Chương 3 Perestroika giai đoạn I: 1985-1987
Gorbachev sử dụng thuật ngữ “cải tổ” lần đầu tiên vào tháng 3/1984 khi phát biểu trước hội nghị về tổ hợp công nông nghiệp và nói rõ thêm tại một hội nghị về hệ tư tưởng tháng 12/1984. Cuộc hội nghị sau có lẽ để nhấn mạnh vai trò của Gorbachev là vị bí thư thứ hai và cho phép ông nắm được vị thế cao trong công cuộc cải cách. Điều này cũng có nghĩa là ông có thể nói chuyện với giới quan chức của Đảng vượt mặt các vị thủ trưởng cầm quyền lão thành ở Moskva. Như trước đây, Gorbachev sẵn sàng liều lĩnh. (Chernenko đã đề nghị với Gorbachev ngay trước khi khai mạc hội nghị là nên dẹp việc này đi).
Một nhóm trợ lý bắt đầu phác thảo kế hoạch mùa thu tại một biệt thự ở ngoại ô; trong đó có Aleksandr Yakovlev vừa trở về Moskva năm 1983 và trở thành Viện trưởng Viện Kinh tế Thế giới và Quan hệ quốc tế (IMEMO) thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô, Vadim Medvedev, Trưởng ban Giáo dục và Khoa học thuộc Ban Bí thư và Valery Boldin. Các phụ tá này thừa nhận kỷ nguyên dư thừa trong nền kinh tế Liên bang đã qua. Giờ đây Liên bang đang phải đối mặt với sự khan hiếm lao động, nguồn nguyên liệu thô và đất nông nghiệp. Giai đoạn tăng trưởng mở rộng hầu như không còn nữa, muốn đạt được các thành quả kinh tế phải dựa vào sự phát triển về chiều sâu và tận dụng hiệu quả nguồn nguyên liệu sẵn có. Nguồn lực chủ yếu hiện nay là nguồn lao động. Ý tưởng cải cách hay cơ cấu lại nền kinh tế bắt nguồn từ việc so sánh giữa hai nền kinh tế lớn: kinh tế của Liên bang Xô viết với nền kinh tế Hoa Kỳ. Người Nga thường phải rượt đuổi người Mỹ và người Nga đã vạch ra các mục tiêu về số lượng, còn người Mỹ thì luôn thay đổi phương thức để đạt mục đích. Mỹ cùng các nền kinh tế thị trường phát triển bắt đầu nhập khẩu dầu mỏ, than đá, các nguyên liệu thô khác khi lợi thế so sánh quá rõ ràng. Họ nhanh chóng phát triển các ngành công nghiệp mới, hóa chất, điện tử và không gian vũ trụ, ở đó các sáng kiến về công nghệ được khuyến khích và phát triển nhanh chóng do biết chấp nhận rủi ro. Ngành công nghiệp Liên Xô chưa từng biết đến cuộc cách mạng này mà họ lại theo đuổi các mục tiêu gia tăng về lượng, lỗi thời, do vậy, khoảng cách về công nghệ ngày càng mở rộng đáng báo động. 1 Rất nhiều giải pháp dựa trên các sáng kiến khoa học kỹ thuật được đề xuất. Andropov chỉ thị cho Gorbachev và Ryzhkov làm việc cùng các chuyên gia trong các cuộc nghiên cứu của Ủy ban, vào tháng 3/1985, khoảng 110 công trình nghiên cứu quan trọng đã được tiến hành. 2 Một trong những công trình này có liên quan đến dự thảo một số dự án, một thành viên của Ban Quốc tế thuộc Ban Chấp hành Trung ương đã tóm tắt lý do căn bản của các dự án đó vào năm 1991 như sau:
Dù những kịch bản tư tưởng do các đồng sự của Gorbachev viết và thông qua khá khác nhau nhưng đều phục vụ một mục đích chính trị duy nhất: duy trì nhóm ưu tú trong Đảng cầm quyền. Điều có thể xảy ra hoặc là người ta duy trì được hệ thống xã hội chủ nghĩa hoặc là tài sản tập thể trở thành tài sản riêng của các thành viên cá nhân.
Novikov không coi chính sách công khai là bắt đầu sự chấm dứt của chủ nghĩa Marx-Lenin mà ngược lại, đó là sự quay trở về với chủ nghĩa Marx mà Đảng đã từ bỏ năm 1924.
Trong bài phát biểu trước hội nghị, Gorbachev đưa ra thuật ngữ về sự tăng tốc và “nhân tố con người”. Liệu có vai trò cho cơ chế thị trường? Gorbachev tóm tắt mối quan hệ hàng-tiền tồn tại dưới chế độ xã hội chủ nghĩa và thuật ngữ này cũng được sử dụng trong bài diễn văn đó. Tuy nhiên, những người cải cách lại coi thuật ngữ này như một nhân tố chủ đạo đối với nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Về mặt chính trị, Gorbachev cho rằng phần lớn những người cộng sản tin rằng không nhất thiết thị trường phải phát triển dưới mô hình chủ nghĩa xã hội đã phát triển. Song, vấn đề vẫn để ngỏ, liệu ông có thật sự hiểu rằng có rất nhiều cách tiếp cận thị trường khác nhau − và họ nên kế thừa cái gì. Đáng chú ý trong bài diễn văn là cách sử dụng cụm từ “công khai” và “dân chủ hóa”. Gorbachev có một trí nhớ cực kỳ tốt, ông có thể đọc thuộc lòng các dòng con số thống kê. Ông cũng tỉ mỉ ghi lại các phản ứng trong giới báo chí và các quan chức đối với bài diễn văn tháng 12/1984. Boldin cho biết Gorbachev có thể nhớ như in danh sách người không ủng hộ chính sách của mình để đáp trả họ sau này.
BẢO ĐẢM MỘT NỀN TẢNG CHÍNH TRỊ
Một tổng bí thư mới được bầu ra là để tiếp tục thực hiện các công việc của Bộ Chính trị và bảo vệ địa vị của các quan chức cấp cao trong chính quyền. Không giống tổng thống Mỹ hay thủ tướng Anh, tổng bí thư không được quyền lập nội các của mình và đưa ra các ý tưởng. Toàn bộ cải cách chủ yếu là các cải cách nội bộ hệ thống đều nhằm mục đích củng cố trật tự trong Đảng. Nếu các ủy viên Bộ Chính trị nhận thấy nhà lãnh đạo mới này có ý đồ làm suy yếu hệ thống, hoặc nói cách khác là đang đe dọa nền tảng quyền lực của họ, lập tức người này có thể bị mất chức. Gorbachev không thể ban hành các quyết định chính trị theo ý mình cho đến khi ông tạo dựng được một nền tảng quyền lực chắc chắn, mà với nó ông có thể yên tâm vì ông sẽ không thể bị thất sủng trong vòng một đêm. Ưu tiên số một của ông là phải tập hợp được nhiều người ủng hộ và bằng mọi cách thuyên chuyển những kẻ chống đối. Phải mất nhiều thời gian để một nhà lãnh đạo mới trở nên mạnh mẽ và được kính phục. Stalin, Khrushchev và Brezhnev đều mất ít nhất năm năm mới đứng vững ở vị trí này. Gorbachev mới giữ cương vị này được một năm. Một trong những nhân vật chỉ trích ông nặng nề nhất, Yeltsin, nhiều khi phải thừa nhận: “Ông ta quá khôn ngoan tới mức không thể dự đoán nổi”.
Tại phiên họp toàn thể Ban Chấp hành Trung ương ngày 23/4/1985, Gorbachev muốn tìm kiếm sự đồng tình của đa số ủy viên trong Bộ Chính trị bằng cách đề nghị bổ nhiệm Ligachev và Ryzhkov làm ủy viên chính thức (không cần trải qua thời kỳ dự bị thông thường) và đề nghị phê chuẩn Chebrikov làm ủy viên chính thức. Viktor Nikonov kế nhiệm Gorbachev làm Bí thư chuyên trách nông nghiệp trong Ban Chấp hành Trung ương nhưng không được đề cử vào Bộ Chính trị. Gorbachev nói rõ Ligachev là Bí thứ thứ hai mới và sẽ lãnh đạo Ban Bí thư. Ngày 1/7, tại một phiên họp toàn thể khác của Ban Chấp hành Trung ương, Grigory Romanov, người có thái độ thù địch với Gorbachev, buộc phải rời khỏi Bộ Chính trị và Ban Bí thư. Eduard Shevardnadze, Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Gruzia, thân tín lâu năm của Gorbachev 3 và là ủy viên dự khuyết đã trở thành ủy viên chính thức của Bộ Chính trị. Hai bí thư mới trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu: Lev Zaikov thay Romanov và Boris Yeltsin phụ trách xây dựng. Ngày 2/7, Andrei Gromyko, phụ trách vấn đề đối ngoại, được bổ nhiệm làm Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao và Shevardnadze trở thành Ngoại trưởng. Shevardnadze rất ngạc nhiên với việc bổ nhiệm này và ông trình bày với Gorbachev là ông kinh nghiệm và không có khả năng đảm trách công tác đối ngoại. Tuy nhiên, ông luôn nhất trí với quan điểm cũng như cách nhìn nhận thế giới của Gorbachev, điều luôn được đánh giá cao hơn chuyên môn ngoại giao.
Ban Đối ngoại rất sửng sốt với sự bổ nhiệm này và Gromyko cũng thật sự bị sốc vì ông luôn cho rằng Georgy Kornienko hay Anatoly Dobrynin sẽ là người kế nhiệm. Cả hai nhân vật này đều không ngớt lời chỉ trích Ngoại trưởng mới, cho rằng đó là người không có chuyên môn ngoại giao. Khi Ngoại trưởng Mỹ George Shultz yêu cầu Dobrynin mô tả về ngoại trưởng mới, vị đại sứ của Điện Kremlin miêu tả Ngoại trưởng Shevardnadze là “một người quê đặc”. Shevardnadze luôn giữ phụ tá ngoại giao Kornienko bên mình và làm theo những gì Kornienko nói cho đến tận năm 1986. Về sau, thái độ chống Mỹ của Kornienko dần hình thành và ông bị Phó chủ tịch Dobrynin buộc rời khỏi Ban Quốc tế.
Ngày 27/9/1985, Nikolai Ryzhkov nhậm chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô thay Nikolai Tikhonov. Ngày 15/10, Nikolai Talyzin, lãnh đạo mới của Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, được bầu cử làm ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, nhằm đẩy nhanh việc thực hiện kế hoạch. Ngày 24/12, Boris Yeltsin thay thế Viktor Grishin − biệt hiệu ″Bố già″, mắc tội tham nhũng − làm Bí thư Thành ủy Moskva. Hai tháng sau, Yeltsin trở thành ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị (nhưng ông cho rằng lẽ ra ông xứng đáng làm ủy viên chính thức từ lâu rồi). Tại Đại hội Đảng lần thứ 27 từ tháng 2 đến tháng 3/1986, chỉ có duy nhất một ủy viên mới được bầu là Lev Zaikov, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương phụ trách công nghiệp quốc phòng. Slyunkov và Solovev, các bí thư thứ nhất của Belarus và Leningrad, được đề cử là ủy viên dự khuyết. Điều này không gây nhiều ngạc nhiên vì người được bầu vào Bộ Chính trị đều có đủ tư cách và trình độ. Kuznetsov, Phó Chủ tịch Xô viết Tối cao và Boris Ponomarev, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương và là Trưởng ban Đối ngoại Ban Bí thư Ban Chấp hành Trung ương, đều thôi giữ chức vì họ đã ở độ tuổi 80. Tuy nhiên, chính trong Ban Bí thư Gorbachev mới là người để lại nhiều dấu ấn. Chỉ có Vladimir Dolgikh, phụ trách công nghiệp nặng và Mikhail Zimyanin, phụ trách văn hóa tuyên truyền vẫn còn được giữ chức từ thời kỳ Brezhnev. Năm bí thư mới được bầu: Aleksandra Biryukova, phụ trách vấn đề tiêu dùng, công đoàn và gia đình; Anatoly Dobrynin, người của Moskva ở Washington mới trở về, lãnh đạo Ban Quốc tế (đây là thắng lợi của Shevardnadze, ông muốn đẩy người của Gromyko ra khỏi Ban Đối ngoại và bổ sung người mới vào bộ máy Đảng); Vadim Medvedev, phụ trách quan hệ với các đảng cộng sản của các nước xã hội chủ nghĩa; Georgy Razumovsky, chuyên trách công việc tổ chức cán bộ và Aleksandr Yakovlev, phụ trách tuyên truyền. Tổng cộng, Gorbachev đã thay 14 trong 23 lãnh đạo các ban trong Ban Bí thư. Không một nhà lãnh đạo nào trước đây thay đổi nhiều nhân sự trong bộ máy Nhà nước và Đảng như vậy trong năm cầm quyền đầu tiên. Ở Liên bang Nga, 24 bí thư thứ nhất tỉnh ủy và khu ủy đã bị thay đổi, giống như 23 trong số 78 người trong các nước cộng hòa không phải Nga (thuộc các nước cộng hòa khác trong Liên Xô). Trong số 14 bí thư thứ nhất của các đảng cộng sản ở các nước cộng hòa, có bốn người mới. Trong Chính phủ, 39 trong số 101 bộ trưởng Xô viết bị sa thải. Trên toàn quốc khoảng một phần năm tổng số quan chức ở các cơ quan Đảng quan trọng nhất bị mất chức và số lượng các quan chức chính phủ bị sa thải hoặc bị thuyên chuyển công tác phải lên đến hàng nghìn. Những thay đổi về nhân sự trên chứng tỏ có sự đồng thuận trong hàng ngũ lãnh đạo cấp cao là các lãnh đạo thuộc thế hệ Brezhnev phải bị gạt ra khỏi hàng ngũ lãnh đạo. Báo chí ca ngợi đây là một thành công to lớn, nhưng lại không đề cập xem việc này có ý nghĩa đến mức nào. Một nhà quan sát đánh giá nó giống như việc “bình cũ, rượu mới mà thôi”. Các nhân vật kế nhiệm được dọn sẵn một môi trường chính trị ổn định như trước kia. Tuy nhiên có cải thiện trong bầu không khí và giới lãnh đạo sắc sảo cần phải thay đổi phương hướng và mục đích.
Gorbachev chỉ cần kêu gọi các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước mới được bổ nhiệm cần có nhiều trách nhiệm hơn nữa trước những mong muốn và đòi hỏi của nhân dân và làm việc có hiệu quả hơn, làm hết sức mình để xứng với cương vị đang nắm giữ. Với ê-kíp do chính tay mình lựa chọn, ông có thể thâu tóm nhiều quyền lực hơn, bổ nhiệm họ cũng như sa thải họ bất cứ lúc nào. Ai là người có thể giúp Tổng Bí thư thực hiện chức trách của mình? Aleksandr Yakovlev, Nikolai Ryzhkov, Eduard Shevardnadze, Egor Ligachev và Boris Yeltsin đóng vai trò chủ chốt trong giai đoạn 1985-1987. Trong số tùy tùng thân cận nhất của ông có Anatoly Chernyaev giữ vai trò cố vấn chính sách đối ngoại và ở mức độ nào đó về cải cách trong nước; Vadim Medvedev đứng đầu ban phụ trách quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa, 1986-1988 Valery Boldin cố vấn nông nghiệp cho đến năm 1987, sau đó giữ chức Trưởng ban Tổng hợp, chuyên phác thảo chương trình nghị sự cho Bộ Chính trị và soạn thảo các văn bản chính thức; Georgy Shakhnazarov, Phó ban chuyên trách quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa từ 1986-1988 và sau đó từ năm 1988 làm trợ lý chính thức cho Gorbachev; Ivan Frolov, giúp Gorbachev về mặt tư tưởng. Người có ảnh hưởng quan trọng nhất là Aleksandr Yakovlev − một người rất tài ba. Trước khi trở thành đại sứ Liên Xô tại Canada năm 1973, Yakovlev từng công tác trong Ban Bí thư Ban Chấp hành Trung ương. Ông cũng nắm rõ bộ máy tổ chức Đảng, sự thăng trầm của chủ nghĩa tư bản Bắc Mỹ và thế giới trí thức. Yakovlev là một nhân vật có khá nhiều ảnh hưởng cho đến năm 1988 và có thể được coi là cha đẻ của perestroika và chính sách công khai hóa. Mikhail Sergeevich tất nhiên là người kiến tạo chính. Chernyaev, Shakhnazarov và Frolov đều làm việc trong tạp chí World Marxist Review (Chủ nghĩa Marxist thế giới) ở Praha và công việc này đã mở rộng tầm nhìn của họ. Shakhnazarov là trợ lý thứ hai sau Yakovlev và cũng có ảnh hưởng trong tiến trình cải cách chính trị trong năm 1988 và sau đó. Điểm yếu của các trợ lý này, ngoại trừ Yakovlev, là không ai có kinh nghiệm công tác thực tế ở một nước phương Tây nào. Đây chính là điều cực kỳ quan trọng khi xem xét tiến trình cải cách chính trị ở Liên bang Xô viết. Quan trọng hơn là chỉ có Yakovlev có kinh nghiệm thực tế về thành công của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Boldin là một nhà kinh tế có tài nhưng chỉ trong nền kinh tế chỉ huy. Nhà kinh tế có ảnh hưởng nhất ở giai đoạn đầu của perestroika là Abel Aganbegyan, người đã bộc lộ quan điểm của mình tại Viện Hàn lâm Khoa học Novosibirsk, nhưng lại không có kinh nghiệm thực tế trong công nghiệp. Nhà xã hội học Tatyana Zaslavskaya cung cấp nhiều tài liệu nói về những sai lầm trong nền kinh tế do Đảng chỉ đạo.
CẢI CÁCH KINH TẾ VÀ XÃ HỘI
Ban lãnh đạo do Gorbachev đứng đầu hiểu rằng cải cách, hay cơ cấu lại nền kinh tế và xã hội, sẽ là một tiến trình phức tạp, đan xen nhiều cuộc cải cách. Hàng loạt những cải cách này sẽ còn tùy thuộc vào cân bằng lực lượng trong Bộ Chính trị. Lúc đầu, ông chỉ dự định cải cách nhẹ nhàng hệ thống nội bộ. Khi nào Gorbachev có được địa vị vững vàng trong Bộ Chính trị, ông mới có thể tiến hành các cải cách triệt để. Nhận thức của Gorbachev năm 1985 4 là cải cách bên trong hệ thống sẽ đạt được kết quả mong muốn. 5 Ông thể hiện tư tưởng đó trong bài phát biểu trước Bộ Chính trị ngày 11/3/1985, ngay sau khi trúng cử Tổng Bí thư: “Chúng ta không được thay đổi chính sách. Vì chính sách của chúng ta là đúng hướng và phù hợp, sát thực với tư tưởng Lenin. Chúng ta cần phải tăng tốc, tiến về phía trước, thẳng thắn, khắc phục các sai lầm và thấy tương lai xán lạn”. Tại phiên họp toàn thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 4, tư tưởng này được cụ thể hóa bằng chính sách tăng tốc. Mãi đến năm 1987, Gorbachev mới nhận ra ông đang phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng hệ thống: bản thân hệ thống này đang trên đà suy yếu cùng cực.
Người ta hy vọng nền kinh tế đang có những chuyển biến cơ bản, người lao động sẽ được hưởng lợi nhiều hơn. Động lực của nền kinh tế nằm ở khu vực chế tạo máy và vì thế, người ta quyết định nhanh chóng mở rộng khu vực này, chế tạo dụng cụ, thiết bị, động cơ điện và điện tử. 6 Abel Angbegyan cho rằng nền kinh tế Xô viết đang tăng trưởng ít nhất với tốc độ 4% so với nền kinh tế thế giới và đây cũng là giai đoạn tăng ngân sách quốc phòng. Khi các nguồn lực dự trữ không còn sẵn như trước, tăng trưởng đạt được thông qua sự gia tăng đáng kể trong năng suất lao động do việc áp dụng các thiết bị tiên tiến và tự động hóa. Mục đích đặt ra cho khu vực chế tạo máy là phải mở rộng 50-100% trong Kế hoạch năm năm (1986 1990). Sản xuất công nghiệp tăng 25%, đầu tư tăng 23,6% và thu nhập thực tế tính theo đầu người tăng 14%.
Người ta thông qua cách tiếp cận mới đối với lực lượng lao động, bởi từ trước đến nay trong công nghiệp, Liên Xô coi đó là nguồn lực rẻ mạt. Giờ đây mối quan hệ giữa máy móc và lực lượng lao động thay đổi bằng khái niệm “nhân tố con người” 7 . Tham vọng trong kế hoạch này rất rõ ràng, dựa trên các thành tựu kinh tế Xô viết từ các năm trước. Năm 1987, Gorbachev có bài viết rằng đầu những năm 1980, tăng trưởng thu nhập quốc dân gần như bằng không. 8 Năm 1988, Aganbegyan kết luận: Không có sự tăng trưởng kinh tế trong các năm 1981 1985. Mark Harrison kết luận tổng sản phẩm quốc dân/đầu người từ năm 1950-1974 chỉ đạt 3,6% hàng năm, nhưng sự tăng trưởng này ở giai đoạn giữa năm 1971 1985 chỉ còn 0,5% hàng năm. Điều này cho thấy trong suốt thời kỳ 1981 1985, tăng trưởng kinh tế là âm. Tuy nhiên, điều quan trọng cần nhấn mạnh là không ai nhận thức được điều này. Năm 1985, người ta không nhận ra rằng nền kinh tế Xô viết đang ở giai đoạn khủng hoảng. Vì chẩn đoán sai các vấn đề kinh tế trong năm 1985 nên phương thuốc kê ra ít có hiệu quả. Năm 1987, người ta đã chẩn đoán được đúng căn bệnh và kê ra phương thuốc triệt để, nhưng lúc này Gorbachev lại tập trung cải cách chính trị và chính sách đối ngoại.
Giai đoạn đầu của perestroika có thể được tóm tắt như sau:
• Tăng tốc: Tập trung đầu tư cho khu vực chế tạo máy nhằm nâng cao cơ sở kỹ thuật của nền kinh tế.
• Perestroika : Cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi các quan hệ công nghiệp.
• Nhân tố con người: Nhu cầu thiết lập các mối quan hệ kinh tế và xã hội của con người nhiều hơn thông qua việc tách quy trình quản lý kỹ thuật khỏi lực lượng lao động trong sản xuất công nghiệp. Đây là khởi đầu trong việc dỡ bỏ tính mệnh lệnh và tiến tới phát huy sáng kiến. Quá trình này dẫn đến tính công khai và dân chủ hóa.
• Chủ nghĩa xã hội phát triển: 9 Nỗ lực hợp nhất các nhân tố trên thành chủ nghĩa xã hội phát triển (giai đoạn mà xã hội Xô viết đã đạt được) và đặt nền tảng tiến lên mức độ cao hơn. Đó chính là cải cách nội tại hệ thống nhưng không có ý định làm suy yếu các nền tảng hệ thống xã hội chủ nghĩa.
Gorbachev tổng kết các vấn đề mà perestroika đang phải đối mặt:
Những vấn đề cơ bản có tầm quan trọng nhất như tìm cách tăng tốc để đạt được các tiến bộ khoa học kỹ thuật và đẩy mạnh sản xuất; cải thiện các hình thức sở hữu xã hội chủ nghĩa nhằm đảm bảo mối quan hệ chặt chẽ giữa người trực tiếp sản xuất và phương tiện sản xuất, củng cố thêm ý thức làm chủ tập thể của người lao động đối với tài sản xã hội chủ nghĩa; linh hoạt hóa và tối ưu hóa hệ thống các lợi ích, trong đó lợi ích quốc gia phải được đưa lên hàng đầu; phát triển cơ sở khoa học và tiến hành lập kế hoạch kinh tế là những biện pháp chủ yếu thực hiện chính sách của Đảng; cải thiện hệ thống quan hệ phân phối.
Câu nói diễn giải dài, phức hợp này giải thích cơ chế kinh tế mà nhà lãnh đạo này đang muốn áp dụng. Ông tin rằng khi được giải phóng khỏi sự quản lý của các nhà kế hoạch tại Trung ương, các doanh nghiệp nhà nước sẽ trở thành các nhân tố tác động thị trường. Cuộc thảo luận về sở hữu tập thể bắt đầu năm 1986 nhưng nó chỉ được coi là vấn đề thứ yếu. Quá trình tìm kiếm một cơ chế kinh tế bỏ qua hai vấn đề cơ bản: quyền sở hữu và giá cả. Vấn đề sở hữu không được coi trọng đúng mức. Làm sao để cân bằng cung và cầu nếu không có một cuộc cải cách giá tổng thể?
Gorbachev thất vọng khi các giải pháp triệt để của ông không được ủng hộ. Điều đó thể hiện rõ trong báo cáo của ông tại Đại hội Đảng lần thứ 27, khi ông nói rằng nhiều người muốn cải thiện tình hình nhưng lại không muốn thay đổi gì. 10 Một trong những lý do phản đối cải cách là mối quan tâm lâu đời của người Nga về chủ nghĩa bình quân. Gorbachev đã phản ánh hiện tượng này bằng một câu chuyện cười, bác bỏ cạnh tranh bên trong cá nhân (hội chứng đố kỵ láng giềng). Một người nông dân đang cày trên một thửa ruộng và tìm được một cái chai. Khi anh ta mở nắp chai, một vị thần hiện lên và ban cho anh ta một điều ước.
“Con hãy nhìn con bò của Vasya đằng kia. Anh ta vắt sữa, làm ra bơ và pho mát, sau đó bán các thứ đó ra chợ và kiếm được khá nhiều tiền. Con có muốn ta cũng cho con một con bò như của Vasya không?” Vị thần hỏi, người nông dân nhanh nhảu đáp: “Không đâu, con muốn ngài giết con bò đó đi!”
Trong nhận thức của nhân dân, cải cách chỉ là việc các nhà chức trách quan liêu nói ngoài miệng, nhưng trên thực tế họ lại kìm hãm nó. Câu chuyện lan truyền ở Minsk vào cuối năm 1986 minh họa rất rõ đánh giá này. Gorbachev, Reagan và Mitterrand gặp nhau và bắt đầu thảo luận vấn đề của họ. Mitterrand nói ông ta có chín nhân tình nhưng duy nhất chỉ có một người lừa được mình, nhưng lại không thể biết đó là ai. Reagan nói đó là vấn đề nhỏ so với vấn đề của ông ta. Ông ta có 50 vệ sĩ, trong đó có một người là tình báo của KGB nhưng lại không thể phát hiện ra kẻ đó. Gorbachev xua tay và nói vấn đề của ông còn nghiêm trọng hơn nhiều. Ông có 100 vị bộ trưởng trong Chính phủ và chỉ một người trong số họ thực hiện chính sách cải cách nhưng ông lại không biết người đó là ai.
Có hai phương thức cải cách chủ yếu nền kinh tế kế hoạch tập trung: hợp lý hóa và cải cách mạnh mẽ. Cải cách của Kosygin năm 1965, cơ chế kinh tế mới của Hungari, cải cách kinh tế của Ba Lan năm 1970 là những ví dụ về cải cách kinh tế hợp lý hóa giá cả được các nhà lập kế hoạch đặt ra, hoạt động kinh tế chịu sự chỉ đạo của trung ương. Quyền sở hữu là thứ yếu. Các cải cách này dẫn đến một số tiến bộ nhỏ nhưng không bền vững. Các nhà kinh tế và chính trị gia đã tham gia vào một cuộc nghiên cứu vô vọng nhằm tìm ra một cơ chế kinh tế “hoàn hảo”. Những người đề xướng ra trường phái tư duy này được gọi là những nhà hợp lý hóa. Họ là những người muốn tìm ra một giải pháp thứ ba, giữa nền kinh tế thị trường và nền kinh tế chỉ huy.
Những người coi giải pháp thứ ba này là chuyện hoang đường kết luận rằng những người hợp lý hóa đang tự dối mình. Cách duy nhất để hợp lý hóa một nền kinh tế chỉ huy thành công là phá bỏ nó đi. Cách tiếp cận này được cho là liệu pháp sốc, là cải cách nhanh và mạnh, đó là Chương trình cải cách 500 ngày. Người ta nhấn mạnh đây là một cuộc cải cách chấn động, và vì những người đề xướng ra nó cũng chính là những người muốn tạo ra sự thay đổi mạnh mẽ. Họ chủ trương một liệu pháp ngắn hạn, nhạy bén và gây sốc. Nó được triển khai lần đầu tại Ba Lan, bắt đầu ngày 1/1/1990. Một nền kinh tế thị trường sẽ được thiết lập càng nhanh càng tốt. Giai đoạn đầu là cải cách giá cả. Hạn chế giá cả sẽ bị dỡ bỏ đối với càng nhiều mặt hàng càng tốt để giải quyết vấn đề lạm phát tăng cao và sự khan hiếm hàng hóa triền miên. Các thể chế kinh tế mới phải được định ra, bắt đầu là tư nhân hóa. Phá bỏ độc quyền và cơ cấu lại các xí nghiệp đang hoạt động có ý nghĩa quyết định. Nền kinh tế lúc này được tác động bởi một hệ thống giá cả đích thực, bắt đầu chuyển mình biến đổi đau đớn.
ĐẨY MẠNH PERESTROIKA
Mọi người đều muốn gặp vị tổng bí thư mới và bắt tay ông. Đầu tiên ông tới thăm Nhà máy sản xuất ôtô Likhachev ở Moskva vào tháng 4/1985. Boldin khuyên Gorbachev nên đến nhà máy như một công nhân bình thường đi làm, như vậy mới có thể đánh giá và biết được đời sống của công nhân khó khăn đến mức nào. 11
Mikhail Sergeevich đến không phải khen ngợi, mà chỉ rõ nước Nga đang tụt hậu về mặt công nghệ. Vì không có nguồn lao động thặng dư và nguyên liệu thô nên việc tăng trưởng sản xuất phải thông qua năng suất lao động. Sau đó ông đi thăm một bệnh viện và được hướng dẫn vào các phòng bệnh nhân trông khỏe mạnh, tóc cắt ngắn. Họ hết lời ca ngợi các y bác sĩ bệnh viện và đồ ăn ở đây nhưng lại rất lờ mờ về bệnh tật của mình. Có tin tiết lộ rằng cơ quan an ninh KGB đã tống những bệnh nhân thật ra ngoài và thế người của họ vào đó! Sau đó Mikhail Sergeevich lại được mời tới thăm nhà của một gia đình công nhân bình thường và thấy trên bàn đầy rẫy các món ăn đặc sản. 12
Ngày 15/5, ông có một chuyến công tác thành công tới Leningrad và ông cảm thấy hài lòng đến nỗi chỉ thị phát trên truyền hình toàn văn bài phát biểu của mình trước giới chức cốt cán của Đảng. 13 Ông dần lấy lại tự tin phát biểu mà không cần nhìn vào tờ ghi các chi tiết. Tuy nhiên, điều này lại bộc lộ những điểm yếu của ông. Ông thấy khi phát biểu ứng khẩu rất khó nói được trọn vẹn các câu, còn các điểm cần nhấn mạnh thường rườm rà và không rõ nghĩa, tản mạn từ đề tài này sang đề tài khác. Mặt khác, nó cũng thể hiện phản ứng rất nhanh nhạy của ông.
Tháng 6, ông tới Kiev và Dnepropetrovsk thuộc Ukraine và cũng gây được ấn tượng sâu sắc. Trên cương vị Tổng Bí thư, ông được thông báo vắn tắt tình hình và có thể giải đáp các khúc mắc, băn khoăn rất nhanh và sắc sảo, không cần bất kỳ sự trợ giúp nào từ các trợ lý. Giới lãnh đạo Đảng ở Ukraine không mấy hài lòng khi ông nêu những khó khăn thật sự trong công nghiệp, nông nghiệp ở đây. Ukraine giống như khu vực bất khả xâm phạm trước mọi chỉ trích phê bình dưới thời Brezhnev.
Sau đó, Mikhail Sergeevich khiển trách ngành công nghiệp dầu mỏ và khí đốt ở Tây Siberia và lực lượng cảnh sát trong chuyến thăm bất ngờ vào đầu tháng 9. Ông thật sự kinh hoàng trước sự tàn phá thiên nhiên ở những nơi ông đặt chân tới và sự lãng phí nguồn tài nguyên nghiêm trọng. Ông ước tính tỷ lệ lọc dầu là 58% trong khi đó mức độ này trên thế giới là 80% và một mét khối gỗ lại chỉ chế biến ra được một phần rất nhỏ thành phẩm. Ông cũng biết rằng năng lượng tiêu thụ để sản xuất một đơn vị sản phẩm ở Liên bang Xô viết cao gấp vài lần so với phương Tây. Ông được tiếp đón như một anh hùng và làm ấm lòng người dân khi nói rằng perestroika sẽ giải quyết được mọi khó khăn vì nhân dân chính là người thực hiện chính sách cải cách đó. Tuy vậy, có một vấn đề ông không thể giải quyết được. Công nhân mong muốn có nhiều nhà nghỉ tập thể cho họ ở khu vực phía nam đất nước, nơi họ có thể đi nghỉ hoặc dưỡng già khi về hưu. Ông lại khẳng định họ nên sinh sống và nghỉ hưu ở miền Bắc, điều này có giá trị kinh tế cho đất nước. Điều đó không được mọi người tán thưởng vì họ là những người sống ở Cực Bắc thiếu các tiện nghi hiện đại. Ông đã bỏ lỡ cơ hội tạo dựng chất kết dính cho chính sách mới được gọi là “nhân tố con người”. Nếu ông đề xuất sản lượng tăng gấp đôi, nhà tập thể sẽ tăng gấp đôi thì ông đã thúc đẩy được họ làm việc cật lực. Rượu mạnh là người đồng hành của dân cư vùng Cực Bắc và những người đang nghe ông lại không thích nghe các bài thuyết giáo của ông về tai họa của nạn nghiện rượu. Chiến dịch chống uống rượu mạnh xem ra chẳng có tác dụng gì ở miền Bắc. 14
Mikhail Sergeevich ham phát biểu trước công chúng và trong các cuộc phỏng vấn báo chí. Ông nói năng rất hoạt bát. Theo lệ, các bài diễn văn của Tổng Bí thư đều được Bộ Chính trị duyệt trước, nhưng lệ này đã bị phá bỏ do số lượng các bài phát biểu và các bài phỏng vấn có sự tham gia của khách nước ngoài ngày càng tăng nhanh. Các ủy viên Bộ Chính trị và các ủy viên Ban Chấp hành Trung ương quen với việc nắm hiểu ý tưởng mới nhất từ các phương tiện thông tin đại chúng. Họ chưa kịp nghiền ngẫm tác động của một sáng kiến thì sáng kiến khác đã phát huy. Bất kể Mikhail Sergeevich đi đâu, Raisa cũng tháp tùng chồng tới đó. Bản thân bà quan tâm đến thông tin phát trên truyền hình và phản đối việc Mikhail Sergeevich chỉ được ghi hình từ phía sau. Aleksandr Yakovlev cho rằng việc Tổng Bí thư được quay phía sau lưng chẳng có gì liên quan cả:
Xét cho cùng, bất kỳ ai đã gặp ông đều xác nhận rằng nhìn nghiêng phía sau, trông ông đẹp trai và quý phái khác thường, lạ là ông đến tiệm cắt tóc hàng ngày, và nhiều người sẽ lấy làm hãnh diện nếu họ được chiếu như vậy trên tivi hàng ngày. Thế thì còn có gì phải kêu ca ầm ĩ? 15
Những năm đầu của perestroika đánh dấu bằng sự say mê nhiệt tình, điển hình cho giai đoạn đầu của một cuộc cách mạng. Trong suốt thời kỳ này, những mục tiêu trái ngược nhau có thể đạt được vì mọi người đều có nguyện vọng thống nhất muốn thay đổi. Chắc chắn là các lợi ích sẽ khác nhau và tình hình căng thẳng sẽ xuất hiện, gây cảm giác bị vỡ mộng và tức giận. Gorbachev bắt đầu nhận thấy tình hình này năm 1988. Giai đoạn đầu của cải cách được ghi nhận như sau:
• Có sự đồng lòng rộng rãi trong xã hội về bản chất của chính sách cải cách đã được phổ biến. Việc này làm lu mờ sự thật là có một nhóm đặc quyền đặc lợi chống đối lại cải cách.
• Không có một nghiên cứu nghiêm túc nào để thẩm tra các nhóm tư lợi này có vận động hành lang hiệu quả nhằm bảo vệ quyền lợi của họ và phá hoại cải cách hay không. Điều này xuất phát từ lòng tin chỉ có mâu thuẫn hay mâu thuẫn không đối kháng mới có thể tồn tại. Các mâu thuẫn là những thiếu sót trên bề nổi của chủ nghĩa xã hội và có thể được khắc phục nhanh chóng nhưng mâu thuẫn đối kháng thì sẽ khiến xã hội căng thẳng và thậm chí có thể dẫn tới một tình thế cách mạng. Andropov − Tổng Bí thư năm 1983, thừa nhận có tồn tại mâu thuẫn trong chế độ chủ nghĩa xã hội nhưng lại không đề cập liệu nó có phải là loại mâu thuẫn đối kháng hay không. Chernenko thẳng thắn phủ nhận rằng dưới chế độ chủ nghĩa xã hội không bao giờ có mâu thuẫn đối kháng. Trong bài phát biểu tháng 12/1984, Gorbachev tuyên bố: “Dưới thời kỳ chủ nghĩa xã hội, không tồn tại mâu thuẫn đối kháng”.
• Người ta cho rằng sự phản đối perestroika chỉ đến từ một số thành viên trong giới lãnh đạo cao cấp của Đảng, những người thường đặt lợi ích riêng lên trên lợi ích chung. Giới lãnh đạo thời Gorbachev chấp nhận những người còn sót lại của tư tưởng bảo thủ trong một số bộ phận nhân dân. Tuy nhiên, họ tin rằng sự gắn kết giữa các lợi ích trong cải cách, thuyết phục và tuyên truyền giáo dục cũng sẽ giúp khắc phục được những trở ngại đó.
• Cải tổ giống như tập trung huy động mọi nguồn lực, gợi cho người ta nhớ tới các chiến dịch của những năm 1930. Điều này hàm ý mọi người cùng nhau chia sẻ quyền lợi và nghĩa vụ với nhau.
• Tin rằng mọi người dân đều chấp nhận nhu cầu cải cách và bản chất của nó đã khiến giới lãnh đạo tự dối mình để tin rằng cải cách có thể nhanh chóng đạt được và giải quyết được hết thảy mọi vấn đề đang nổi cộm trong nhiều năm qua của đất nước.
• Điều này dẫn tới niềm tin là vẫn có thể đồng thời đạt được các mục tiêu trái ngược nhau. Một ví dụ điển hình là chiến dịch chống uống rượu mạnh có thể giải quyết nạn say rượu 16 nhanh chóng nhưng lại dẫn đến việc mất nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước ở tại thời điểm đang cần một khoản đầu tư lớn hơn cho khu vực chế tạo máy. Gorbachev phát động chiến dịch này vào tháng 5/1985 và ông đơn thuần cho rằng nếu không sản xuất rượu thì người dân sẽ không uống rượu nữa. Theo Nikolai Ryzhkov, lượng vodka được chưng cất giảm đến 50% trong mỗi năm, lượng rượu nho và bia giảm đến hai phần ba. Người uống rượu lại nhờ đến thuốc đánh răng, xi đánh giày hay rượu lậu. Ryzhkov ước tính ngân sách trong ba năm (1986 1988) thiệt hại 67 tỷ rúp (tương đương 100 tỷ đôla Mỹ với tỷ giá hối đoái chính thức lúc đó) thu nhập hàng năm từ thuế của nhà nước và cùng một lúc sa vào tình trạng khan hiếm nghiêm trọng. Khan hiếm rượu mạnh là nguyên nhân làm gia tăng nhóm tội phạm có tổ chức. Chiến dịch chống uống rượu bị bãi bỏ năm 1988 nhưng thiệt hại do nó tạo ra thì vẫn còn mãi về sau.
• Các nhà kinh tế không bình luận những mâu thuẫn trong các mục tiêu của chính sách cải cách. Tăng tốc nghĩa là tập trung mọi nguồn lực cho khu vực chế tạo máy và cùng lúc đó người ta hy vọng mức sống nhân dân được tăng lên đáng kể. Điều khác thường là lúc ấy không một ai vạch ra được những mâu thuẫn này. 17
• Lao động cá thể và tập thể đều được công nhận là hợp pháp trong suốt giai đoạn đầu của cải cách. Tuy nhiên, giới lãnh đạo chóp bu trong Đảng đều ra sức phản đối tự do giá cả − tình trạng phổ biến trong các hợp tác xã và trong hoạt động tư nhân, và mong muốn kiểm soát được hoạt động này. Sự phản đối của các tổ chức Đảng lên đến cực điểm trong chiến dịch 1986-1987 chống “nguồn thu nhập không do lao động” của các viên chức trong Đảng. Các nhà chức trách địa phương chớp thời cơ cản trở việc chuyên chở hàng hóa hợp pháp đến các chợ nông trang ở một số nơi. Người ta đã sử dụng “búa rìu và máy ủi” để phá sạch các vườn rau vụ sớm trong nhà kính và màng nilon. 18
• Bản thân giới lãnh đạo tin vào quyền lực tuyệt đối của họ và họ có thể đạt được mọi mục tiêu mong muốn.
• Perestroika giai đoạn I cho rằng nền kinh tế không ở trong tình trạng khủng hoảng. Các biện pháp mới đề ra là nhằm cải thiện hệ thống kinh tế hiện có. Mặc dù Đảng đã tránh sử dụng từ “kinh tế thị trường”, nhưng các nhà kinh tế cấp tiến đã tạo nên phạm vi ảnh hưởng rộng rãi, không gì sánh kịp kể từ những năm 1920.
• Người ta cho rằng perestroika sẽ đem lại mức sống cao và sẽ không có thất nghiệp khi nền kinh tế được cơ cấu lại. Sẽ không có kẻ thất bại, chỉ có người thắng cuộc. Cuối cùng, mọi người quyết định dứt khoát ủng hộ chủ nghĩa xã hội. Họ sẽ không tha thứ thái độ xem nhẹ sở hữu các phương tiện sản xuất xã hội chủ nghĩa và những lợi ích xã hội của chủ nghĩa xã hội.
Trên giấy tờ, cải cách kinh tế dường như đầy hứa hẹn. Tuy nhiên trong lĩnh vực nông nghiệp, người ta không tin được mức độ kém hiệu quả của nó. Egor Gaidar tính có 590 tỷ rúp (tương đương 890 tỷ đôla Mỹ theo tỷ giá hối đoái tại thời điểm đó) được đầu tư vào khu vực nông nghiệp nông thôn từ năm 1971-1985. Nhưng phần mà nông nghiệp đóng góp trong thu nhập quốc dân năm 1985 lại chỉ bằng đóng góp của ngành này vào đầu thập niên 1970. Nông nghiệp thật sự là một hố đen của nền kinh tế. 19
CHỦ TRƯƠNG CÔNG KHAI
Chủ trương công khai ngày càng trở nên quan trọng sau vụ xử lý không đến nơi đến chốn thảm họa hạt nhân Chernobyl tháng 4/1986. Phản ứng của công chúng chứng tỏ rằng các phương tiện thông tin đại chúng chính thức ít được tín nhiệm. Điều này cho phép Aleksandr Yakovlev thổi sức sống mới vào một số bộ phận chương trình trong hệ thống thông tin đại chúng. Ông điều Vitaly Korotich từ Kiev về làm Tổng biên tập tạp chí Ogonek, khi đó đang là một tạp chí rất buồn tẻ, bán không chạy. Vụ việc này có tác dụng cải tổ một cách cơ bản một cơ quan ốm yếu. Tuy nhiên, Korotich coi chủ trương công khai chẳng khác gì với việc biến một bà nạ dòng trở lại thành cô gái đồng trinh. Năm 1986, hàng loạt các tổng biên tập mới được đưa về để quản lý báo Moskovskie novosti (Tin tức Moskva), Literaturnay gazeta (Báo Văn học), Izvestiga (Tin tức) và các tờ báo có ảnh hưởng khác như tờ Novy mir (Thế giới mới) và Znamya (Ngọn cờ).
Ngày 16/12/1986, Gorbachev gọi điện cho Andrei Sakharov đang bị đi đày ở Gorky (Nizhny Novgorod) để mời ông về Moskva. Song, khi trở về ông bị đối xử như một kẻ cùng đinh (ông hứa không dính líu đến chính trị) và mãi đến mùa hè năm 1987, các phương tiện thông tin đại chúng Liên Xô mới dám nhắc đến tên ông.
Gorbachev không biết phải làm thế nào với Sakharov. Tại cuộc họp Bộ Chính trị ngày 29/8/1985, ông thông báo vào cuối tháng 7 đã nhận được một bức thư của nhân vật Sakharov đầy tiếng tăm, xin phép cho vợ là Elena Bonner được xuất ngoại để chữa bệnh. Chebirkov tiết lộ lý do chủ yếu phản đối việc cho phép Sakharov ra nước ngoài là của Bộ trưởng Bộ Chế tạo máy công nghiệp nhẹ, là bộ sản xuất vũ khí hạt nhân, vì sợ rằng người ta sẽ giao cho Sakharov một phòng thí nghiệm để tiếp tục nghiên cứu về quân sự. Ông Bộ trưởng kết luận bằng lời phát biểu: “Hành vi của Sakharov bị bà vợ Bonner điều khiển”. Gorbachev đáp lại: “Sẽ xuất hiện chủ nghĩa phục quốc Do Thái“. Gorbachev lại đặt câu hỏi liệu có thể đòi Sakharov tuyên bố ông sẽ không ra nước ngoài không. Chebrikov e ngại nếu họ chỉ trích nghiêm khắc Sakharov, ngay trước khi bước vào cuộc họp giữa Gorbachev với Mitterrand và Reagan, đó sẽ là một điểm yếu. Mikhail Zimyanin là người không kiềm chế hơn cả, ông nói về Bonner: “Bà ta là một con rắn độc bẩn thỉu và là mụ đàn bà có tư tưởng đế quốc!” Gorbachev chất vấn liệu có nên để bà ta xuất ngoại hay giữ lại trong nước thì hơn. Ông tóm tắt kết luận rằng mọi thành viên đã nhất trí. Họ khẳng định việc nhận lá thư và vấn đề này đã được bàn bạc kỹ lưỡng. Nguyện vọng ra nước ngoài của Bonner là có thể được chấp nhận nhưng tất cả đều phụ thuộc vào ý định và mục đích xuất ngoại của bà. Điều đó xảy ra thật, Sakharov hứa không xin cấp thị thực xuất cảnh và Bonner chấp nhận đứng ngoài các vấn đề chính trị ở nước ngoài. Trong suốt hai năm 1985-1986, Gorbachev để ý chặt chẽ đến Sakharov. Theo thông tin từ cơ quan KGB, ông đã nhận được các bản ghi âm các cuộc nói chuyện của Sakharov và các đoạn trích từ hồi ký của Sakharov. Bộ Chính trị lật lại vấn đề tháng 6/1986, sau khi Gorbachev nhận được thư của Sakharov yêu cầu trả tự do cho tù chính trị. Chebrikov nói rõ rằng Sakharov và vấn đề tù nhân chính trị gắn liền với nhau, không thể giải quyết riêng từng vấn đề. Ông cũng cho rằng nếu Sakharov được phép quay lại Moskva, ông phải cam kết từ bỏ các hoạt động xã hội. Song, theo ông, Bonner là một cản trở khó có thể vượt qua bởi bà ta muốn đẩy Sakharov vào cuộc chiến đối đầu với chính quyền Xô viết.
Khi Sakharov trở về Moskva tháng 12/1986, ông chấp nhận từ bỏ toàn bộ hoạt động xã hội của mình. Gorbachev đã khôn khéo trung lập hóa vị viện sĩ hàn lâm này. Tuy nhiên, Gorbachev nhận thấy ông cần sự ủng hộ của Sakharov và đây là cơ hội đưa ông này tái xuất trên chính trường. Đối với Gorbachev, Sakharov là nhân vật bất đồng chính kiến số một. Vị học giả này, đáp lại lời khen ngợi vào tháng 1/1989 khi ông đặt danh hiệu cho Gorbachev là nhân vật bất đồng chính kiến số một.
Gorbachev cũng phải tranh thủ giới trí thức và những người bất đồng chính kiến trước đây. Ông cần có đồng minh trong cuộc chiến với các nhân vật bảo thủ trong Đảng. Một trong những nhân vật lợi dụng tình thế này gây phiền phức nhất là Egor Ligachev, người chống lại bất kỳ ai gièm pha và bôi nhọ các thành quả của Đảng và Xô viết. Chủ trương công khai đối với ông là khuếch trương những điều tốt đẹp của hệ thống cũ và không công kích nó. Một cuộc chiến xảy ra sau đó giữa Ligachev và Aleksandr Yakovlev, chính là là điều Gorbachev đã đoán định.
Đại hội Đảng lần thứ 27, từ tháng 2 đến tháng 3/1986 là một sự kiện có tác động cảnh tỉnh. Mọi cố gắng đều tập trung vào việc xem xét báo cáo của Mikhail Sergeevich trước Đại hội và Raisa đã tham gia tích cực vào các cuộc thảo luận này. Gorbachev bắt đầu cảm thấy một số trong những người mà ông ưu ái đề cử và bổ nhiệm lại không mặn mà lắm với cải cách và có nguy cơ họ đang coi đó chỉ là một chiến dịch mà thôi. Báo cáo của các nhà lãnh đạo các nước cộng hòa chỉ là bài thuộc lòng lặp đi lặp lại chán ngắt về sự thành công mà không có dấu hiệu tự kiểm điểm. Một lá thư của một người bạn học cũ của Gorgachev tại trường Đại học Tổng hợp Moskva báo với ông tuyệt nhiên không có chuyển biến gì ở Gorky (Nizhny Novgorod).
Bộ Chính trị đi đến kết luận tháng 4/1986 là perestroika đã vấp phải sự chống đối của bộ máy chính quyền và Đảng, tựa như có một con đập chắn ngang con đường cải cách. Tháng 6/1986, Gorbachev tấn công mạnh mẽ vào Ủy ban Kế hoạch Nhà nước và các cơ quan kinh tế. Tháng 7/1986, Gorbachev triệu tập các tổng biên tập các báo địa phương và lên tiếng quở trách họ về sự thụ động. Họ yêu cầu ông trực tiếp nói chuyện với bí thư thứ nhất tỉnh ủy, khu ủy, thành ủy. “Suy cho cùng, các báo chúng tôi là người phát ngôn cho họ, và chính họ không muốn chủ trương công khai”.
Trong suốt chuyến đi Viễn Đông, Gorbachev thật sự bị sốc trước sự vô tâm và vô trách nhiệm của các nhà chức trách địa phương đối với dân chúng. Một lần nữa công cuộc cải tổ không đến được với người dân vùng này. Một bí thư thứ nhất của một huyện Moskva đã khuyên cấp dưới nên chờ đợi bởi trong vài năm tới mọi việc sẽ ổn định. Điều gì đã được thực hiện? Cuối hè ông đã dự tính một cuộc cải cách hệ thống chính trị.
Tháng 1/1987, phiên họp toàn thể Ban Chấp hành Trung ương tuyên bố một đợt tự do nói về nạn quan liêu và đồng chí nào cũng có thể công kích nó. 20 Nhưng đó chỉ là hình thức hay thật sự có thay đổi rộng khắp và mạnh mẽ trong nhận thức? Sự phản đối chính sách công khai xuất hiện lần đầu tiên trong phiên họp toàn thể. Rõ ràng là các nhà lãnh đạo cao cấp của Đảng không chịu từ bỏ đặc quyền đặc lợi của họ nếu không có đấu tranh. Chính sách công khai là một phát hiện mới. Vào tháng 1/1987, chấm dứt việc phá sóng Đài Phát thanh BBC và ngay tiếp sau đó là với Đài Deutsche Well (Đài Phát thanh Làn Sóng Đức) và Đài Tiếng nói Hoa Kỳ. Khi Margaret Thatcher thăm Moskva vào tháng 3/1987, bà được phỏng vấn trên truyền hình và bà đã đập tan lý lẽ của các phóng viên nam một cách xuất sắc. Bà đặc biệt lên tiếng chỉ trích sự vi phạm nhân quyền nghiêm trọng của Liên Xô và xâm phạm Afghanistan. Tháng sau, George Shultz đã cãi lại người phỏng vấn mình và thông báo với anh ta là người Afghanistan muốn quân đội Xô viết rút quân về nước.
VẤN ĐỀ KINH TẾ
Gorbachev không nắm bắt được bản chất thực của việc quân sự hóa nền kinh tế khi ông nhận chức Tổng Bí thư. Thảo luận về quân sự, KGB và ngoại thương đều là những vấn đề cấm kỵ trong Bộ Chính trị trước khi ông lên cầm quyền. Đầu năm 1987, các tính toán hé lộ quân sự tiêu tốn 40% ngân sách quốc gia chứ không phải con số 16%, chiếm 20% GDP chứ không phải chỉ có 6% như người ta tưởng. Nghĩa là trong số 25 tỷ rúp dành cho nghiên cứu và phát triển, 20 tỷ rúp đã được đầu tư cho các công trình quốc phòng. Do vậy, gánh nặng quốc phòng Xô viết lúc đó xấp xỉ gấp bốn lần so với nước Mỹ.
Chính sách tăng tốc, chủ trương đẩy mạnh chế tạo máy đã làm cho tổ hợp công nghiệp-quốc phòng được hưởng lợi nhiều nhất. Lao động, năng lượng và nguyên liệu đầu tư cho một đơn vị sản phẩm đầu ra cao gấp 2,5 lần so với chi phí của các nước phương Tây. Trong lĩnh vực nông nghiệp, các chi phí đó cao gấp 10 lần. Các số liệu này làm cho người ta sửng sốt nhưng chúng đã nêu lên được vấn đề. Con quái vật khổng lồ này phải được xoay chuyển và thúc đẩy ra sao để hiệu quả hơn. Đến đầu năm 1987, Gorbachev nhận thấy các chiến dịch tăng cường kỷ luật không mấy tác dụng. Quản lý và lao động cần được thúc đẩy để phát huy hiệu quả.
Đầu năm 1987, nền kinh tế bắt đầu hé lộ các dấu hiệu báo động, sản lượng công nghiệp giảm 6% so với tháng 2/1986, chủ yếu là trong lĩnh vực chế tạo máy móc và ngành công nghiệp nhẹ. Các ngành hóa chất và luyện kim cũng đang trong tình trạng đáng lo ngại. Cuộc họp Bộ Chính trị tháng 2/1987 đã đi đến kết luận buồn thảm là kế hoạch vạch ra nhằm đạt được các tiến bộ về khoa học kỹ thuật và hiện đại hóa ngành chế tạo máy đã hoàn toàn thất bại. Người ta đã thông qua các biện pháp quyết liệt hơn. Bắt đầu bằng việc phác thảo đường lối cải cách kinh tế cấp tiến. Rõ ràng, đã xuất hiện các cuộc tranh cãi kịch liệt với Thủ tướng đương nhiệm Nikolai Ryzhkov. Giá cả phải đáp ứng thị trường và do Nhà nước điều chỉnh. Ryzhkov nhấn mạnh cải cách “không được vượt quá khuôn khổ chủ nghĩa xã hội”. Gorbachev tin với quan điểm như vậy, một số người sẽ bắt đầu coi vị Thủ tướng này là người bảo thủ.
Có nhiều quan điểm trái ngược nhau về việc xác định nền tảng của chủ nghĩa xã hội, với Gorbachev, ông sẵn sàng vượt ra ngoài các giới hạn của cơ chế đang tồn tại từ những năm 1930 để cải thiện và phát triển nó. Trong cuộc thảo luận ở Bộ Chính trị vào tháng 5/1987, Ryzhkov thẳng thắn chỉ rõ ông sẽ duy trì quyền lực của Nhà nước. Khi được hỏi về các chức năng nào của các bộ phải từ bỏ trong hệ thống mới, ông trả lời: “Không gì hết!” Các quan chức trong bộ máy Đảng sẽ không can thiệp vào quản lý kinh tế mà tập trung vào việc tạo dựng một hệ thống quản lý dân chủ hơn. Ligachev không vừa lòng với quan điểm này và biện luận mạnh mẽ rằng cải cách không phải rút gọn là dân chủ hóa mà phải củng cố chế độ xã hội chủ nghĩa. Ligachev kiên định trước sau như một rằng Đảng phải là động lực của sự thay đổi, tôn trọng kỷ luật là vô cùng quan trọng. Ông thiên về thay đổi nội bộ hệ thống và cải cách nên vẫn ở phạm vi hệ thống kinh tế − xã hội. Ligachev chống đối kịch liệt việc tư hữu hóa nông nghiệp, thậm chí cả hợp tác xã, ông tin rằng nông trang tập thể và nông trường quốc doanh sẽ được củng cố mạnh mẽ. Cơ chế thị trường đối với ông là điều ghét cay ghét đắng. Sự bất đồng sâu sắc về cách thức thực hiện cải cách giữa Gorbachev và Ligachev rõ ràng không thể kéo dài mãi.
Tháng 7/1987, phiên họp toàn thể Ban Chấp hành Trung ương đã đẩy mạnh dân chủ hóa và quyết định là Hội nghị Đảng lần thứ 19 sẽ được triệu tập vào tháng 6/1988. Hội nghị này được coi là một hội nghị cấp tiến nhất trong thời kỳ hiện đại. Tại phiên họp toàn thể này, Bộ trưởng Quốc phòng Sergei Sokolov nghỉ hưu và thay ông là Dmitry Yazov. Đây là hậu quả của chuyến bay gây chấn động mạnh mẽ của Mathias Rust, một thanh niên Tây Đức, từ Hamburg đã hạ cánh xuống gần Quảng trường Đỏ vào tháng 5/1987. Đó là một sự cố đau buồn và khiến người ta đặt ngay câu hỏi về tính trì trệ và yếu kém của cái gọi là lực lượng chuyên nghiệp.
Chủ trương công khai cho phép báo chí công kích mạnh mẽ tình trạng kinh tế và quốc gia. Nikolai Shmelev, một nhà kinh tế cấp tiến, viết:
Lúc này, chúng ta có thể miêu tả nền kinh tế hiện thời bằng các từ: thiếu hụt, mất cân bằng, quản lý tồi, thiếu kế hoạch phát triển cụ thể… Ngành công nghiệp không tiếp nhận 80% các cải cách, các sáng kiến… quần chúng lao động sa vào tình trạng hầu như hoàn toàn không quan tâm đến làm ăn lương thiện… Chủ nghĩa phân biệt, thờ ơ, nạn trộm cắp trở thành hiện tượng phổ biến, cùng với đó là lòng đố kỵ ghen ghét đối với những người có khả năng làm kinh tế. Dường như xuất hiện các dấu hiệu sa sút sức khỏe trong một bộ phận lớn dân chúng do nghiện rượu và nhàn rỗi. Cuối cùng, không có lòng tin vào các mục tiêu đã đề ra, vào các khả năng tổ chức xã hội và kinh tế hợp lý hơn. Rõ ràng, tất cả vấn đề này không thể giải quyết một sớm một chiều mà đó là vấn đề đòi hỏi nhiều năm, thậm chí nhiều thế hệ.
Trong tháng 6 và tháng 7/1987, một loạt cải cách kinh tế cấp tiến được đưa vào bộ quy chế. Vào tháng 6, luật về doanh nghiệp nhà nước và các điều khoản cơ bản trong cải cách hệ thống quản lý kinh tế được ban hành. Vào tháng 7, luật doanh nghiệp nhà nước được bổ sung thêm 10 sắc lệnh về hệ thống kinh tế, bao gồm: kế hoạch, tiến bộ khoa học kỹ thuật, cơ chế tài chính, giá cả, ngân hàng, các bộ ngành, các tổ chức các nước cộng hòa và chính sách xã hội. Tuy nhiên, nó lại không đưa ra kế hoạch chi tiết cho quá trình cải cách, mà chỉ là giai đoạn đầu của quá trình này. Các bộ phải được hợp nhất và các ủy ban nhập vào các bộ. Sáu bộ của các nước cộng hòa và Liên bang (một bộ thuộc Liên bang Xô viết và một bộ trong mỗi nước cộng hòa) bị xóa bỏ và được chuyển thành các bộ của Liên bang Xô viết. Luật mới quy định các bộ phải tập trung vạch ra kế hoạch kinh tế dài hạn và kế hoạch cải tiến kỹ thuật, để các doanh nghiệp tự quản lý hoạt động của mình. Việc này buộc phải giảm mạnh số công chức ở các bộ. Ủy ban Kế hoạch Nhà nước đã giảm gần nửa số biên chế nhưng phần đông trong số họ lại tìm được việc làm trong cơ quan mới.
Giữa năm 1987, Liên bang Xô viết có khoảng trên 800 bộ và ban thuộc các nước cộng hòa và Gorbachev quyết tâm giảm mạnh các bộ và ban này. Mục đích của ông là giảm một nửa số công chức các nước cộng hòa và 1/3 số công chức địa phương. Hậu quả của chính sách này là đã phá vỡ hoặc làm rối tung các mối quan hệ giữa Trung ương với các bộ ngành và các tổ chức trên khắp đất nước. Đây là một trong các mục tiêu của cải cách, một phương thức làm tăng tính độc lập về kinh tế của các nước cộng hòa với trung ương. Chủ trương này được thực hiện trong hoạch toán (tự hoạch toán) kinh tế của các nước cộng hòa để các nước này giành được quyền kiểm soát nhiều hơn các hoạt động kinh tế trên chính lãnh thổ của họ. Chính việc này dẫn đến hậu quả nghiêm trọng và nặng nề vào năm 1991 vì nó đã phát triển thành tệ nạn địa phương chủ nghĩa và dân tộc chủ nghĩa.
Luật doanh nghiệp nhà nước quy định việc bầu giám đốc và quản lý cho đến đốc công, bầu ra ban tư vấn và các đại biểu một đại hội đồng của toàn thể công nhân trong doanh nghiệp. Cho đến cuối năm 1987, trên 36 nghìn nhà quản lý được bầu trong ngành công nghiệp và xây dựng. Tuy nhiên, có tin tiết lộ rằng các trường hợp bổ nhiệm và thường là các cuộc bầu chọn đều bị kiểm soát bởi ban chấp hành Đảng bộ địa phương. Đảng ngày càng củng cố ảnh hưởng của mình đối với các doanh nghiệp thông qua các bộ. Xu hướng này kéo dài đến lúc nào là tùy thuộc vào sự tiến bộ của quá trình dân chủ hóa. Hai vấn đề chủ chốt về quyền sở hữu và giá cả không được coi là tâm điểm trong các cuộc thảo luận và trong xây dựng luật pháp. Gorbachev coi cải cách giá cả (nghĩa là tăng giá) giống như một trái bom hẹn giờ trong khi mức sống đang có chiều hướng giảm sút. Ông không chấp thuận tăng giá để bù vào khoản thâm hụt ngân sách nhà nước. 21
Khi lần đầu tiên được đưa ra năm 1985, nhân tố con người nhấn mạnh đến tầm quan trọng của các kỹ năng và khả năng nhiều hơn là nhu cầu của con người, của lợi ích và công bằng xã hội. Gorbachev chỉ ra rằng sẽ ít có biến chuyển trong kinh tế, quản lý và giáo dục nếu không có sự thay đổi về tâm lý, không đề cao nguyện vọng và phát triển khả năng suy nghĩ hay làm việc theo phong cách mới. Aganbegyan cũng nhấn mạnh nhu cầu thay đổi tư duy và hướng dẫn người ta suy nghĩ, làm việc theo phương thức mới. Sau Đại hội Đảng lần thứ 27, Đảng tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện s?