- VI -
Từ Sở Cảnh sát đến Phòng Căn cước trong khu Toà án gần giống như một khách sạn từ phòng ăn đến bếp. Không lớn như bếp của một khách sạn, nhưng ở Phòng Căn cước người ta có thể xắn tay áo lên và nói những danh từ nghề nghiệp của mình.
Đối với những người ở dưới tầng hầm của Sở Cảnh sát thì người chết ở phố Toumelle như một “kẻ quấy rầy” trong những vấn đề ông Bouvet đặt ra. Đối với những người trên tầng thượng thì đấy lại là một “món ăn ngon lành”, ông Bouvet đã làm phát sinh rất nhiều công việc vừa tế nhị vừa có tính chất nghệ thuật.
- Các anh đã xong việc với cái xác của tôi chưa?
Thỉnh thoảng những người phụ trách chiếc xe hòm lại hỏi họ để chở người chết đến Viện Pháp y.
Mỗi lần nhìn vào xác chết là một lần người ta lo ngại cho nó vì trời rất nóng, người ta sợ nó bị “mỏi mệt”. Từ sáng đến lúc này, xác người được chụp ảnh trong mọi tư thế, ngồi và đứng, và được mặc bằng nhiều bộ đồ khác nhau.
Công việc có tính chất nghệ thuật hơn cả là người ta làm cho ông Bouvet trẻ lại hai chục tuổi bằng việc hoá trang và đội món tóc giả như ở nhà hát kịch.
Xác chết quả là đã mệt mỏi. Lúc mà ông Beaupere rời khỏi Quảng trưởng Vosges là lúc người ta trả tử thi cho Viện Pháp y.
Người ta đặt ông Bouvet lên cáng và khiêng đi trong lúc người phụ trách xe hòm nói mà không hề có ác ý gì:
- Đưa “con nghẽo” vào đây!
Cảnh cửa phòng xét nghiệm được mở to. Hầu hết những nhà chuyên môn đã đi dùng bữa. Những tấm ảnh đầu tiên đã xuất hiện trên báo, sau khi đã được sửa sang một cách tỉ mỉ để tái hiện lại ông Bouvet qua các thời kỳ.
Bà Lair và ông đại diện pháp luật không mời ông Beaupere cùng đến Sở Cảnh sát. Sẽ không tế nhị lắm khi có một người như ông Beaupere trong cuộc gặp gỡ với ông Giám đốc. Từ cửa hàng bán thuốc lá trên phố Francs Bourgeois, ông Beaupere gọi điện thoại về cho sếp.
- Người em gái của ông Bouvet và người đại diện pháp luật vừa ra khỏi nhà.
- Ông đã nói chuyện với bà ta chứ? Bà ta là người thế nào.
- Một bà già khác thường.
- Ông còn việc gì phải làm tiếp?
- Tôi còn một bà già trong khu phố cần tìm nếu không ai làm việc này.
—A! Ông làm tiếp đi, ông Beaupere.
Người ta không muốn làm ông phật ý. Vụ án đã đến lúc phải có những giải pháp cần thiết nên người ta mặc cho viên thanh tra già với bộ mặt khắc khổ muốn làm gì thì làm.
Như vậy là đủ. Ông Beaupere lại tiếp tục đến các cửa hiệu, gặp các bà gác cổng, đặt ra cùng một câu hỏi:
- Bà có biết một bà già to béo, mặt xanh xao, mặc bộ đồ đen khá xoàng xĩnh, đau chân và đi đôi giày vải không?
Người ta nhún vai, hoặc tò mò nhìn ông hoặc chỉ cho ông những bà già sống trên lầu năm, lầu sáu của ngôi nhà.
Ông đã có những cuộc điều tra tương tự nhưng kéo dài nhiều tuần lễ kể cả đối với những bà bán hoa, đặc biệt những người có hoa tím, những người đánh xe ngựa.
Mọi người đều khát, trừ ông Beaupere. Mọi người vội vàng vào quán rượu, thấm mồ hôi gọi bia hoặc rượu vang trắng với vẻ hài lòng. Các quán rượu chật ních người và những đứa trẻ nắm lại tay mẹ chúng và ăn những chiếc kem lạnh buốt.
Cái đã giúp ông, giúp ông trong suốt cuộc đời, là không bao giờ ông thấy việc làm của mình là vô ích, phù phiếm. Ông là một bánh xe ở vào chỗ không nhìn thấy được của guồng máy cảnh sát. Ông được cơ quan kính trọng đối với cá nhân ông và những việc làm của ông. Vợ ông đã giúp đỡ ông nhiều. Bà tự hào nói với những người xung quanh:
- Chồng tôi là một thanh tra cảnh sát.
Người đại diện pháp luật, luật sư Guichard, là một người cao tuổi, vẻ đáng kính, hôn tay bà Lair khi gặp nhau. Ông ta đã ngoài sáu mươi nhăm còn ông Beaupere chỉ mới năm mươi hai và ông này cho rằng những người này đang sống như chưa hề được sinh ra.
Ông Bouvet là người đánh dấu vào lịch sử khi ông Beaupere còn khóc oe oe.
Thật là tế nhị. Ông nhìn phố xá và những người xung quanh bằng cặp mắt khác cố tưởng tượng ra cách ăn mặc vào thời kỳ 1900, những ngọn đèn thắp bằng ga và những cỗ xe ngựa.
Năm mươi hai tuổi, ông Beaupere chưa cảm thấy mình già. Nhiều lúc ông vẫn cảm thấy mình còn là trẻ con.
Những người khác có như vậy không?
Còn sống, liệu ông Bouvet có coi ông là một đứa trẻ không?
Thật là phức tạp. Nhưng trước hết phải tìm bằng được bà già cầm bó hoa tím có rất nhiều trong khu phố này. Có thể nói trong mỗi nhà đều có một bà già như vậy cũng như mỗi nhà có một bà gác cổng và mỗi bà già đều có một tên họ, một tên thường gọi và một cách mỉm cười khác nhau. Một số thì bị tàn tật, không rời khỏi căn phòng của mình, một số người ít tuổi thì trông trẻ con và làm công việc nội trợ. Người ta cũng còn thấy nhiều bà ngồi trên ghế đá trong công viên với vẻ không để ý đến những chuyện xung quanh.
- Thưa bà, bà có nhìn thấy một bà già...
Có thể người ta sẽ kéo ông Beaupere ra khỏi việc này.
Những tấm ảnh vừa in xong được trải trên bàn của ông Giám đốc, và bà Lair nhìn chúng mà không tỏ một vẻ cảm động nào.
- Lần cuối cùng sống với nhau thì anh trai tôi hai mươi ba tuổi, còn tôi mười tám. Tôi ngạc nhiên khi thấy ông ấy ít thay đổi đến như vậy. Ví dụ như khi nhìn tấm ảnh này, tôi có cảm giác như được gặp lại anh tôi. Nếu không có vết sẹo thì tôi không thể khẳng định được.
Người ta đưa cho bà xem tấm ảnh chụp vết sẹo được phóng to lên nhiều lần.
- Năm mười bốn tuổi anh tôi đã trèo lên cây và bị ngã. Chân phải của anh ấy bị vướng vào một gốc cây để lại một vết sẹo xấu xí. Tôi nhớ anh ấy phải nằm trên giường hai tháng ròng. Tôi cứ tưởng chân anh ấy bị gãy. Liệu tôi có thể nhìn thi hài anh tôi được không?
- Chắc chắn là được. Tôi sẽ thu xếp.
- Tôi xin lỗi là đã mời ông Guichard cùng đi, nhưng đây là một người bạn tận tâm. Tôi cho rằng ông ấy sẽ làm các thủ tục cần thiết. Tôi không biết nhiều về việc này.
Ông Giám đốc mới năm chục tuổi, ông ít tuổi hơn ông Beaupere.
- Liệu bà có thể nói về gia đình mình được không? Cái đó sẽ giúp ích nhiều cho chúng tôi.
- Ông muốn biết những gì?
- Tất cả những điều mà bà sẽ nói với tôi.
- Ông đã nghe nói về cha tôi, người đã xây dựng các nhà máy dệt Lamblot.
Bà ta lấy làm tiếc vì đã không mang theo quyển album để chỉ ông Desire Lamblot, mặc áo rơ-đanh-gốt cài cúc đến tận cổ, có bộ mặt to với những chòm râu má rậm rạp.
- Cha tôi chỉ có hai người con, anh tôi và tôi. Đây là một con người nghiêm khắc như mọi người cha trong thời kỳ ấy, ít nhất là đối với các nhà kỹ nghệ ở Roubais.
- Tôi cho rằng ông cụ muốn người con trai nối nghiệp mình, đúng không?
- Không thể có một nghề nghiệp nào khác. Và tôi cho rằng cái đó vẫn còn ở Roubais, ở Tourcoing và ở Lille và nhất là ngành sản xuất len.
- Bà có con trai không, bà Lair?
- Chỉ có con gái, khốn thay. Một trong số các con rể của tôi đứng ra điều khiển nhà máy.
- Bà biết gì về anh trai mình?
- Là những điều người ta biết về người anh cả, có nghĩa là rất ít. Anh ấy có ảnh hưởng lớn đối với tôi vì anh ấy nhiều tuổi hơn tôi và nhất là tôi thấy anh ấy đẹp trai và thông minh. Cuối cùng tôi đứng về phe anh ấy để chống lại cha tôi.
- Ông ta không ưa cha mình về điều gì?
- Hai người không bao giờ hoà thuận với nhau cả.
- Còn bà thì sao?
- Tôi cho rằng cha tôi quá cứng rắn. Cuộc sống trong nhà được sắp đặt như trong nhà máy và, đến năm mười hai tuổi tôi vẫn chưa được phép nói trong khi ăn. Còn anh tôi, tuy đã mười bảy tuổi, nếu xuống phòng ăn chậm một phút thì vẫn bị cha tôi nhìn mà không nói gì, và Gaston (tên anh tôi) biết cái đó có nghĩa là: nhịn ăn và lên phòng ngủ đi nằm.
- Ông Gaston được học hành như thế nào?
- Lúc ấy anh ấy học ở trường trung học, anh ấy là học trò tốt, học trò xuất sắc trong lớp, Cha tôi đòi hỏi như vậy.
- Đòi hỏi ư?
- Vâng. Cả tôi cũng bị bắt buộc phải đứng đầu lớp. Gaston đã vâng lời. Sau đó bỗng nhiên anh ấy thụt lùi, cuối cùng thi đậu tú tài vừa sát điểm.
- Ông ấy có những bạn gái chứ?
- Vâng.
- Ông ấy có kể cho bà nghe những cuộc phiêu lưu tình ái của mình không?
- Có. Tuy tôi còn là một đứa trẻ nhưng anh ấy đã kể tất cả. Anh ấy yêu một cô gái hát trong quán rượu gần nhà ga ở Lille. Khi cô ta đi Paris thì anh ấy quyết định đi theo cô ta và anh ấy đã sửa soạn vali.
- Ai đã ngăn cản ông ấy làm việc này.
- Mẹ tôi vào trong phòng thấy hành lý đã sắp sẵn. Bà không dám nói gì với chồng vì bà cũng sợ ông như chúng tôi. Cuối cùng thì Gaston đã hứa sẽ ở lại nhà.
- Ông ấy có hay nóng nảy, giận dữ không?
- Trái lại, khi hai cha con cãi nhau thì chính anh ấy là người bình tĩnh nhất. Cái làm tôi nhớ nhất là nụ cười của anh, chỉ hơi nhếch mép về một bên. Khi anh ấy cười kiểu ấy với tôi thì tôi đã giậm chân cho rằng mình bị lăng nhục.
- Ông ấy thương yêu em gái chứ?
- Tôi không biết. Thời trẻ, anh ấy chịu đau đớn một mình, sống cách biệt với mọi người. Anh ấy đọc rất nhiều sách. Hễ bắt được là cha tôi đốt sách đi khiến Gaston nhiều khi phải vào phòng ngủ để đọc.
- Bà vừa nói ông ấy đã thổ lộ những chuyện riêng tư với bà kia mà?
- Tôi nói là anh ấy kể lại những cuộc phiêu lưu tình ái của mình. Nhưng tôi cho đấy là anh tôi nói với chính mình, nói để xác định cá nhân mình.
Thật là lạ lùng khi thấy ba người đối thoại cùng nhếch mép cười. Có thể nụ cười của hai người đàn ông là do bị ảnh hưởng nụ cười của bà già chăng? Các cửa sổ vẫn để ngỏ. Nhưng họ như đang ở rất xa Paris về mặt không gian và thời gian.
Họ có một cảm giác buồn tẻ như đang sống trong một ngôi nhà cổ xây bằng đá như một pháo đài có tu viện, có phố xá chật hẹp trong những buổi chiều mùa đông.
- Bà thấy ông anh bà là người thế nào?
- Tôi có thể nhầm lẫn.
Bà nhìn hai người với vẻ bối rối.
- Tôi cho rằng anh ấy cũng như mọi người thôi... Đến tuổi nào đó, chúng ta có thể đánh giá về con người đó... Khi tôi chưa vào tu viện...
Nói tới đây bà có vẻ xấu hổ.
- Ông hiểu là tôi định nói gì rồi. Khi còn sống với Gaston tôi thấy anh ấy có vẻ phiền muộn về vẻ điển trai của mình và làm ra vẻ mình là một trí thức chán chường.
- Lúc ấy ông Gaston bao nhiêu tuổi?
- Mười bốn. Sau đó anh bắt đầu đọc tiểu thuyết Nga. Anh ấy để tóc dài, không cắt móng tay và nhìn cha tôi với một vẻ uất hận.
- Ông ấy có bạn bè không?
- Không. Không có bạn thân. Mẹ tôi muốn tổ chức một cuộc gặp mặt giữa anh và các bạn bè của anh. Khi mẹ tôi hỏi nên mời những ai thì anh ấy trả lời: “Không mời ai cả”. Rồi anh ấy nói thêm với vẻ khinh miệt: “Đó là những hồn ma!” hoặc: ”Đó là những con rối.”
- Ông ấy ham mê những gì?
- Tất cả.
- Có nghĩa là?
- Tất cả nhưng không chủ tâm đến vấn đề gì. Có một điều chắc chắn: anh ấy không thích nối nghiệp cha và nói thêm: “Đó là một kẻ nô lệ. Hạnh phúc cho cha là ông cụ không biết cái đó!”
- Ông ấy bỏ nhà ra đi từ hồi nào?
- Từ ngày anh ấy đi Paris để tiếp tục việc học hành. Cha tôi bắt buộc anh ấy học ở trường luật rồi về quản lý nhà máy.
- Ông cụ có cho ông Gaston nhiều tiền không?
- Rất ít. Thời kỳ đầu anh ấy về Roubais vào mỗi thứ bảy như qui định của cha tôi. Sau đó thưa dần và bắt đầu có chuyện cãi cọ.
- Ông anh bà đã thay đổi ư?
- Rất khó nói. Tôi là một có gái sống trong một môi trường mà anh ấy không thích. Anh ấy không nói chuyện gì với tôi cả, chỉ trả lời những vấn đề thật cần thiết và gọi tôi là “cô gái” với vẻ che chở. Cũng nhiều lúc anh ấy tỏ ra khiêm tốn khi tôi nói anh có cái đầu độc đoán, có lúc anh ấy sống lại thời thơ ấu, vui đùa với tôi.
- Quan hệ giữa con trai với người cha như thế nào?
- Không nên công bố những điều tôi nói với ông sau đây, đúng không? Nó là chuyện riêng tư của mỗi gia đình. Tiếp đó anh gọi cha là “ông già keo kiệt”. Anh ấy biết một chuyện gì đó về ông cụ nhưng không nói ra. Mãi sau này, trong thành phố, người ta nói cha tôi có quan hệ với một bà có danh tiếng ở Lille. Khi anh tôi nói bóng gió về chuyện này thì ông cụ chỉ biết cúi đầu.
Xin lỗi vì đã nói những chuyện không đâu. Người ta nói hạnh phúc gia đình chỉ có khi con cái còn nhỏ và một khi chúng lớn lên thì gia đình bắt đầu tan rã. Chính vì lý do ấy mà tôi ít gặp các con và đàn cháu của tôi. Người già và người trẻ không nên sống cùng một nhà.
Mẹ tôi sinh ra đau ốm. Một trong những ông chú tôi bắt đầu nghiện ngập rượu chè và người ta nói đến chuyện này như là một nỗi nhục của gia đình Lamblot. Gaston ít về nhà hơn và những chuyến trở về của anh gây ra một sự khó chịu cho mọi người. Cuối cùng thì anh ấy bỏ đi, không nói với ai một lời.
- Có nghĩa là?
- Anh ấy mất tích. Chúng tôi không nhận được một tin tức nào của anh ấy. Cha tôi cử người đi Paris để tìm anh ấy nhưng cũng không thấy. Địa chỉ cuối cùng của anh ấy là một khách sạn trên phố Đức Ông, nơi anh ấy sống chung với một cô gái mà tôi không nhớ tên.
- Còn cô gái thì sao?
- Cũng mất tích luôn. Ông nên tìm kiếm trong các hồ sơ thời đó xem sao. Sau đó cha tôi đi Paris. Khi về, trái với sự tưởng tượng của tôi và mẹ tôi, ông không giận dữ mà tỏ ra ân hận. Ý nghĩ đầu tiên của tôi là Gaston đã xuất dương và người ta đã tìm kiếm anh trên các hải cảng. Ở trường Luật người ta nói anh ấy đã bỏ học, không gặp mặt bạn bè một năm nay.
- Như vậy bà không biết gì về hoạt động của ông ấy ở Paris vào những năm cuối cùng ấy, đúng không?
- Không biết gì cả. Cái còn lại trong tâm trí tôi đó là sự suy sụp của cha tôi. Ông cụ vẫn duy trì cách sống kiểu cũ, bắt mọi người phải theo đúng giờ giấc qui định. Ông cụ vẫn làm mọi việc như ngày xưa, nói năng vẫn những lời lẽ ấy. Cuối cùng ông cụ chỉ còn là cái bóng trong gia đình. Sau này tôi được biết, người thư ký của cha tôi đã cho đăng vào mục nhắn tin trên các báo, không chỉ ở Pháp mà còn ở nhiều nước ngoài nữa. Nội dung tin nhắn như sau:
Gaston Lamblot - Về nhà ngay - Sẽ không bị chê trách, bảo đảm hoàn toàn tự do.
Người nhắn tin: Desire Lamblot.
Mọi người cứ tưởng mẹ tôi sẽ chết vì phiền muộn. Bà như con chim nhỏ sống trước miệng mèo. Luật sư Guichard biết rõ bà cụ vì cụ chỉ qua đời vào năm chín mươi mốt tuổi trong một ngôi nhà ở Quảng trường Vosges của Paris. Chính cha tôi là người chết đột ngột một năm sau ngày ra đi của Gaston. Các nhà máy của ông cụ bị sa sút trông thấy cho đến ngày con rể tôi đứng ra quản lý.
- Lần cuối cùng anh bà trở về Roubais là vào thời gian nào?
- Tháng bảy, năm 1897. Tôi có thể nói chính xác vì tôi đã tìm lại các giấy tờ. Thời ấy dễ chịu hơn ngày nay.
- Bà có biết trước ông ấy sẽ ra đi không?
- Điều bất hạnh là thời đó tôi ít chú ý đến anh ấy. Hôm trước anh ấy về thì hôm sau tôi phải rời Roubais để đi Le Touquet, nơi gia đình thường tới nghỉ và nơi hẹn gặp của người chồng chưa cưới của tôi. Đối với tôi, như những lần trước, chuyến về thăm nhà của Gaston lần này chỉ là chớp nhoáng, và cha tôi vẫn tỏ ra cáu kỉnh trước mặt con trai.
- Bà có cho rằng giữa họ đã có một sự giải thích nào đó không?
- Ngược lại. Cha tôi và anh tôi không bao giờ làm như vậy.
- Ông Guichard, về phương diện pháp luật, ông thấy chuyện này như thế nào?
- Tôi chưa nói gì với thân chủ đồng thời là người bạn của tôi và bà cho phép tôi được phát biểu thay bà để mọi người không hiểu nhầm lý do cuộc thăm viếng này. Báo chí thì đưa tin về một bà Marsh và con gái, đó là con gái của... Gaston Lamblot.
Thật là kỳ lạ. Mọi người đều ngập ngừng khi nói đến tên ông ta vì không biết nên gọi ông bằng cái tên Lamblot, Marsh hay là Bouvet. Nên chăng dùng cái tên cuối cùng, tên của người thuê nhà của bà Jeanne đã qua đời?
Đây chẳng phải là cái tên mà ông ta đã lựa chọn, như ông đã lựa chọn lối sống và cách chết của mình đấy ư?
Ông Giám đốc nói:
- Bà Marsh và người luật sư của mình đã tới đây thăm tôi.
- Tôi cũng đã được đọc tin này trên báo. Về mặt pháp lý, vai trò của bà ấy cũng rất tế nhị.
- Sáng hôm nay tôi cũng đã tiếp người cổ đông trong Công ty khai thác khoáng sản ở Ouagi do ông Samuel Marsh sáng lập.
Sau đó ông giám đốc quay sang bà Lair.
- Bà có biết ông anh bà hình như để lại một số tài sản khá lớn không?
- Tôi có thể nói với ông là tôi không chú ý đến cái đó.
- Ngoài chín trăm đồng tiền vàng và một số đồng lẻ giấu ở trong nệm giường.
Cái đó làm bà già bật cười, một nụ cười thương cảm. Bà là người duy nhất chưa nhìn thấy ông Bouvet đã sống rất lâu ở phố Toumelle.
- Không có vết sẹo ấy thì tôi chưa dám nói đây là anh ruột của mình.
- Thế còn những đồng tiền vàng thì sao?
- Trong nệm giường ư? Cái đó đã gây khốn khổ cho Gaston.
- Ngoài số tiền nhỏ ấy, ông ta rất giàu, rất giàu, như tôi nắm được ở một ngân hàng nước Bỉ. Ông ta hầu như là người chủ duy nhất của mỏ vàng ở Ouagi giá trị ước tính một trăm triệu francs Bỉ.
- Tôi còn biết hơn thế nữa.
- Bà muốn nói gì?
- Rằng sau khi gửi tiền vào ngân hàng, anh ấy để lại một số vàng nhỏ để chi dùng cho những nhu cầu của mình. Ông không hiểu ư?
- Tôi chưa hiểu.
- Chắc hẳn lúc ấy anh ấy nở một nụ cười trên môi. Cái đó như một việc đánh lừa, đúng không?
- Bà cho rằng vào cái tuổi bảy mươi sáu rồi ông ta vẫn chơi cái trò con trẻ ấy ư?
- Tôi cho rằng những người như anh ấy thì không thay đổi gì kể cả khi đã về già.
Và bà mỉm cười, nụ cười cho riêng mình.
- Những ý định của ông Marsh cần được làm rõ và tôi không hiểu toà án sẽ quyết định như thế nào.
- Xin ông Giám đốc thứ cho, tôi xin nhắc lại một lần nữa, tôi tới đây không vì cái đó. Rất đúng là người phụ nữ ấy có đúng là con gái của anh trai tôi không...
- Cái này thuộc lĩnh vực công tác của tôi. - Người đại diện pháp luật lên tiếng - Hãy để những vấn đề ấy cho pháp luật. Họ biết cách giải quyết!
Bà Lair đứng lên. Bà không thấy cần thiết vận đồ tang cũng như bỏ đồ trang sức ra. Bà cũng không khóc nữa. Bà không nói điều gì khiến cho cuộc gặp trở nên nặng nề và bà vẫn tỏ ra vui vẻ như bầu không khí của Paris.
- Liệu tôi có thể... nhìn anh trai tôi lần cuối không?
- Tôi đang tự hỏi ông ta còn ở Phòng Căn cước không.
- Người ta đã mang thi hài của anh ấy đi khỏi căn hộ ấy ư?
Bà ta có vẻ như thách đố, giọng nói có vẻ trách móc.
- Chúng tôi buộc phải làm như vậy. Bà có biết đêm hôm trước có người lọt vào căn hộ của ông ta không?
- Ai vậy?
- Chúng tôi không có ý kiến gì về việc này. Dù sao kẻ ấy cũng đã lục soát một cách tỉ mỉ, chính hắn đã tìm ra những đồng tiền vàng trong nệm giường.
- Hắn không lấy đi ư?
- Hắn ra đi mà không mang theo gì cả và đó là điều làm chúng tôi bối rối. Bà gác cổng, người giúp ông ta trong công việc nội trợ, đã bị thẩm vấn ba lần. Bà ta biết rõ mọi thứ trong căn hộ ấy. Bà ta nhớ tới mức có thể gọi tên mọi đồ vật trong nhà. Bà ta nhớ rằng mình chưa hề nhìn thấy một mảnh giấy nào. Việc ông Bouvet không có giấy tờ đó là khía cạnh đặc biệt của vụ này.
Tại sao bà ta lại mỉm cười một lần nữa?
- Người đàn ông bảy mươi sáu tuổi ấy không có giấy tờ gì ngoài tấm thẻ chứng minh mang tên mình mà lúc này chúng ta biết không phải là tên thật.
- Anh trai tôi bao giờ cũng vậy. Anh ấy là người không thích giấy tờ. Chúng tôi có một cuốn album của gia đình mà mẹ tôi thường xuyên bổ sung và giữ gìn cẩn thận. Năm mười lăm tuổi, thấy việc làm của mẹ, anh ấy đã giận dữ kêu lên: “Tại sao lại giữ cả một nghĩa địa ở trong tủ? Những người chết ở các trang đầu! Rồi đến những người còn sống nhưng cũng sắp chết, Những người khác thì đến một ngày nào đó...”.
- Bà có cho rằng ông ta sợ chết không?
- Vào năm mười lăm tuổi, đúng thế. Cả tôi cũng vậy, vào cái tuổi ấy, đôi khi người ta sợ cái chết đến mức đêm đến không thể nào chợp mắt được. Có lần thấy tôi như vậy, bãi bỏ lệnh cấm của mình, cha tôi đành cho tôi nằm cùng giường với mẹ tôi.
Liệu ông Bouvet còn sợ cái chết khi cư trú ở phố Toumelle không? Có lẽ cái đó đã xảy ra khi, mặc dù sức khoẻ không tốt lắm, ông ta vẫn sống một mình.
- Alô! Phòng Căn cước đấy ư? Thi hài ông René Bouvet còn ở chỗ các anh không? Đã mang đi cách đây một tiếng đồng hồ rồi ư? Cảm ơn anh Benoit.
Ông xin lỗi.
- Có lẽ các vị phải tới Viện Pháp y thôi. Ở đấy thì không tiện lắm.
- Tôi sẽ đến đó - Bà ta nói.
Bà ta hỏi thêm:
- Tôi có thể đến thăm căn hộ ấy được chứ?
- Đã dán giấy niêm phong rồi. Nếu bà muốn thì tôi sẽ cử một người đi cùng. Bà muốn tới đó vào hôm nay ư?
- Nếu việc này không làm phiền ông.
Bà ta quay sang người đại diện pháp luật.
- Tôi nghĩ rằng lúc này ông có những việc thuộc về thủ tục cần làm, đúng không?
Bà ta lại hỏi ông Giám đốc:
- Bà Marsh là người khó tính lắm ư?
- Ai nói với bà như vậy?
- Tôi đọc trên báo.
- Bà ta rất đẹp - Ông Giám đốc nói một cách không nhầm lẫn sau đó khoát tay để khỏi phải nói tiếp - Bà muốn tới phố Toumelle trước ư?
- Nếu ông cho phép.
Ông Beaupere không có mặt ở đây, nếu không thì chắc chắn ông là người được cử đi theo bà Lair. Lúc này ông ta đang ở trên phố Minage, sắp sửa rẽ vào ngoại ô Saint Antoine, không lo ngại gì những trận gió cuốn rác rưởi trên đường phố, sóng sông Seine va đập mạnh vào mạn tàu thuyền, báo hiệu một trận bão sẽ tới.
- Anh không bận gì chứ, Jussiaume?
Ông Giám đốc đi ra ngoài một lúc dặn dò viên thanh tra trong khi đó bà Lair đang đứng trước cửa sổ nhìn bến cảng nơi mà ông Bouvet đã sống.
Người ta có thể nói bà đang vui vẻ như một cô gái, đang cảm thấy câu chuyện thật kỳ diệu như những chuyện ngày xưa anh trai bà thường kể trước cửa sổ lúc ba giờ sáng.
Bà đã sống một cuộc sống êm ả phần lớn cuộc đời ở Roubais, cũng trong ngôi nhà ấy, cũng những đồ đạc ấy với những lo âu không biết thổ lộ cùng ai. Chồng bà là một người tốt, làm cho bà hạnh phúc. Bà đã nuôi dạy các con gái và đã trở thành bà ngoại.
Thời gian trôi nhanh tới mức nhiều lần bà tự hỏi có đúng là các cháu gái bà đang ở trong tu viện, tu viện trước kia bà đã sống, và đứa cháu lớn đang nghĩ đến chuyện lấy chồng không.
Bỗng nhiên lúc này bà gặp lại Gaston như trong một ác mộng. Gaston vẫn như vậy, vẫn tìm cách giễu cợt mọi người...
- Thanh tra Jussiaume đang đợi bà. Tôi thấy không cần nhắc bà không nên bực dọc về chuyện này.
- Tôi xin hứa điều đó với ông.
Ông Giám đốc không thể không mỉm cười trước cặp mắt trẻ thơ ấy. Cái chết không phải là cái chết vì nó có vẻ khác thường. Có thể nói không chỉ một mình bà muốn biết những chuyện thiên hạ đã rõ rồi.
Không ai thấy câu chuyện xảy ra trên phố Toumelle là bi thảm cả. Ông Bouvet đã ngã xuống vỉa hè giữa những bức ảnh vùng Epinal. Anh sinh viên người Mỹ đã không ngần ngại chụp ảnh ông vì đây là nơi đẹp nhất trong khu vực nhà thờ Notre Dame. Và tờ báo đã đăng tấm ảnh đó vì những cái chết như vậy không làm ai buồn rầu hoặc sợ hãi.
Chẳng phải là bà Jeanne cùng bà Sardot đã lau mình cho tử thi với vẻ như ông Bouvet đang sống đó sao?
- Xin cảm ơn ông Giám đốc.
Và người đại diện pháp luật nói với thân chủ của mình:
- Xin lỗi vì tôi không đi theo bà được. Tôi muốn trao đổi với ông Guillaume một vài việc.
Bão ư? Không có bão ư? Có những luồng gió nóng hổi xen lẫn những luồng gió mát lạnh. Xe taxi đã tới. Viên thanh tra khoảng bốn chục tuổi không dám hút thuốc.
- Xin mời ông hút thuốc.
Bà Lair nóng lòng muốn gặp mặt bà gác cổng đã giúp việc anh trai mình và tin chắc rằng hai người sẽ nhanh chóng thông cảm nhau thôi.