← Quay lại trang sách

- IV -

Ông Giáo sư đang ngủ khi ông Beaupere đến nơi tạm giam tìm ông.

- Họ đi tìm ông đấy! Ông được thừa kế gia tài của Rockefeller rồi!

Một người bạn tù đã hét vào tai ông khi thấy nhân viên của bộ phận “điều tra quyền lợi các gia đình” tới nơi.

Ông già nhìn viên thanh tra không ngạc nhiên, không sợ hãi nhưng cái đó không có nghĩa là ông biết người bắt giữ ông đêm hôm qua là ai. Ông tìm giày, cái này rất quan trọng vì ở đây giữa người với người là giày dép.

Ông đã tìm thấy chúng và đi vào chân mà không hiểu tại sao người ta đã tống mình vào cái thế giới xa lạ này.

Không hỏi là sẽ đi tới đâu, ông cứ lẽo đẽo đi theo viên cảnh sát bi thảm này. Khi đi qua trạm gác, ông phải ký vào một cuốn sổ và nhắm mắt lại vì ánh sáng mặt trời.

Lên khỏi tầng hầm, ông Beaupere muốn đi dạo một vòng quanh Sở Cảnh sát nhưng ngại rằng kẻ lang thang không muốn như vậy. Hình như ông già bị chóng mặt, đi không vững nữa.

- Đói à?

Trong điều kiện của mình hiện nay, ông già không dám trả lời là không, nhưng viên thanh tra đã hiểu vì đáng nhẽ đi thẳng về Sở thì ông ta lại rẽ vào một quán ăn trên Quảng trường Dauphine.

- Vang đỏ chứ?

Ông già không ngạc nhiên về sự hào hiệp ấy. Ông biết đời là thế. Ông biết mình hôm nay rơi vào tay người này, hôm khác vào tay người khác và ông sẽ được hưởng những cú đá vào chân.

Người chủ quán không hỏi nhiều chỉ nháy mắt nói thêm:

- Một lít chứ?

Một cốc vang xanh, ông già uống một ngụm lớn. Sau đó ông cầm lấy cái nút và với một thói quen ông đút nó vào túi. Người ông tỉnh táo hẳn lên như một cái cây vừa được tưới nước. Nhưng ông vẫn tỏ vẻ ngập ngừng khi bước lên cầu thang của Sở Cảnh sát.

Mỗi khi có việc, ông Beaupere lại phải đi tìm một văn phòng để trống, vì ba mươi năm công tác ông không hề có văn phòng riêng của mình. Ông thường gõ vào mấy cánh cửa và được trả lời bằng những tiếng càu nhàu.

May thay hôm ấy một nửa số nhân viên đã đi nghỉ.

- Mời ông ngồi.

Ông thanh tra này không xưng hô mày tao như những người khác. Ông ấy cũng không làm ra vẻ quan trọng hoặc bí mật. Ông lấy trong túi ra một cuốn sổ tay lớn như kiểu ghi chép những yêu cầu đặt hàng.

- Tôi có thể không?

Ông già hỏi và lấy chai rượu vang uống dở ra. Lần này sau khi uống, ông thở dài nghĩ đến những chuyện đêm hôm qua.

- Tên ông là gì?

- Người ta gọi tôi là Giáo sư.

- Ông có thẻ chứng minh không?

Ông già tìm không phải trong túi mà là trong mũ một tấm giấy bìa cứng nhàu nát trên đó người ta đọc mãi mới ra: Félix Legalle. Về nghề nghiệp người ta ghi là nhặt giẻ rách, chắc chắn một phần đêm ông ta đi bới các thùng rác. Ngược với điều người ta nghĩ, ông ta chưa đến sáu mươi nhăm tuổi.

- Ông biết ông René Bouvet chứ?

Ông già nhìn người hỏi bằng cặp mắt nghi ngờ, chưa rõ câu hỏi.

- Ông ta làm nghề gì?

- Đêm hôm qua... - Viên thanh tra gợi ý.

Ông già hiểu ngay sự bối rối của viên thanh tra người đã đếm từng ngày, từng đêm và từng lít vang đỏ nữa.

- Ông vẫn nghe tôi đấy chứ?

- Vâng, thưa ông. Liệu tôi có thể...?

Lần này ông đã cầm sẵn chai rượu trên tay trước khi hỏi.

- Ông chú ý nghe đây. Hôm kia là ngày ông Bouvet qua đời bên một quán sách trên bến cảng.

Nói đến đây ông Beaupere đưa tấm ảnh thứ nhất trên báo ra.

- Ông biết người này chứ?

- Vâng.

- Tại sao đêm hôm qua ông lảng vảng trước cửa ngôi nhà ấy ở bến cảng Toumelle?

- Tôi quí trọng ông ấy.

- Ông chơi bời thân thiết với ông ta ư?

Ông già chau mày trước mỗi câu hỏi như sợ rằng không hiểu hết ý của nó. Đầu óc ông lúc này như đang trong một lớp mây mù.

- Ông có biết tên ông ta là Bouvet không?

- Không.

- Ông có biết ông ta có một cái tên khác không?

- Không.

- Ông gọi ông ta bằng cái tên nào?

Ông già không hiểu. Ông Beaupere hỏi nhanh quá.

- Ông thường gặp ông ta chứ?

- Thường gặp.

- Lâu chưa?

- Tôi không biết. Lâu rồi.

- Một năm ư?

- Nhiều hơn.

- Mười năm ư?

- Tôi không biết.

- Ông ta gọi ông là gì.

- Ông ấy không gọi tên tôi.

Có một vài điều lãng quên. Sau khi tợp một ngụm rượu, ông già lấy mu bàn tay lau miệng, nhưng rượu còn vương trên râu.

- Ông với ông ta làm quen với nhau ở đâu? Ông nghĩ cho kỹ trước khi trả lời, Tôi hỏi ông, lần đầu tiên ông gặp ông ta ở đâu?

Ông Legalle chằm chằm nhìn ra cửa sổ, trán cau lại: ông ta không đủ sức để nghĩ nữa.

- Tôi không biết.

- Ở Paris ư?

- Chắc chắn là ở khu phố Maubert. Có thể là tôi đang ngồi câu cá thì ông ấy tới nói chuyện. Tôi thường đi câu. Bây giờ thì tôi cho là không lâu lắm đâu.

- Ông ta có nói mình làm nghề gì không?

- Tại sao?

- Ông nghe kỹ đây. Khi xem báo biết tin ông ta đã qua đời, ông đã đến trước cửa ngôi nhà. Liệu ông có muốn vào không?

Có thể nói câu hỏi đó là một con đường rộng rãi để trả lời. Trong căn phòng nhỏ nhưng có hàng ngàn thứ làm ông già quan tâm. Ông già cầm lấy chiếc chặn giấy như đứa trẻ cầm lấy cái xẻng để xúc tuyết.

- Ông có muốn vào không?

- Tôi muốn gặp ông ấy.

- Tại sao ông không hỏi bà gác cổng.

Một nụ cười trên miệng ông già, một nụ cười chế giễu. Một người cảnh sát bằng này tuổi mà không nghĩ đến việc liệu bà gác cổng có thể cho một người như ông vào trong nhà không?

- Ông có định vào trong nhà mà không ai trông thấy không? Ông chưa bao giờ vào trong nhà chứ? Ông ta có mời ông vào trong nhà không?

Hai người đều nói tiếng Pháp cả, tất nhiên là như vậy. Nhưng không cùng loại ngôn ngữ. Ông già bắt đầu thất vọng, ông quyết định cố gắng trả lời trong chừng mực có thể của mình.

- Nói cách khác ông chỉ gặp ông ta ở ngoài phố thôi ư?

- Ngoài phố, trên bến cảng...

- Ông ta nói những gì với ông?

- Tôi không biết.

- Ông ta coi ông như một người bạn ư?

Cái đó là rất khó, tuy nhiên ông Beaupere là người có nghị lực và kiên nhẫn.

- Ông ta có cho ông tiền không?

- Thường cho tiền.

- Nhiều không?

- Không nhiều. Đủ để mua một hoặc hai lít rượu.

- Có lúc nào ông ta cùng ông vào uống trong một quán rượu không?

- Ông ấy không uống rượu.

- Tại sao ông biết?

- Vì ông ấy đã nói như vậy. Uống rượu sinh bệnh tật. Cũng vì lý do ấy nên...

Ông già yên lặng giữ lại một phần bí mật cho mình.

- Nên làm sao?

- Tôi không biết.

- Ông từ chối trả lời ư?

- Tôi không từ chối. Tôi không biết.

- Ông ta có kể ngày xưa ông ta làm nghề gì không?

- Không.

- Ông có biết ông ta rất giàu không?

- Tôi nghi ngờ điều đó.

- Tại sao?

- Vì ông ấy nói năng như một người trước kia giàu có thì đúng hơn.

- Ông giải thích rõ xem nào.

- Ông ấy không thích tiền.

- Vậy thì ai thích?

Ông già nhìn người hỏi chuyện với cặp mắt van vỉ, không xin phép, ông ta lại tợp một ngụm rượu. Sau đó như nói cho mình nghe.

- Rất khó giải thích và tôi không tin chắc. Ông ấy đề ra cho tôi những câu hỏi. Ông ấy quan sát tôi và quan sát những người khác...

- Những người khác nào?

- Những người như tôi.

- Ông ta muốn biết điều gì?

- Như mỗi khi ông ấy muốn tôi thay đổi cuộc sống... Làm thế nào mà người ta nhận tôi xuống làm việc trên các xà lan của Đội quân cứu thế... Nếu bị cảnh sát tóm được thì sao... Tôi không biết... Thật là phức tạp... Tôi không có thói quen suy nghĩ... Tôi cảm thấy ông ấy muốn đến...

- Đến đâu?

- Đến với chúng tôi. Tôi có thể nhầm lẫn. Vì những câu hỏi của ông ấy... Và cũng vì ông ấy cứ chạy theo tôi... Nhiều khi ông ấy đứng đợi tôi hàng giờ...

- Đứng ở đâu?

- Ở phố Maubert, hoặc chỗ khác...

- Ông ta chán ghét xã hội ư?

- Xã hội nào?

- Ông ta có nói với ông về vợ, về con gái và về việc kinh doanh của ông ta không?

- Tôi biết ông ấy có những cái đó. Ông ấy chỉ nói ám chỉ thôi.

- Tại sao ông ta lại bất chợt từ bỏ những cái đó?

Ông già ngạc nhiên nhìn viên thanh tra.

- Ông cũng không hiểu ư?

- Có thể vì lý do gì ông ta sống một cuộc đời ẩn dật ở khu phố Toumelle? Ông nói là ông ta không uống rượu kia mà...

- Vì ông ấy không thể.

- Nếu ông ấy uống thì sao?

- Tôi cho rằng cái đó sẽ đến.

- Ông ta sẽ trở thành một kẻ lang thang ư?

Legalle gật đầu nhưng trong mắt ông có đôi chút tinh quái.

- Như tôi thường nói với ông ấy không chỉ có cái rét làm người ta đau đớn

- Thế còn cái đói thì sao?

- Không. Ông ấy biết tất cả những cái đó.

- Nói tóm lại, theo ông, nếu ông Bouvet đi theo các ông thì đó là do ý muốn được sống như các ông, đúng không?

- Có thể. Tôi cho rằng còn những người khác cũng muốn như vậy.

- Thực tế ông đã là một vị giáo sư ư?

- Có thể nhưng không hoàn toàn như vậy.

- Là giáo viên ư?

- Cái đó đã lâu lắm rồi.

- Ông uống đi, nếu ông muốn, ông Legalle, nhưng hãy nghe tôi. Rất cần thiết, không phải chỉ đối với cảnh sát mà còn đối với nhiều người, là biết rõ quá khứ của ông Bouvet. Rất có thể là ông ta có một cái tên khác, có thể là nhiều tên khác nữa. Hiện giờ ông là người mà ông ta chuyện trò nhiều nhất. Ông vẫn nghe tôi nói đấy chứ? Đây không phải là phản bội. Trước hết vì ông ta đã qua đời. Sau đó, chúng tôi không tố cáo ông. Điều quan trọng là phải biết rõ ông ta là ai.

- Tại sao?

- Vì ông ta có vợ, có một người con gái, có những cổ đông, có tiền và có những dự định trong công việc. Ông ta có nói chuyện về vợ con với ông không?

- Có thể.

- Nói như thế nào?

- Ông ấy nói bóng gió về một “kẻ quấy rầy”. Tôi cho rằng đấy là vợ ông ấy.

- Thế còn người con gái thì sao?

- Ông ấy hỏi tôi có con không. Tôi trả lời rằng tôi không biết. Người ta không thể nào biết được, đúng không?

- Và ông ta nói thế nào?

- Cái đó chẳng đáp ứng được gì cho câu hỏi.

- Vậy ông kết luận ra sao?

- Tất cả.

- Tất cả những gì?

- Tôi cho rằng ông ấy đã có một con tàu và ông ấy đã sống trên tàu. Tôi không biết danh từ, nhưng tôi thấy ông ấy có một cái nhìn đặc biệt những chiếc xà lan trên sông.

- Ông cho rằng ông ta không sung sướng ư?

Một sự ngạc nhiên thể hiện trong cặp mắt của Legalle.

- Tại sao?

- Chẳng phải ông ấy đã luyến tiếc cuộc sống cũ của mình đó sao?

Tốt hơn cả là uống. Và lúc này một tia nắng mặt trời đã rọi vào mặt ông già làm ông phải lim dim cặp mắt quen nhìn ban đêm.

- Có bao giờ ông thấy ông ta đi với một bà già, mặt mày nhợt nhạt, ăn vận xoàng xĩnh không?

Ông già lắc đầu.

- Có bao giờ ông thấy ông ta đi xe buýt vào một ngôi nhà ở khu phố khác không?

- Một lần khi tôi đang ngồi trên Quảng trường Vosges thì thấy ông ấy đi qua.

- Về hướng nào?

- Tôi quên rồi. Ông ta ngừng lại một lúc để nhìn lên cửa sổ một ngôi nhà.

- Nhà nào?

- Ngôi nhà đầu phố Francs Bourgeois trên quảng trường, trước mặt có một cửa hàng bán thuốc lá.

- Ông có tin chắc là không còn chuyện gì để nói với tôi không?

- Tin chắc. Ông là người tốt. Tôi đã cố nhớ lại tất cả.

Ông Beaupere đáng thương ghi vào trong sổ tay được rất ít tin tức.

Và trong lúc ấy, trong nhà mình bà gác cổng đang trả lời một viên cảnh sát cấp cao, một người như đang chơi trò mèo vờn chuột với bà.

Trên lầu ba, lúc này người ta đang mặc bộ complet màu xanh nước biển, bộ complet thứ ba, cho người chết để chụp ảnh. Có thể bà Jeanne phải hét lên nếu thấy cái cảnh người ta trang điểm cho bộ mặt ông Bouvet để làm ra vẻ ông còn sống.

Người ta lục lọi khắp nơi. Người ta chụp ảnh mọi chỗ. Đây là một nhà máy. Phóng viên nhà báo tràn vào ngôi nhà. Họ gõ cửa mọi căn hộ để phong vấn mọi người thuê nhà. Một người trong số họ cho thằng con trai nhà Sardot kẹo để moi tin tức. Thằng bé ném kẹo xuống cầu thang, hằm hằm nhìn anh ta và nói:

- Ông ấy là bạn tôi!

Mười hai giờ bốn mươi phút trưa, ở nhà ga phía bắc cửa Paris có hai người từ xe lửa bước xuống, một ông to béo, một ông ít to béo hơn, mỗi người mang một chiếc cặp da vội vàng vẫy chiếc taxi đầu tiên gặp được.

- Đến Sở Cảnh sát. Nhanh lên!

Họ có vẻ quan trọng, hút những điếu xì gà lớn, nói với nhau bằng tiếng flamingant nên người lái xe nghe mà chẳng hiểu được gì.

Đến Sở Cảnh sát, người to béo hơn cả đi thẳng vào văn phòng của ông Giám đốc.

- Tôi là Joris Costerman - Ông ta tự giới thiệu.

- Rất hân hạnh...

- Đi cùng tôi có ông luật sư cố vấn, không may ông ấy không nói được tiếng Pháp. Ông đã nhận được bức điện tín của tôi rồi chứ? Người ta chưa chôn ông ta, đúng không?

Tóc ông ta màu xám cắt theo kiểu bàn chải, trên người từ đầu đến chân toát ra mùi xì gà. Ông ta đưa hộp thuốc ra mời ông Giám đốc, ông này từ chối nói rằng mình hút tẩu.

- Tôi đợi chuyện này từ lâu vì tôi không phải là người của hôm qua, đúng không?

Tại sao lại là người của hôm qua, ông ta không nói rõ, nhưng chắc chắn là ông ta hài lòng với bản thân. Cái đó thấy được qua cách ngồi trên chiếc ghế bành, cách bắt chéo hai cẳng chân ngắn cũn cỡn.

- Trước hết, cũng như tôi, các ông đã khám phá ra, như báo chí đã đăng tải, rằng ông ta không phải là Bouvet. Tốt! Điểm thứ nhất! Sau đó tôi lại được biết, cách đây mười năm, ông ta cũng không phải là Marsh. Điểm thứ hai! Và ông sẽ thấy cái đó là rất phức tạp. Ông Cornelius có thể giải thích cho ông nếu ông ấy nói được tiếng Pháp. Hậu quả thứ nhất, bà Marsh nhưng không phải là bà Marsh khi cho rằng họ kết hôn với nhau ở Panama dưới cái tên đó. Hôn nhân dưới một cái tên giả thì sẽ tự động coi như là không có. Vậy, cô Marsh cũng không phải là cô Marsh nữa.

Câu chuyện thật hấp dẫn.

- Ông vẫn nghe tôi nói đấy chứ?

- Tôi vẫn nghe. Điều tôi muốn biết do đâu mà ông nói Marsh không phải là tên thật của ông ấy?

Costerman nháy mắt cho Cornelius và dịch lại câu hỏi cho ông này.

- Rất đơn giản - Ông Costerman nói tiếp - Nhưng lại là một câu chuyện rất dài. Tôi năm nay bảy mươi sáu tuổi, thưa ông. Bề ngoài có vẻ ít hơn, nhưng thực ra là như vậy? Và tôi đã sống ở Congo hai chục năm. Ông biết Congo chứ? Không ư? Không quan trọng. Năm ba mươi tuổi tôi làm việc cho Công ty Kim loại. Tôi kiếm được nhiều tiền, nhưng kiếm đến đâu tôi tiêu hết đến đấy. Tôi không lấy vợ. Tôi sống trong rừng rậm và khi tôi xuống Stanleyville là để chè chén, tôi xin nói với ông như vậy.

- Ông gặp ông Marsh ở Congo ư?

- Marsh nhưng không phải là Marsh vì thời kỳ này ông ta coi mình là Marsh. Đúng thế. Đúng hơn nữa là ông ta chạy theo tôi vì cần tôi. Ông ta được khoáng sản Ouagi. Ông Comelius là luật sư cố vấn của tôi.

Ông luật sư có vẻ biết tiếng Pháp vì ông ta đã gật đầu như để xác nhận câu chuyện.

- Đây là một cái mỏ dễ khai thác và trữ lượng lớn. Tất nhiên phải với điều kiện khai thác có hiệu quả. Trong năm năm - tôi cùng làm việc với ông Marsh năm năm - chỉ có một khó khăn là có đủ nhân công và giữ được họ ở lại với mỏ. Đến năm thứ sáu, sau khi thoả thuận với ông ta, tôi trở về Bỉ để điều khiển văn phòng của Công ty và tôi không có dịp nào trở lại Congo để xem ông ta còn ở đấy không.

- Ông có biết ông ấy đã kết hôn không?

- Tôi đã nhìn thấy vợ ông ta. Một con người lộng lẫy. Có thể là không dễ dãi lắm nhưng lộng lẫy. Tôi không hiểu tại sao bây giờ mọi người quay lưng lại với bà ta.

- Ông ấy yêu vợ chứ?

- Ông nói gì? Xin lỗi, hình như ông không biết gì cả. Tôi không biết có phải để chạy trốn vợ nên ông ta phải sang sống ở Congo không. Ông ta cho đầy đủ tiền theo ý muốn của bà ấy để được bình yên. Về phần mình, bà ta cũng rất sung sướng, sống xa hoa trên mọi thành phố lớn của Châu Âu.

- Và ông biết gì về sự mất tích của ông ấy?

- Thoạt tiên, chúng tôi không lo ngại gì, nghĩ rằng ông ta sẽ trở về vào một ngày nào đó. Thật là khó khăn khi muốn biết những người ở bên ấy ra sao. Không ai nghĩ đến một vụ tai nạn, cũng không ai nghĩ là ông ta ra đi một cách tự nguyện. Chỉ hai năm sau tôi mới cảm thấy nghi ngờ và lo ngại và tôi gửi đến Chính phủ Mỹ để hỏi những tin về ông ta. Những giấy tờ lưu trữ cho biết ông ta sinh ở Santa Cruz thuộc bang Californie, không xa San Francisco là mấy. Người ta điều tra thì biết không có ai tên là Marsh tới Santa Cruz, cũng như vùng lân cận, và kết luận đây là căn cước giả.

Chừng như hiểu ý của câu trả lời Comelius De Grieef bắt đầu cựa quậy.

- Có thể ông sẽ hỏi chúng tôi tại sao không khai báo từ hồi đó. Xin ông hiểu cho, cái đó không liên quan gì đến chúng tôi. Công ty chúng tôi là một công ty vô danh và phần lớn cổ phần trong tay người có tên là Samuel Marsh. Chúng tôi không thể sử dụng số tiền ấy. Nó được gửi ở ngân hàng dưới cái tên ông ta. Chúng tôi chỉ biết một điều số tiền ấy đã bị phong toả.

Bà Marsh đã gây cho chúng tôi rất nhiều khó khăn. Bà ta đòi tiền trước mặt ba người luật sư của bà. Cái quan trọng là chúng tôi phải có một thái độ đúng đắn. Còn tuyên bố với bà ta: “Marsh không phải là Marsh, và bà không phải là bà Marsh...” thì đây không phải là việc của chúng tôi.

Chúng tôi đang chờ đợi ông, ông Giám đốc. Ông đã thấy rõ chúng tôi làm việc đứng đắn như thế nào rồi. Việc cuối cùng là của toà án. Việc trước mắt của ông là điều tra xem Samuel là ai và vì sao ông ta lại biến mất. Khi được biết rõ điều này, tôi và ông Comelius sẽ có mặt ở toà với những tài liệu của mình và chúng ta sẽ tranh cãi.

Ông ta rút khăn tay ra và cẩn thận lau mặt, phủi nhẹ những tàn thuốc rơi xuống áo.

- Ông có mang theo những tài liệu của Chính phủ Mỹ đấy không?

Costerman nói với Comelius bằng tiếng flamingant và ông này mở cặp lấy ra một tập hồ sơ màu vàng.

- Đây chỉ là những bản sao. Ông biết là chúng tôi không thể có bản chính được. Ông sẽ thấy ở đây bản trả lời của toà Thị Chính Santa Cruz và bản dịch của nó cùng các văn bản đính theo.

- Nói xem, ông Costerman, ông Marsh có vai trò như thế nào trong Công ty?

- Ông ta có số vốn hai trăm francs Bỉ vào thời ấy. Ông sẽ tự tính ra giá trị của nó hiện nay. Trước toà án chúng tôi sẽ có những con tính cụ thể. Số tiền hiện nay dưới cái tên của Marsh lên tới năm chục triệu francs.

- Ông ấy không muốn sử dụng toàn bộ hoặc một phần số tiền ấy ư?

- Không bao giờ.

- Ông ấy không nghĩ đến việc giao cho ngân hàng trách nhiệm tự động định kỳ trả cho vợ và con gái một khoản tiền nào đó ư?

- Không tự động. Ông ta viết thư yêu cầu chúng tôi chuyển một số tiền là bao nhiêu đó vào tài khoản của bà Marsh ở Paris, ở Londres hoặc một nơi nào đó.

- Và từ năm 1933 đến nay bà ấy không nhận được đồng nào cả ư?

- Đúng thế.

- Ông biết nhiều về Samuel Marsh, đúng không? Từ nay chúng tôi có thể nói ông là người như vậy không?

- Được thôi. Tôi biết rõ về ông ta, vâng. Tôi gặp ông ấy nhiều lần trong một tuần lễ trong suốt năm năm trời và chúng tôi đã sống chung một nhà trong vài tháng.

- Ông ấy là người thế nào?

- Ít nói.

- Ông ấy có khoẻ không?

- Khoẻ hơn so với hình thức bên ngoài. Trên người có những bắp thịt.

- Ông ấy có tỏ vẻ buồn rầu không? Có sùng đạo không?

- Ông ta không vui, không buồn, không sùng đạo. Ông ta không cần đến ai cả. Có những buổi tối, ngồi hàng giờ với nhau, chúng tôi không nói với nhau một câu.

- Ông cũng vậy ư?

- Tôi thì không. Tôi hỏi, ông ta không trả lời.

- Học vấn của ông ấy ra sao?

- Ông ta là người có học.

- Ông ấy học những gì?

- Tôi không biết. Chỉ biết ông ta nói được nhiều thứ tiếng.

- Những ngôn ngữ nào?

- Tiếng Pháp...

- Rất sõi chứ?

- Không hề lơ lớ chút nào. Tiếng Anh, rõ rồi. Tôi đã thấy ông ta nói chuyện với những người Anh ở Kenya, sau đó có người hỏi ông ta đã sống ở nước Anh lâu chưa.

- Ông ấy trả lời thế nào?

- Ông ta nói mình biết nước Anh. Có lần tôi thấy ông ta nói cả tiếng Thổ Nhĩ Kỳ nữa.

- Tiếng Tây Ban Nha thì sao?

- Rất thành thạo.

- Ông ấy có đọc nhiều không?

- Tôi chỉ thấy ông ta đọc báo thôi.

- Ông ấy không nói gì về gia đình, về thời thơ ấu, về trường đại học của mình ư?

- Không hề.

- Vậy thì ông ấy nói về cái gì?

- Tôi đã bảo là ông ta không nói kia mà. Ông ta dành thời gian để đàng đúm với những phụ nữ da đen, ông ta có cả một hậu cung.

- Tóm lại ông hoàn toàn không biết ông ta đi đâu phải không?

- Vâng, thưa ông.

- Ông cũng không biết ông ta đang ở nước nào ư?

- Không. Nhưng bây giờ thì rõ rồi. Do đó tôi sợ người ta đã mai táng người qua đời.

- Ông ở Paris được bao lâu?

- Cho đến ngày mai, Ông Comelius có cuộc hẹn quan trọng ở Anvers. Còn tôi thì phải đi gặp ông Giám đốc ngân hàng ngay sau đây.

- Ông không thể theo dõi sát sao vụ này ư?

- Đó là việc của ông Comelius. Chúng tôi sẽ có mặt ở toà án. Về phần mình, tôi rất yên tâm.

- Ông có thể cho tôi biết ông trọ ở khách sạn nào không?

- Khách sạn Ý. Tôi thường tới nghỉ ở đấy.

Ông ta quên việc người đối thoại hút thuốc tẩu nên lại đưa xì gà ra mời lần nữa. Sau đó ông ta ra về có Comelius đi theo.

Ông Giám đốc vào văn phòng của các thanh tra, hỏi người gặp đầu tiên:

- Anh rỗi việc chứ?

- Vâng, thưa ông.

- Đi theo dõi hai người vừa ra khỏi cơ quan. Họ còn ở dưới nhà. Họ nghỉ ở Khách sạn Ý.

Ông trở về văn phòng của mình với bộ mặt cau có. Trong lúc này trong tay ông có rất ít người và vụ án ở phố Toumelle lại quá phức tạp.

Ông nhấc mấy điện thoại hỏi:

- Ai phụ trách vụ Bouvet?

- Sáng nay Lucas đã đi cùng với một thanh tra rồi.

Mười phút sau Lucas gọi dây nói cho ông.

- Tôi không biết phải làm gì, thưa sếp. Thợ chụp ảnh nói họ không làm được gì nếu không mang tử thi về Phòng căn cước.

Ông Giám đốc không còn dịp nhìn thấy ngôi nhà trắng cũng như không gặp bà gác cổng, nói lời báo trước:

- Mang ông ấy đi rồi về gặp tôi ngay.