại đây nhưng không phải lần đầu tiên. Lần trước họ gặp nhau ở hầm bí mật tại Trường trung học nữ sinh đại lộ Mikhaiirốp (sau này gọi là đại lộ Plêkhanốp) tháng 6 năm 1906. Nơi này là ban biên tập "báo thời đại" tờ báo của Đảng Bônsêvích do Stalin lãnh đạo. Cuộc gặp lần thứ hai là vào mùa xuân 1907, sau khi Sécgây ở Béclanh trở về nước. Nhưng số phận đã để hai người cùng bị giam một nhà lao.
Tháng 4 năm 1908, Sécgây ra toà ở Bacu để xét xử. Toà án ở Tilibisi cũng đặc biệt cử người đến dự. Phán quyết của tòa rất nặng - tước mọi quyền của anh và đi đầy biệt xứ ở Sibêri. Chẳng những thế mùa hè năm ấy anh bị áp giải tới Batumi xét xử về vụ vận chuyển vũ khí trái phép năm 1905, ông bị giam ở nhà lao Batumi đến tháng 9. Nhà cầm quyền lại chuyển ông đến toà án Subumi. Ở đây ông lại bị xử tù giam một năm.
Sau đó cứ vài tháng ông lại bị chuyển từ nhà giam này đến nhà giam khác, từ nhà tù này đến nhà tù khác cuối cùng bị áp giải tới bờ sông Ancara "định cư” ở một làng của tỉnh Giênisai, một vùng tận đầu thế giới Đileotaracan, có con đường nhỏ vào rừng dẫn tới 3 gian nhà hiu quạnh của nông dân. Bên trái là dinh lũy của Phicơlinia, bên phải là bãi đất hoang mới khai phá. Sau hai tháng ở nơi cư trú "vĩnh cửu " này, Sécgây đã tự tay đóng một chiếc thuyền độc mộc mạo hiểm vào nơi không có người mà dân Sibêri không dám vào. Từ nơi bùn lầy men theo một lối mòn đến một nơi không có người ở. Ông đến Bacu rất dễ dàng. Được ít lâu tổ chức bônsêvích cử ông đến Batư (Iran). Ở đó dưới ảnh hưởng cuộc cách mạng 1905 của nước Nga, đã nổ ra những hành động của đông đảo quần chúng cần lao. Sécgây tham gia hàng ngũ cách mạng chống lại nhà vua Sakhơsiêvan, Chỉ huy Binh đoàn vũ trang giúp quân khởi nghĩa ở Batư, Sécgây cùng với Lênin giữ vững mối liên hệ chặt chẽ với trung tâm Bônsêvích ở nước ngoài. Ông đã tổ chức chuyển những tác phẩm của Bônsêvích ở nước ngoài qua Batư về Nga. Ông thường xuyên liên lạc với Lênin và thường hay đọc "Báo người xã hội dân chủ" do Lênin chủ biên.
Trên tờ báo này ông đọc được một tin, nói ở Paris đang chuẩn bị mở một Trường Đảng. Ở đó các nhà cách mạng chuyên nghiệp có thể nâng cao trình độ lý luận của mình. Sau khi từ Ba tư trở về Bacu, ông chuyển đường sang Paris. Đến Paris từ ga xe lửa ông đi thẳng đến nơi ở của Lê nin. Sau này trong hồi ký của mình, Crúpcaia có viết: "Lúc bấy giờ người gác cổng vào báo cho tôi có một người đến, một chữ Pháp cũng không biết, chắc là muốn tìm đồng chí đấy". Tôi đi xuống nhìn thấy có một người Capcadơ đang vui vẻ đi về phía tôi, hoá ra là Sécgây. Từ đó đến nay, anh đã trở thành đồng chí thân thiết nhất của chúng tôi.
Sau đó Sécgây đã trở thành một học sinh dự thi tại Trường Đảng Rônruâymô gần Paris. Song việc học tập lại bị gián đoạn. Theo chỉ thị của Lênin mang theo sứ mệnh quan trọng trở về nước Nga làm công tác trù bị triệu tập Hội nghị toàn Nga. Nhưng khi Sécgây chưa rời khỏi biên giới nước Pháp, Sở cảnh sát Pêtécbua đã nắm được tin tình báo ông nhận trọng trách của Lênin trao phải trở về nước Nga. Ông bị theo dõi chặt chẽ ở Bacu. Nhưng nhiều lần ông đã thoát khỏi màng lưới bố trí tinh vi của Sở cảnh sát một cách thần kỳ và đã hoàn thành được nhiệm vụ mà Lênin giao cho. Sau khi trở về Paris ông đã báo cáo lại với Lênin. Hội nghị Đảng họp ở Praha là kết quả của công tác căng thẳng nhất. Là đại biểu của tổ chức Bônsêvích ở Tilibisi. Sécgây đã tham gia Hội nghị này. Ông đã báo cáo tỉ mỉ về công tác của ủy ban tổ chức Nga tại cuộc Hội nghị lần này.
Khi ông từ Praha trở về Pêtécbua ông đã trở thành ủy viên Trung ương Đảng. Ở Vôrôcôta ông đã đến chào Stalin đang bị đi đầy ở đó. Thông báo với ông tin về việc thành lập Cục Trung ương lãnh đạo công tác ở Nga, các thành viên gồm có Stalin, Sécgây, Sútvantaniăng. Sau khi Stalin và Sécgây rời khỏi nơi đi đầy đã đến Bacu trước, rồi đến Tilibisi, Sécgây lúc bấy giờ được nhiều người chú ý. Mọi người đều muốn hiểu được tinh thần của hội nghị qua Sécgây là người đã tham dự Hội nghị Praha. Sau khi báo cáo đầy đủ, Sécgây trở về Pêtécbua.
Ở Pêtécbua ông không may lại bị bắt qua sáu tháng dự thẩm, toà án Pêtécbua lên án ông bỏ trốn ở nơi bị lưu đầy, tiến hành những hoạt động trái pháp luật nên bị kết án ba năm khổ sai, sau đó đưa đi đầy vĩnh viễn. Ở toà án ông đã phải đeo cùm xích. Ông phải đến làm khổ sai ở Sơluydơpao, sau đó bị đi đầy ở Iếccút.
Cuộc cách mạng tháng 2 đã giải thoát cho ông và mọi người đi đầy. Tháng 6 năm 1917 ông đi xe hoả đến Pêtécbua. Lênin đề nghị ông công tác ở ủy ban Bônsêvích ở Pêtécbua và ủy ban chấp hành Xô Viết. Tháng 7, chính lúc bọn phản cách mạng hung hăng hoạt động ráo riết, Lênin chuyển hướng vào bí mật, Sécgây đã hai lần đến Radơrisp thăm ông. Tại đây Hội nghị Đại biểu lần thứ 6 của đảng, Sécgây đã đọc báo cáo khiến mọi người đặc biệt phấn chấn. Ngày thứ hai sau thắng lợi Cách mạng Tháng 10 ông đã tổ chức và tham gia hoạt động của Quân đoàn Côdắc chống lại tướng Cơrátnốp ở Phuncốp.
Sécgây đã trải qua 3 năm ở mặt trận nội chiến. Lênin cử ông tới Ucraina miền Nam nước Nga và ngoại Cápcadơ và Trung Á. Căn cứ vào giấy ủy nhiệm mà Lênin ký, tất cả các hội đồng nhân dân đại biểu Xô Viết công nông binh, Hội đồng quân sự cách mạng và bộ tư lệnh cách mạng đều phải dưới sự lãnh đạo của Sécgây, đại biểu chính quyền Xô Viết Trung ương, và phái viên đặc biệt. Phạm vi lãnh thổ và quyền hạn mà ông chịu trách nhiệm rất lớn. Ông là thành viên của Hội đồng quân sự cách mạng bao gồm nhiều Tập đoàn quân và phương diện quân, là chủ tịch Hội đồng quân sự cách mạng, nhà lãnh đạo Trung ương cục, người đứng đầu ủy ban đặc biệt về vấn đề chính trị, quân sự và tổ chức đảng vụ.
Song Sécgây cũng không phải là bách chiến bách thắng. Ở quân đoàn thứ 11, chủ lực Hồng quân ở Bắc Cápcadơ đã gặp khó khăn mang tính chất bi kịch quân đoàn thứ 11 là do Sécgây sáng lập ra. Tháng 12 năm 1918, Đenikin dưới sự ủng hộ của bộ đội Côdắc ở Cuban đã chặn đứng quân đoàn 11 ở Prađicápcadơ. Bộ đội cắt đứt quan hệ với nước Nga Xô Viết. Đạn đại bác và đạn các loại đều đã bắn hết, bệnh thương hàn đã cướp đi nhiều sinh mạng của các chiến sĩ, thuốc men và lương thực cũng sắp cạn kiệt. Trải qua bảy ngày cầm cự, bộ đội chống cự không nổi bắt đầu chạy tán loạn. Số bộ đội còn lại bị dồn tới vùng sa mạc Atstara thiếu nước. Sécgây chỉ huy một phân đội nhỏ buộc phải vượt qua dẫy núi Incúts. Lúc này là mùa Đông đã đến, gió Bắc thổi lạnh thấu xương, nhiệt độ âm 200C. Đường núi bị đóng băng dầy đặc, đi lại rất nguy hiểm khó khăn.
Cuốn tự truyện xuất bản nhân dịp 50 năm ngày sinh của Sécgây có mô tả đoạn đường công tác như sau: Đêm 11 tháng 2, một đơn vị bộ đội khoảng 40 người xuất phát từ Mudơchi. Sécgây, Bâyta Kanmâycốp và Siđi Anchưanốp đi trước đoàn quân, Anchưanốp là người Incútsai. Sau cánh mạng giai cấp vô sản đã trở thành người bảo vệ cách mạng ở dẫy núi Cápcadơ. Đoàn quân men theo chân núi Asinốp. Đoạn đường đầy băng tuyết càng đi càng dốc. Trời tối đen, gió thổi mạnh. Người dẫn đường tay cầm đuốc giơ cao, để mọi người đi theo. Bọn bạch phỉ xuất hiện bất cứ lúc nào. Sécgây và mấy đồng chí khác thay phiên nhau bế một bé gái mới sinh được 5 tháng, con gái vị chủ tịch ủy ban thanh trừng phản cách mạng bên bờ sông Chiarê. Kanmâycốp xé vạt áo bông của mình để bọc cho cháu bé, rồi lấy khăn quấn vào cho cháu. Mẹ của cháu bé cùng Kinayta tiếp tục bò theo. Hình ảnh Kinayta không rời khỏi tâm trí người chồng, bà đã phải chịu bao nỗi cực khổ khó khăn cùng chống tham gia chiến đấu. Bỗng Sécgây phát hiện trong túi mình còn sót lại một mẩu sôcôla. Khi nghỉ anh lấy cốc nước hoà tan mẩu sôcôla để cho bé ăn. Dưới sự chăm sóc của mọi người, đứa bé vẫn sống một cách kỳ tích. Khi lên dốc cao, Kanmâycốp bế cháu bé ngã từ trên lưng ngựa xuống. May sao anh phản ứng rất nhanh nên đứa bé và anh đều được an toàn. Đây không phải là chuyện bịa đặt, mà là có thật.
Đường ra mặt trận lại càng gian nan vất vả, vừa có cầu treo nguy hiểm, lại có nhiều đường đèo núi vòng vèo rất khó đi. Đội ngũ mỗi ngày một hao mòn, người thì ốm nằm lại ở nhà sàn ven những núi rất ít người qua lại. Đường đèo núi hiểm trở khó qua, nên ý định tới Grudia không thành. Họ buộc phải ẩn náu ở dẫy núi Incút đến đầu mùa hạ. Lúc này băng tuyết vẫn chưa tan. Mãi tới đầu tháng 6 năm 1919 Sécgây mới bí mật trở về Tibilisi một cách khó khăn. Rồi chuẩn bị đi Mátxcơva theo đường Bacu do từ Bacu đến Mátxcơva chỉ có một đường, hơn nữa lại phải đi qua vùng ngoại vi Côcadơ bị bọn phản cách mạng khống chế và biển Lý Hải do người Anh kiểm soát. Đảng bônsêvích ở Bacu do Micoyăng lãnh đạo đã cung cấp thuyền để Sécgây đi đường thủy.
Đêm khuya Sécgây, Kinayta, Chia Paristchơ và một số người khác đóng một bè gỗ to rời Bacu ra biển Lý Hải. Mười ba ngày hành trình liên tục dưới trời oi bức khó chịu, mọi người đều sống trong cảnh đói khát, hơn nữa lại phải luôn đối phó với chiến hạm của bọn bạch phỉ. Hai mươi sáu chính trị viên của Bacu không may đã phải rơi vào tay bọn chúng. Sáng sớm hôm đó chiếc bè gỗ đã đến được gần vùng Crátnôvôsưkhơ để tránh đi qua mặt người Anh, chiếc bè phải chuyển về phía biển theo hướng Attrakhan. Trên đường lương thực đã hết, nhưng khó khăn nhất là nước uống. Nước ngọt trên bè đã hết, cuối cùng họ cũng tới được Attcakhan. Ở đó lần đầu tiên, ông được gặp Kirốp, hai người đã kết nên tình bạn thân thiết. Trong những năm tháng cùng hoạt động mối tình đó không bao giờ phai nhạt. Nơi ở của Sécgây tại Điện Kremli có dành một phòng riêng cho Kirốp. Mỗi lần Kirốp đến Mátxcơva đều nghỉ tại đây.
Trong cuộc sống của hai con người này có rất nhiều điểm giống nhau. Họ cùng xây dựng chính quyên Xô viết ở ngoài Capcadơ. Cả hai người đều chết một cách thần bí, mộ của hai người đều xếp cùng hàng ở chân tường đỏ của Điện Kremli, đây là số phận quyết định hay là do người ta cố ý sắp xếp. Một số tin gần đây khiến mọi người lo âu. Mùa hè năm 1990 bức tượng của họ ở quảng trường Tibilitsi bị người ta dỡ bỏ trong những tiếng công kích độc ác công khai. Còn ngày 25 tháng 2 năm 1921, cũng chính ngày nay là cờ đỏ của chính quyền Xô Viết phấp phới bay trên bầu trời Tibilisi thì công nhân nông dân khởi nghĩa của Grudia (cha mẹ và ông bà của phái dân chủ hiện nay) vui mừng nhẩy múa hoan nghênh vị Thống soái Hồng quân với tư cách đến giúp đỡ quê hương anh hùng của họ. Biết bao thế hệ Cápcadơ từ đáy lòng đều khâm phục Sécgây, còn những người hiện đại thì chỉ say đắm vào việc truy tìm nguồn gốc ông được thăng quan tiến chức trong bậc thang của tập đoàn quyết sách của đảng và nhà nước như thế nào. Ông đã từng đảm nhiệm các chức vụ chủ tịch ban giám sát Trung ương đảng Cộng sản Liên Xô (b), Phó Chủ tịch ủy ban nhân dân Liên Xô và ủy ban nhân dân kiểm tra công nông, Chủ tịch ủy ban kinh tế quốc dân tối cao, mãi tới sau này khi cái tổ ủy ban kinh tế Quốc dân tối cao ông đảm nhiệm ủy viên Hội đồng nhân dân Công nghiệp nặng. Từ dãy núi Uran đến dãy núi Bắc cực và dãy núi Capcadơ, từ duyên hải Adốp đến tất cả các công trình kiến trúc Nhà máy tài nguyên dưới đất và rừng sâu của khu vực hồ Baican rộng lớn đều thuộc quyền ông lãnh đạo. Nhưng đến nay những công lao thành tích không thể xoá nhoà ấy, thì nay đang bị gạch bỏ, chỉ vì tuyên truyền rùm beng những thiếu sót của ông. Dứt khoát quên hết những nghị lực ngoan cường hơn người của ông, tài năng tổ chức xuất sắc, tính tình thẳng thắn và tinh thần kiên định của ông. Nhân thể xin nêu một ý kiến, một chuyên gia Mỹ đã công tác 5 năm ở Tiniabô không hề giấu giếm tình cảm và sự khâm phục của mình đối với vị bác sĩ nắm công tác kinh tế cả nước ấy. Ông nói, "khả năng giải quyết chi tiết công việc và khả năng giải quyết phần lớn các vấn đề mới của ông thực hiếm thấy".
Trước đây thì tâng bốc ca ngợi ầm ĩ, nay thì đả kích và bôi nhọ nói xấu. Ít lâu nay ông được coi là lãnh tụ giành được hàng trăm thành tựu kinh tế vĩ đại, nhà xây dựng khu công nghiệp mới tài ba, nhà sáng lập công nghiệp luyện kim và công nghiệp hàng không. Sau này Iurian C. Mennốp, khi nói tới "Cuộc triển lãm thành tựu của chúng ta" do Sécgây tổ chức ở Viện bảo tàng Mỹ thuật tổng hợp trước Đại hội 18 Đảng cộng sản Liên xô rằng, những người sáng tạo chân chính ra thành tựu ấy, là những cán bộ cấp phó của ông, cũng chính là số người bị bắt trong những năm ấy. Các bạn trước đây có đọc kết luận trong bài của A. Aurốp sẽ có phản ứng gì? Bởi vì căn cứ vào kết luận ấy, việc Sécgây ra sức bảo vệ tính mạng của người bạn chiến đấu thân thiết của mình, thuần tuý chỉ là xuất phát từ ý nghĩ thực dụng, vì ông chỉ trải qua lớp học y sĩ, nếu không có sự hỗ trợ của Phiyatacốp, thì ông không thể lãnh đạo được công nghiệp. Aurốp viết, các nhà hoạt động và lãnh đạo đảng các cấp Xã hội chủ nghĩa đều hiểu rất rõ người lãnh đạo thật sự về công nghiệp hoá và công nghiệp nặng là Phiyatacốp. Còn Sécgây cũng hiểu rõ điều đó "Đồng chí cần tôi làm việc gì?". Sécgây hầu như đã từng hỏi Phiyatacốp "Đồng chí biết đấy tôi vừa không phải là kỹ sư, lại không phải là chuyên gia kinh tế. Nếu đồng chí cho rằng hạng mục này hay thì tôi sẽ giơ hai tay tán thành, và sẽ cùng với đồng chí tranh thủ ý kiến mọi người tại Hội nghị Bộ chính trị".
Iuri Phiyatacốp chắc chắn là một người được trời phú cho nhất trong đảng bônsêvích. Khi cách mạng tháng 10 kết thúc, tuy ông mới có 27 tuổi, nhưng đã làm công tác cách mạng 12 năm. Còn như Lênin đánh giá cao Phiyatacốp như thế nào, trong Di chúc của người có nhắc đến thì có thể rõ. Bởi vì trong di chúc của Lênin tất cả chỉ nêu sáu nhà hoạt động đảng nổi tiếng nhất. Phiyatacốp và Bukharin đều là những người trẻ tuổi ưu tú nhất, còn Phiyatacốp vẫn là 1 con người có ý chí siêu phàm và khả năng hơn người, một cán bộ lãnh đạo hành chính rất có tinh thần trách nhiệm.
Sau cách mạng tháng 10, Phiyatacốp từng làm ủy viên chính trị thống đốc ngân hàng quốc gia, chủ tịch đầu tiên của ủy ban nhân dân Ucraina, từng lãnh đạo ủy ban kinh tế Trung ương. Năm 1931 Stalin bổ nhiệm ông làm chức Phó trong ủy ban nhân dân công nghiệp nặng. Do Stalin chưa quên vào những năm giữa thập kỷ 20, ông từng tham gia phe Trôtxki cho nên không dám để ông làm chức trưởng. Aurốp rất hiểu Phiyatacốp, ông xứng đáng là người xuất sắc của nước Nga. Bề ngoài ông giống như người anh họ Tây Ban Nha của ông. Ông vừa cao lại gầy, râu mầu hung nhạt, mặc bộ âu phục ống tay ngắn. Do làm việc nhiều thiếu chất dinh dưỡng nên người ông gầy, da xanh tái. Ông không có cuộc sống riêng tư và không thuộc về bản thân. Trước ba giờ sáng ông chưa rời khỏi văn phòng. Công việc của ông đầy ắp. Một tuần có đến mấy ngày không kịp ăn cơm trưa. Sở dĩ chúng tôi quan tâm đến Phiyatacốp và sinh hoạt của ông là vì nghiên cứu mới nhất cho thấy vì cái chết bí hiểm của Sécgây có quan hệ mật thiết tới mấy ngày cuối cùng của vị cán bộ cấp phó thứ nhất bị bắt. Xin nói thêm cách nói của Khơrútsốp 30 năm trước đây đã công khai tuyên bố là Sécgây tự sát vẫn im hơi lặng tiếng thì nay có người ủng hộ. Iu Karapuhuốc là một trong những người đó. Tờ Tạp chí "Quân cận vệ thanh niên" của ông đầu năm 1991 đã suy đoán về cái chết của Sécgây.
Nội dung của bài báo suy đoán là Sécgây cuối cùng đã tự sát. Vị học giả trẻ tuổi ấy có sự suy đoán như vậy là do sau khi thật sự nghiên cứu số phận sau cuộc chiến ở Vantơ Sơrêpiacơ. Đúng, tên Vantơ Sơrêpiacơ là Cục trưởng cục 6 tổng Bộ an ninh đế quốc phát xít Đức. Sau thất bại của bọn Đức quốc xã không lâu, y bị mọi người nhận mặt, bị bắt giam trong nhà tù với Gơrin ở Niurenbua một thời gian. Lúc bấy giờ y chỉ phó thác mặc trời, nhưng bỗng được đặc xá, Vantơ Sơrêpiacơ được thả, tùy ý đi đâu cũng được. Thế là tên đầu sỏ của phòng bảo an đối ngoại ấy của phát xít Đức được đàng hoàng cư trú ở phòng khám bệnh nổi tiếng của nước Ý. Y có thể tiếp phóng viên, viết hồi ký và tiêu tiền thoải mái. Bẩy năm sau chiến tranh, tức 1952 y chết về bệnh ung thư.
Song bỗng nhiên có bệnh đặc xá này? Tại sao sau chiến tranh tên Sơrêpiacơ không bị xét hỏi như những tên tội phạm chiến tranh khác? Tại sao Chính phủ Liên Xô không hề có biện pháp nào phán xét những tên lãnh đạo chủ yếu của Đức quốc xã. Câu trả lời của Carapunhuốc rất đơn giản, Vantơ Sơrêpiacơ đối với chúng ta chắc chắn đã giúp đỡ rất lớn về mặt nào đó. Những mặt nào hả? Vào thời gian nào hả? Trong thời kỳ chiến tranh thì tuyệt đối không thể có, bởi vì tình thế của Liên Xô và Đức lúc bấy giờ đều rất nguy cấp. Nên chỉ có trước chiến tranh thôi. Vậy thì trước khi đánh nhau với Đức, Sơrêpiacơ giúp đỡ chúng ta như thế nào? Vị học giả trẻ tuổi Carahuốc viết: Có thể là từ năm 1933 đến 1934 có một đường dây tình báo tuyệt mật do cơ quan tình báo Đức (được Sơrêpiacơ lãnh đạo) cơ quan tình báo Anh và cơ quan tình báo Liên Xô trong hệ thống Bêria (được Bêria, Stalin và Minrơnski lãnh đạo) tạo nên. Thông qua đường dây tình báo ấy, những người hoạt động bí mật phản cách mạng có liên quan đến Trôtxki tiến hành những hoạt động tình báo ở trong và ngoài Liên Xô đều có thể chuyển tới phía bên Stalin, sau đó truyền tới Tổng cục bảo vệ An ninh chính trị Quốc gia của ủy ban nhân dân Liên Xô, để bắt và chuyển giao cho cơ quan Tư pháp.
Sau khi Minrơnski chết, trạm cuối cùng của đường dây tình báo ấy còn lại một mình Stalin, Iu Carapuhuốc nhận định, những năm 30 chính nhờ có đường dây ấy mới đập tan được những hoạt động phản cách mạng bí mật của Trôtxki ở Liên xô. Vụ án Tukhasiépki có thể chứng minh đường dây tình báo này đã tồn tại. Khi bọn theo đuổi Trôtxki đang chuẩn bị thực thi kế hoạch của mình thì đã đặt cược toàn bộ cuộc đời mình vào Tukhasiépski. Tukhasiépski xuất thân từ một gia đình quý tộc. Y gần như tin tưởng rằng Stalin không có cách nào làm cho đất nước thoát khỏi vũng bùn của sự biến cách, hơn nữa sẽ xẩy ra những sự việc đáng sợ nhất. Đó là nước Nga sẽ ở vào tình trạng bị nô dịch khốn khổ hơn mấy trăm năm bị Mông Cổ chiếm đóng. Y nhận xét đường dây của Trôtxki là tuyệt đối chính xác, cần phải quay lại xã hội tư bản, chỉ có đợi sau khi giai cấp công nhân giành được thắng lợi ở mấy nước Tư bản phát triển nước Nga mới có cuộc cách mạng Xã hội chủ nghĩa mới. Do phát xít phát triển ở châu Âu nên tình thế nước ta trở nên rất khó khăn.
Thế rồi Tukhasiepski cùng với bọn tay chân của mình đã giao động (trừ Primacôp ra, trong đó chẳng thiếu người xuất thân từ gia đình công nhân và nông dân nghèo khổ). Đúng, phải cứu nước Nga, thà để cho nó không phải là Xã hội chủ nghĩa, cũng phải làm cho nó thoát khỏi ách thống trị theo chế độ nô lệ của nước ngoài.
Sau khi hiểu được âm mưu ấy, bằng đường dây tình báo bí mật, Stalin hiểu rất rõ cần phải giữ bí mật cho Sơtêpiacơ, rồi qua đường dây "công khai” gửi chỉ thị cho chủ tịch bộ dân ủy nội vụ, yêu cầu nghiên cứu tài liệu về chuyên án Tukhasiépski. Sau khi vị Chủ tịch này nghiên cứu các tài liệu mới nhất của chuyên án đã mua tài liệu ấy với giá ba triệu rúp từ trong tay cơ quan tình báo Đức. Không ai biết được đường giây bí mật, còn tài liệu chuyên án công khai bịa đặt có liên quan Tukhasiépski là để lừa dối những người thực thà. Thế rồi Carapuhuốc rút ra kết luận là nguyên nhân Chính phủ Liên Xô không động đến Sơrêpiagơ mà để cho y sống những năm cuối đời ở Ý.
Sau đó căn cứ vào tưởng tượng của mình, tác giả phác hoạ ra đường dây chính của sự kiện năm 1936 - 1937 mà anh cho là rất hợp với lôgích. Chính lúc bấy giờ cơ quan dân ủy nội vụ đã thu được tin tình báo của những phần tử Trôtxki đủ mọi mầu sắc tiến hành những hoạt động phản cách mạng. Thế rồi lại xuất hiện màn sau - thông qua đường dây bí mật của hệ thống Bêria, Stalin đã thu được tin tình báo về hoạt động bí mật phản cách mạng của các phần tử Trôtxki. Tháng 12 năm 1936 chuẩn bị họp Hội nghị bí mật toàn thể Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Liên Xô (b) (tác giả xin nói thêm, trong văn kiện công khai không có tài liệu về cuộc Hội nghị này. Tiếp theo là ráo riết tiến hành điều tra các hoạt động của Bukharin, Licốp và những người khác. Từ ngày 23 tháng 2 đến ngày 6 tháng 3 năm 1937 có kế hoạch Hội nghị toàn thể Trung ương Đảng cộng sản Liên Xô (b) lần nữa để thảo luận vấn đề để hoạt động phản cách mạng của Bukharin và Licốp.
Còn Sécgây? Carabuhuốc khẳng định, Sécgây tự sát ngày 18 tháng 2 năm 1937. Chính những lời nói gay gắt quá đáng của Stalin đã buộc ông phải tự sát. Carabuhuốc thận trọng suy diễn, Stalin chỉ trích Sécgây không biết chọn lựa cán bộ, bởi vì căn cứ vào những tài liệu mà cơ quan tình báo Liên Xô nắm được, những cán bộ mà Sécgây lựa chọn không phải là phần tử Trôtxki thì là những kẻ có liên quan tới những hoạt động phản bội phạm tội của Trôtxki.
Carabuhuốc trong sách có viết "Tin tình báo này đối với Séc gây là đáng sợ, thậm chí có thể một đòn mạnh. Sau khi Stalin thông báo tin tình báo này cho Sécgây, thì ông hoàn toàn nhận sự thực với Stalin, thừa nhận ở trong nước có những kẻ hoạt động bí mật phản cách mạng trong những phần tử Trôtxki mà trong đó, sự thực đáng sợ là có người do Sécgây giới thiệu cho đảng và nhân dân Liên Xô. Lương tâm đảng viên cộng sản buộc Sécgây quyết định tự sát..."
Kết luận mà Carabuhuốc rút ra được ngoài dự đoán của mọi người. Có đúng thực như thế không? Yăng Kamaních cũng giải thích nguyên nhân tự sát như thế (Kamaních 1894-1937, nhà hoạt động trong quốc vụ Liên Xô, năm 1927 là ủy viên Trung ương, ủy ban chấp hành Trung ương toàn Nga và ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Liên Xô). Phần nhiều là do ông đã tham dự vào cái âm mưu của quân nhân, ông hiểu rõ sau khi âm mưu của ông bị lộ, thì số phận của Tukhasépski đang đợi ông. Kamaních không muốn sống, mà bị làm nhục và bị khinh bỉ nên đã tự sát. Carabuhuốc trong sách có viết, M. Thuamutski và các nhà lãnh đạo cấp cao khác cũng do những hoạt động phản cách mạng bị vạch trần, nên đã tự sát.
Bây giờ, trước hết hãy nói về Sécgây mà chúng ta quan tâm, Carabuhuốc nhận định rằng, Sau khi Sécgây biết được sự thực đáng sợ người phụ tá thân thiết của mình tham dự vào những hoạt động phản bội gây nhiều tội ác của phần tử Trôtxki đã tự sát. Từ lâu chúng ta đã biết, người đã bị bắt có Yuri Piyatacốp giữ chức phó thứ nhất của ông. Đứa con trai 10 tuổi và vợ của của Nga nay lại không bị bắt. Yuri và vợ quan hệ lạnh nhạt, trước đó hai người đã sống ly thân. Mối ràng buộc duy nhất của họ là đứa con trai. Các nhân viên coi nhà lao, sau khi hiểu được tình hình đó đã quyết định lợi dụng điểm ấy. Họ biết rằng những lời người thân thiết của bị cáo nơi có hiệu lực nhất. Tình cảnh vợ con bị cáo trong vụ án "Trôtxki - Zinôviép trung tâm khủng bố đồng thời bị xử tử hình đã hiện lên trước mặt vợ Phiatacốp. Nỗi lo sợ về số phận đứa con trai duy nhất bao trùm lên bà. Để bảo toàn tính mệnh cho đứa con trai bà đã đồng ý khai tất cả những lời không có lợi cho chồng. Song sự đả kích ấy cũng không thể đánh gục được Phiatacốp. Ý chí kiên định, đầu óc tỉnh táo ông không hề sợ hãi. Mặc dầu thể xác ông bị suy sụp trong thời gian ngắn, nhưng tinh thần ông vẫn vững vàng. Còn rất nhiều người lòng son dạ sắt như Sưmênôp và Murachicốpki, sau khi nghe thấy những lời cung khai của vợ mình thì không chịu được”.
Về việc Phiatacốp thừa nhận một cách trái lương tâm là đã tham gia vào những hoạt động gián điệp phá hoại, Carapuhuốc chỉ trình bày bằng mấy câu đơn giản "Stalin đã bàn giao đầy đủ cho Sécgây, nếu Phiatacốp và bạn chiến đấu của ông tự nguyện vạch trần cương lĩnh của chủ nghĩa Trôtxki hiện đại, giúp đỡ đất nước chống chủ nghĩa phát xít nên họ được miễn chết, vì đảng họ hy sinh chức vụ và quyền lợi của mình làm việc trong biệt thự viết hồi ký”.
Phiyatacốp đồng ý “tiếp tục làm việc cho đảng”. Tất cả những đảng viên cộng sản có quan hệ mật thiết với Sécgây bị tố cáo đã tham gia các hoạt động gián điệp và phá hoại sau bảy tiếng đồng hồ kết thúc xét xử, đều bị xử bắn.
Từ A. Aucốp chúng tôi còn biết được tình hình chi tiết dưới đây. Phiatacốp bị bắt tháng 9-1936, ban đầu thậm chí còn cự tuyệt nói chuyện với nhân viên điều tra. Nhưng tháng 1-1937, trước toà án ở hội trường của toà nhà liên minh cách mạng tháng 10 lại nhận mình phạm tội hoạt động phá hoại. Những việc ấy đã xẩy ra sau khi Sécgây mấy lần đến bộ dân ủy nội vụ và gặp Phiatacốp bị giam trong nhà lao. Cuộc gặp lần đầu tiên là theo lệnh của Aglanốp, Phiyatacốp bị đưa đến văn phòng của Yênốp vị cán bộ cấp phó. Lúc này Sécgây vội đến ôm hôn anh, nhưng Phiatacốp vội co người lại và chìa tay ra.
"Iuri! Với tư cách là bạn bè tôi đến thăm anh". Sécgây nói: "Vì anh đã trải qua một cuộc chiến đấu, hơn nữa tôi sẽ tranh đấu cho anh, tôi đã nói tình hình của anh với ông ấy (Stalin)...".
Tiếp theo Sécgây đề nghị Agranốp cho phép ông và Phiyatacốp ngồi với nhau. Hai người ngồi đối diện nói chuyện với nhau.
Dưới áp lực của Stalin, Sécgây bề ngoài tỏ ra vui vẻ với Phiyatacốp hay ông thực lòng? Thiết nghĩ đây là một câu mãi mãi không trả lời được. Tuy Aurốp không hề nghi ngờ sự thành thật và đạo đức của Sécgây, nhưng có thể Stalin yêu cầu Sécgây nghe theo chỉ huy để giải quyết các vấn đề trọng đại của đất nước. Song không chắc là có thể bức ông đóng vai kẻ tiểu nhân hèn hạ. Ngoài ra bản thân Sécgây có thể cũng không ý thức được mình đã đóng cái vai không hay ho như thế.
Dù sao mấy ngày sau cuộc gặp lần đầu, Sécgây lại đến toà nhà của bộ dân ủy nội vụ và nói chuyện riêng với Phiyatacốp. Khi chia tay, Sécgây đã truyền đạt một chỉ thị của Stalin cho Agranốp trước mặt Phiyatacốp. Không cho vợ và Môtskhalép thư ký riêng của Phiyatacốp dự phiên toà sắp tới, thậm chí không cho người làm chứng ra toà. Rất dễ hiểu Sécgây đề nghị Phiyatacốp nhượng bộ Stalin, tham dự phiên toà xét xử giả tất nhiên với tư cách bị cáo. Nhưng đối với Aurốp, đúng như ông đã viết, ông luôn thân chinh bảo vệ Phiyatacốp chứ không tin Phiyatacốp bị tử hình.
Phiyatacốp có tin Sécgây không, Aurốp thì tin Phiyatacốp biết rằng Sécgây không phải là gian dối xảo quyệt, ông tin vào tình bạn, ông đã không giúp đỡ Phiyatacốp nên không thể lãnh đạo công nghiệp. Sécgây công khai thừa nhận công lao thành tích của Phiyatacốp trong việc thực hiện kế hoạch 5 năm xây dựng kinh tế. Phiyatacốp cũng hoàn toàn có lý, do tin tưởng ông vì ông là đồng hương, bạn chiến đấu thân thiết của Stalin, hơn nữa trong Bộ chính trị là người có ảnh hưởng nhất đối với Stalin.
Tóm lại sau hai lần Phiyatacốp gặp Sécgây, ông đã ký vào bản nhận tội trái với lương tâm mình. Ông thừa nhận lợi dụng chuyến đi Béclin đã viết cho Trôxki một bức thư ở Nauy lúc bấy giờ. Phiyatacốp hầu như đã thỉnh thị Trốtxki giúp đỡ tài chính cho bọn có âm mưu chống Liên Xô. Sau đó ông thừa nhận đã được thư trả lời của Trôtxki. Thông báo cho ông biết, Trôtxki đã thoả thuận với Đức quốc xã một bản hiệp nghị, theo bản hiệp nghị này, người Đức sẽ khai chiến với Liên Xô, để giúp Trôtxki giành lại quyền lực ở Liên Xô. Với việc ký kết bản hiệp nghị này, trong thư gửi cho Phiyatacốp. Trôtxki yêu cầu ông tăng cường những hoạt động phá hoại bí mật chống Liên Xô trong lĩnh vực công nghiệp.
Tại hội nghị ở Điện Kremli, sau khi nghe xong bản báo cáo nhận tội của Phiyatacốp, Stalin hỏi Chỉ thị của Trôtxki gửi tay cho Phiyatacốp đã ghi trong bản khởi tố không tốt hơn gửi bưu điện hay sao? Thế rồi lại xẩy ra một chuyện Phiyatacốp bay tới Nauy gặp Trôtxki, nhà cầm quyền Đức đã chủ động cho chuyên cơ đón Phiyatacốp chứ không phải máy bay dân dụng. Giấy nhận tội về thông tin cho Trôtxki có chữ ký của Phiyatacốp đã được sao làm nhiều bản. Thế rồi lại có một cách nói mới: Trung tuần tháng 12 năm 1935 Phiyatacốp xuống máy bay ở sân bay Ôtslô, sau khi được chính giới kiểm tra giấy tờ thì đi ô tô đến nơi ở của Trôtxki và hai người đàm thoại trực tiếp. Họ đã thảo luận kế hoạch dựa vào lưỡi lê của người Đức, để lật đổ chính quyền Stalin.
Rút kinh nghiệm bài học đau đớn nhắc tới trong quá trình thẩm vấn ở khách sạn "Buritstôn" thực tế không có, các nhà tổ chức vụ án mới nghiêm trang cảnh cáo Phiyatacốp không nên nói quá nhiều về chi tiết, ông hà tất phải báo cáo đến Nauy với danh nghĩa nào. Nhận được visa nhập cảnh như thế nào. Dù như thế cũng không tránh khỏi xảy ra chuyện cười quốc tế. Sau hai ngày Phiyatacốp tường trình trước toà án cũng tức là ngày 25 tháng 1 năm 1937, tờ "Bưu điện buổi tối” của Nauy đã đăng một bài ngắn với đầu đề "cuộc gặp gỡ của Phiyatacốp với Trôtxki ở Ôtslô là hoàn toàn bịa đặt, bài báo nêu rõ, các nhân viên công tác ở sân bay Ôtslô quả quyết phủ nhận tháng 12 năm 1935 không có bất cứ một