← Quay lại trang sách

Chương 4 Perestroika giai đoạn II: 1987-1989

Các kết quả kinh tế năm 1987 hóa ra còn tồi tệ hơn cả giai đoạn năm 1986. Trong khu vực công nghiệp, người ta nhận thấy rất khó điều chỉnh giá cả, tự hạch toán và tự quản lý. Gorbachev tin đây là khi mối bất hòa giữa các cơ quan Đảng ở địa phương và trung ương xuất hiện. Hầu hết các tổ chức đảng ủy địa phương đều không thể hay không muốn điều chỉnh theo cơ chế làm việc mới dựa trên chủ trương công khai và dân chủ hóa. Người ta cần một kiểu tổ chức Đảng mới, một tổ chức có thể phát huy sáng kiến, phản ứng nhanh nhạy và tích cực trong môi trường mới. Các quan chức thuộc cơ quan Đảng trước kia chỉ tập trung vào việc giữ quyền giữ chức. Bộ máy đảng ủy địa phương càng được đảm bảo bao nhiêu thì nguy cơ phát sinh chống đối trong và ngoài Đảng càng tăng lên bấy nhiêu. Bộ máy này cực kỳ trơn tru dưới thời Brezhnev. Thời kỳ ổn định và bình lặng không tạo ra động lực cho người ta phát huy sáng kiến. Nay Gorbachev hy vọng bộ máy này sẽ chứng tỏ một vai trò hoàn toàn khác trước và trở thành nhân tố tích cực trong quá trình cải cách ở cấp địa phương. Không mấy ngạc nhiên khi hầu hết các nhà chức trách địa phương lại bực tức trước điều này vì họ cảm thấy bất lực. Gorbachev nhận ra sự thay đổi đã không theo kịp hy vọng của dân chúng và điều đó đã dẫn đến việc đẩy lùi vai trò lãnh đạo của Đảng về phía sau.

Lễ kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng Mười chính là cơ hội cho Gorbachev đề cập đến chủ nghĩa xét lại. Ông diễn giải lại tiến trình các sự kiện diễn ra từ năm 1917 nhằm mục đích tuyên truyền đẩy mạnh cho perestroika. Bài diễn văn của ông vào ngày 2/11/1987 làm cho nhiều người cảm thấy thất vọng vì quá dè dặt. Tuy nhiên, người ta vẫn nhớ đến sự ràng buộc mà Gorbachev phải gánh chịu. Bài diễn văn làm nhẹ đi sự lên án Stalin, bất chấp sự chống đối trong Bộ Chính trị.

Tháng 1/1988, đáp ứng sự chỉ trích rộng rãi về các đặc quyền đặc lợi mà giới quan chức được hưởng từ chính quyền, Gorbachev thông qua sắc lệnh cắt giảm mạnh số lượng quan chức, những người được cấp một xe Volga đen và một nhân viên lái xe. Ngày 1/7/1988, hơn 400 nghìn quan chức bị cắt giảm và mất đi các đặc quyền này. Những chiếc Volga được bán công khai hoặc bổ sung vào đội ngũ tắc xi. Cũng từ ngày 1/7, các công dân Xô viết có ngoại tệ mạnh không được sử dụng để mua bán trong các cửa hàng ở Moskva.

Chủ trương công khai dẫn đến làn sóng xuất bản các tài liệu, phần lớn là các bài chỉ trích Đảng và thành tích của Đảng. 1 Ligachev là người phản đối kịch liệt sự “soi mói” này và kêu gọi cần chấm dứt ngay. Tham gia cùng ông còn có Mikhail Solomentsev, Viktor Chebrikov, Dmitry Yazov và thậm chí cả Nikolai Ryzhkov. Trong phiên họp toàn thể Ban Chấp hành Trung ương tháng 2/1988, Gorbachev đề cao các giá trị của Đảng Cộng sản. Giá trị quan trọng nhất lại không phải là các giá trị mà người ta được biết đến trong nhiều thập niên: quyền tối cao của Đảng, quyền sở hữu nhà nước và cơ chế kinh tế kế hoạch. Ông cho rằng vai trò lãnh đạo của Đảng “không nên giao hẳn vào tay một người nào đó ở trên và nắm giữ quá lâu”. Con người chính là trung tâm của thế giới xã hội chủ nghĩa và tuyên bố này nhằm đề cao giá trị, con người trong vũ trụ. Không có gì ngạc nhiên nếu tuyên bố này gây ra sự phẫn nộ trong các nhà tư tưởng bảo thủ và họ lại lao vào cuộc chiến nhằm bảo vệ quyền lợi và địa vị của mình. Nói cách khác, họ nhận thấy kiểu sống sung túc của họ có nguy cơ bị đe dọa.

Ngày 13/3/1988, Gorbachev bay đi Nam Tư và Yakovlev bay đi Mông Cổ. Ligachev là người duy nhất được quyền điều hành Ban Bí thư Trung ương Đảng, cơ quan vẫn giám sát chặt chẽ giới báo chí. Khi Gorbachev đọc các báo hàng ngày, Georgy Shakhnazanov, phụ tá của ông khuyên ông nên chú ý đặc biệt vào bài báo của Nina Andreeva, với tiêu đề “Tôi không thể từ bỏ những nguyên tắc của mình” trên tờ Sovetskaya Rossiya (Nước Nga Xô viết). Đây là tờ báo có tiếng về mối quan hệ chặt chẽ với phe bảo thủ. Bài báo này chính là cuộc tấn công trực diện và toàn diện vào perestroika và khiến những người có xu hướng cải cách cũng thấy ngán ngẩm. Bức thư của một giáo viên dạy hóa viết kín trang giấy với ngôn ngữ ca ngợi thời kỳ Stalin. Bà bảo vệ Stalin và dùng lời châm chọc chua cay theo lối bài Do Thái, trích dẫn nguyên văn từ các bài phát biểu của Andrei Zhdanov trong chiến dịch chống những người theo chủ nghĩa thế giới năm 1948.

Ligachev phủ nhận vai trò giật dây dư luận nhưng lại thừa nhận ông cũng có những tình cảm như một số người trong bài báo. Việc này bao hàm các cuộc tấn công vào giai đoạn lịch sử coi thời kỳ Stalin là một thời kỳ đen tối và ảm đạm. Theo Gorbachev, bức thư không thể được viết ra bởi một đảng viên bình thường vì nó chứa đựng thông tin mà chỉ một số người mới có quyền biết. Thành ủy Leningrad đặc biệt có thái độ sốt sắng khi được giao điều tra bài báo này. Không thấy nêu ra chứng cứ bác bỏ cho đến khi Gorbachev trở về ngày 18/3. Ông phát hiện ngay ra là một số ủy viên Bộ Chính trị, bao gồm Ligachev, Vorotnikov, Gromyko và Solomentsev, đều đứng về phía Andreeva.

Ông triệu tập cuộc họp Bộ Chính trị vào ngày 24/3 và nhận thấy Viktor Chebrikov, thủ trưởng cơ quan KGB, và Anatoly Lukyanov cũng đứng về phe những người bảo thủ. Sự thật là Lukyanov, người bạn học tại trường Đại học Tổng hợp Quốc gia Moskva, đã đứng về phe đối lập khiến Gorbachev choáng váng. Đối với Gorbachev, bài báo thể hiện rõ nét tư tưởng chống perestroika . Điều làm ông tức giận là việc các quan chức trong Đảng và chính quyền lại có thái độ ủng hộ bức thư này. Yakovlev, Ryzhkov (một phần vì ông bực mình trước những cố gắng của Ligachev trong Ban Bí thư Đảng can thiệp vào công việc của chính quyền), Shevardnadze và Medvedev tấn công vào các quan điểm mà lá thư đã nêu.

Viktor Afanasev, chủ biên tờ Pravda , và nhân viên cấp dưới đã ngay lập tức có câu trả lời nhưng Gorbachev bác bỏ vì nó quá vô vị và nhạt nhẽo. Ngày 5/4, tờ Pravda đã đăng một bài báo không ký tên (chủ yếu là do Yakovlev viết) đập lại quan điểm trong lá thư của Andreeva nhưng lại không nêu tên của bà này nhằm tấn công tư tưởng bảo thủ. Gorbachev và Yakovlev coi lá thư như một đòn đánh mở màn cho chiến dịch đưa bằng được perestroika trở lại phương thức cũ ở giai đoạn trước năm 1987. Gorbachev nói với đại sứ Mỹ năm 1992 là ông không lựa chọn giải pháp tăng tốc nhanh hơn, mạnh hơn như ở giai đoạn 1988-1989. “Họ phản đối tôi trên mỗi bước đi. Tôi có thể nhận được sự ủng hộ đối với các cải cách từng phần năm 1987. Điều gì sẽ xảy ra sau đó? Tôi vừa quay lưng lại, họ đã phản công tôi bằng bài báo của Nina Andreeva!” Ligachev đã bị thuyên chuyển không phụ trách mặt tư tưởng và Yakovlev đảm nhận trách nhiệm chính. Rõ ràng, sự chia rẽ sâu sắc đã bao trùm trong Bộ Chính trị.

Về mặt chiến thuật, Gorbachev có hai lựa chọn vì thực tế rõ ràng nhiều nhà lãnh đạo Đảng có thái độ thờ ơ đối với cải cách. Ông có quyền thuyên chuyển công tác của họ khỏi Ban Chấp hành Trung ương Đảng hoặc có thể lập ra một cơ chế, quy định khuôn khổ hoạt động nhằm phá bỏ sự chống đối của họ. Ông đã chọn phương pháp cũ. Đại hội Đảng không diễn ra như kế hoạch mà hoãn mãi đến năm 1991, vì thế ông bắt kịp ý kiến của Đại hội Đảng. Khi ông đang lưỡng lự trước đề nghị tổ chức một hội nghị tại phiên họp toàn thể Ban Chấp hành Trung ương tháng 1/1987, đề nghị này không được thông qua, nhưng ông đã đạt được điều mình muốn tại phiên họp toàn thể tháng 6. Tuy vậy, ông thua trong một cuộc tranh luận quan trọng vì cuộc tranh luận này quyết định những ủy viên mới chỉ được bầu ra tại Đại hội Đảng. Đại hội này là cơ hội khuyến khích các ứng viên dự khuyết mới trở thành ủy viên chính thức. Yakovlev chịu trách nhiệm về mặt tư tưởng trong Ban Bí thư, người ta cuối cùng cũng đề ra một lối thoát cho tình trạng bế tắc bằng một suy nghĩ đổi mới. Hội nghị là một nguy cơ vì hầu hết các ủy viên đều phản đối cải cách. Hội nghị cần phải hủy bỏ, nếu không thì phái bảo thủ sẽ nổi loạn. Lý do chính để sự kiện này không diễn ra là kỷ luật Đảng vẫn được duy trì và quyền lực Tổng Bí thư bao giờ cũng là tối cao. Các ủy viên buộc phải chấp nhận các quyết định do lãnh đạo Đảng đưa ra, còn việc triển khai và áp dụng các quyết định đó vào thực tế ra sao lại là chuyện khác.

Các luận cương hay các kiến nghị dự thảo được trình bày trong phiên họp toàn thể Ban Chấp hành Trung ương ngày 23/5 và được thông qua tương đối thuận buồm xuôi gió. Các văn kiện đó được đăng trên tờ Pravda ngày 27/5 đã gây xáo động mạnh mẽ. Chúng đánh dấu bước chuyển từ chế độ xã hội chủ nghĩa theo kiểu Xô viết sang một mô hình giống kiểu xã hội dân chủ của Tây Âu. Điểm then chốt trong các văn kiện này là đề ra bầu cử tự do, đa ứng cử viên vào các vị trí của Xô viết, bỏ phiếu kín, đảm bảo quyền tự do báo chí, ngôn luận, tự do hội họp và cam kết được luật pháp bảo vệ. Thẩm phán phải được độc lập. Công bằng xã hội là nguyên tắc quan trọng hàng đầu. Gorbachev cố gắng đưa cải cách đi xa hơn nữa. Ông chủ trương đa nguyên chính trị và sửa đổi Hiếp pháp Xô viết nhằm hợp pháp hóa hệ thống chính trị. Bộ Chính trị phản đối đề nghị này, riêng chỉ có Yakovlev, Shevardnadze và Vorotnikov ủng hộ chủ trương này. Mãi đến năm 1990, Đảng mới chấp nhận chấm dứt sự độc quyền về chính trị của mình.

HỘI NGHỊ ĐẢNG LẦN THỨ 19

Trong diễn văn khai mạc ngày 28/6, Gorbachev khiến các đại biểu ngạc nhiên bằng việc đề nghị chỉ nên có một người vừa nắm vị trí lãnh đạo Đảng vừa nắm quyền lãnh đạo chính quyền trên toàn đất nước, từ các Xô viết địa phương đến trung ương. Người cải cách bị kéo ngược trở lại. Một mặt, Gorbachev thiên về hạn chế sự can thiệp của Đảng vào các công việc nhà nước, nhưng mặt khác, có thể trao quyền cho họ thông qua các Xô viết. Việc này có thể được coi như sự củng cố lại tổ chức, mà phần lớn là những thành viên phản đối perestroika .

Nhưng cũng có thể hiểu sự việc theo một khía cạnh khác. Kể từ khi có các cuộc bầu cử tự do các Xô viết địa phương hay các đảng viên phải chiến thắng trước khi họ có thể củng cố quyền lực của mình. Gorbachev đặt lòng tin vào nhân dân. Họ sẽ là người lựa chọn những ứng cử viên xứng đáng để thực hiện perestroika . Đây chính là một chiến thuật nổi bật mà vị tổng bí thư này sử dụng. Đây là cách duy nhất buộc các đảng viên phải trao quyền cho Xô viết. Theo cách này, ông có thể tiến hành một cuộc cách mạng thầm lặng như nó không hề diễn ra vì hầu như các đảng viên đều thất bại trong các cuộc bỏ phiếu. Bài phát biểu khai mạc là sự kết hợp thận trọng giữa những người theo đường lối chính thống với những người có đầu óc cấp tiến. Ông ca ngợi vai trò lãnh đạo, dẫn dắt của Đảng và chủ nghĩa Marx-Lenin giống như nền tảng khoa học vững chắc cho các công việc của Đảng. Tuy nhiên, ông nói thêm, cuộc cạnh tranh tự do của những người trí thức cũng là một trong những nguyên lý cơ bản của perestroika .

Giới lãnh đạo ngồi nhìn các đại biểu và một vài người phát ngôn dùng thuật ngữ “những con khủng long” trong Đảng để chỉ những người trở thành mục tiêu công kích. Người bị đối xử cứng rắn là Andrei Gromyko, và những nhân vật khác như Solomentsev, Afanasev − chủ biên tờ Pravda , và Arbatov. “Hiện nay, đồng chí Gromyko không theo kịp sự phát triển của tình hình… đồng chí đã hoàn thành trách nhiệm của mình”. Cách cư xử không đoán trước được này khiến Gorbachev cảm thấy đã nảy sinh mầm mống của nguy cơ. Nếu các vị lãnh đạo Đảng không còn được bảo vệ thì sớm hay muộn ông cũng bị họ lôi vào cuộc chiến. Ông cảm giác đang có một liên minh giữa những người bảo thủ trong Đảng chống đối ông ngay tại Hội nghị. Một sự rạn nứt đang ngầm hình thành trong Đảng và thái độ chỉ trích, chống đối perestroika ngày càng tăng rõ rệt. Sau này, thái độ đó phát triển thành trào lưu phá hoại ngầm trực tiếp của một số lớn các bí thư Đảng và những người đương chức trong bộ máy Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Với người dân và dư luận thế giới − tiến trình Hội nghị được truyền hình trực tiếp − thể hiện sự đối đầu mạnh mẽ nhất trong Hội nghị là giữa Ligachev và Yeltsin. Vào ngày bế mạc Hội nghị, Yeltsin, trước giờ nghỉ trưa đã rời khỏi ghế trên ban công và đứng lên như một diễn viên chính trên sân khấu kịch. Ông không xuống để phát biểu mà lại xin phép Gorbachev được phát biểu. Trong diễn văn chuẩn bị sẵn, ông quyết định trở thành nhà dân túy và phát động một cuộc công kích mạnh mẽ hơn vào Đảng và perestroika . Ông lên tiếng cảnh báo về nạn tham nhũng trong Đảng và kết tội Mikhail Solomentsev, Chủ tịch Ủy ban Kiểm tra của Đảng, phải chịu trách nhiệm về hành vi các đảng viên, khi đã có một cuộc điều tra quá hời hợt trước những lời cáo buộc và cố tình lờ đi thói tham nhũng của các đảng viên cao cấp. Tố cáo thẳng thắn của ông còn nhằm vào chính các đặc quyền đặc lợi của Đảng. Ông cũng ám chỉ các sự kiện trong phiên họp toàn thể Ban chấp hành Trung ương tháng 10/1987 chưa được đăng công khai trước dân chúng, với mục đích biện minh cho mình trong sự kiện này. Bằng lời châm biếm, ông nhận xét là Đảng có tục lệ phục hồi các đồng chí của mình sau 50 năm. Ông muốn được phục hồi trong khi ông vẫn còn đang sống. Yeltsin đề nghị Hội nghị bãi bỏ những quyết định đưa ra trong phiên họp toàn thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đề nghị của ông trở thành chủ đề thảo luận sôi nổi sau giờ nghỉ trưa.

Nhiều người phát biểu liên tiếp tấn công Boris Nikolaevich, rõ ràng họ đã mất thời gian suy nghĩ cân nhắc suốt cả giờ nghỉ trưa về điều xúc phạm họ và bây giờ họ đã xổ ra. Ligachev đã dành cả buổi trưa để viết ra những lời nhạo báng và đọc lên không khác gì một nhà hùng biện: “Mọi việc Boris làm đều sai toét, thậm chí khi đồng chí ấy còn làm lãnh đạo Đảng tỉnh Sverdlovsk.” Với giọng nói sang sảng, ông lên tiếng: “Boris, cậu sai rồi!” Ông này sử dụng ngôi thứ hai số ít thân mật thay cho cách gọi trang trọng ngôi thứ hai số nhiều. Đây là biểu hiện sự chiếu cố và cả ý công kích mạnh mẽ, tựa như Ligachev đang mắng con vật cưng của mình. Ligachev phản đối kịch liệt sự chăm sóc ưu ái của Đảng đối với Yeltsin. Ông say sưa nói về cuộc sống khổ cực khi ở Siberia và đặc quyền duy nhất ông được hưởng là làm việc khô xương chết xác. Các đại biểu đều đứng về phía Ligachev trong Hội nghị, nhưng nhân dân lại ủng hộ Yeltsin. Họ biết những người giàu có và quyền thế sống ra sao. Những người thích đùa trong lúc này nói lời quen biết: “Egor, anh sai rồi!”

Tài lãnh đạo của Gorbachev thể hiện trọn vẹn trong Hội nghị. Rất có thể ông sẽ tổ chức một hội nghị chỉ gồm những người bảo thủ để thông qua các nghị quyết làm yếu đi sức mạnh bộ máy Đảng và chấp nhận bầu cử tự do − Đại hội Đại biểu Nhân dân − năm 1989. Chiến thuật ông sử dụng là chia rẽ phe đối lập, cố hòa giải nhưng có mức độ và sử dụng quyền lực của Tổng Bí thư. Hội nghị, thật ra là Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương, chấp nhận hầu như bất cứ thỏa hiệp nào để tránh sự chia rẽ. Là chủ tọa Hội nghị, Gorbachev sử dụng dè dặt cương vị của mình nhằm đảm bảo cuộc bầu cử đi theo đường hướng ông muốn. Hội nghị này đặt Mikhail Sergeevich vào hoàn cảnh “một liều ba bảy cũng liều”. Ông đã đẩy lùi Liên bang Xô viết cũ về phía sau và bắt tay tiến hành xây dựng một xã hội mới, hợp xu thế và có cơ cấu chặt chẽ. Cam kết của ông đối với perestroika đã thuyết phục một số người chỉ trích ông, trong đó có Anatoly Sobchak − sau này là Thị trưởng Leningrad, và Sergei Stankevich − sau gia nhập Đảng. Điều này cho thấy những người có tư tưởng cải cách đã coi Đảng là đội quân tiên phong của cải cách.

Hội nghị nhấn mạnh mục tiêu phải tách hai tổ chức Đảng và Nhà nước. Nhưng Đảng vẫn nắm quyền lãnh đạo tối cao. Gorbachev khuyến khích chủ nghĩa đa nguyên, đa chính kiến nhưng tất cả những quan điểm này đều phục vụ cho chủ nghĩa xã hội. Phe bảo thủ trong Bộ Chính trị phản ứng ra sao? Liệu có tồn tại các mâu thuẫn căng thẳng tới mức dẫn đến chia rẽ? Không, chỉ có “những lợi ích tạm thời”.

Gorbachev giải quyết rất khéo các vấn đề nhạy cảm trong Bộ Chính trị. Nguyên tắc chung và cơ bản là giao cho phái bảo thủ những nhiệm vụ không thích và giao nhiệm vụ dễ dàng cho phe cải cách. Một ví dụ là việc đặt lại tên cho con tàu phá băng L. Brezhnev. Con tàu đang hoạt động được lấy lại tên cũ là Arktika. Một con tàu mới sẽ được đặt tên là L. Brezhnev. Người ta quyết định buổi nghi lễ sẽ diễn ra mà không cần phải truyền hình trực tiếp. Ligachev và Zaikov được giao nhiệm vụ điều hành các hoạt động này. Một trường hợp khác là lời đề nghị của Svetlana Aliluyeva, con gái của Stalin. Một số người phỏng vấn bà nhằm phát hiện ra điều mà bà thật sự đang nghĩ. Gorbachev lại không muốn tiến hành việc này:

Nếu tôi phải làm việc này, tôi sẽ phải đánh giá con người Stalin, Stalingrad 2 và tất cả mọi việc ông đã làm. Tôi xuất thân từ một gia đình mà đời bác tôi bị hủy hoại. Mẹ tôi sinh ra trong một gia đình rất nghèo lại phải cáng đáng năm anh em. Tôi đã được thưởng một huy chương về bài luận “Stalin là niềm vinh quang anh dũng, Stalin là động lực cho thanh niên”. Có lẽ đồng chí Solomentsev nên tiến hành cuộc phỏng vấn này.

Sau đó, Gromyko đề nghị E. K. Ligachev làm việc này. Gorbachev cuối cùng cho ý kiến: “Hãy để đồng chí Ligachev tiến hành phỏng vấn!”

CÁC HÌNH THỨC CHỐNG ĐỐI

Trong khi những người cải cách ủng hộ chủ trương của Mikhail Sergeevich, các đối thủ của ông cũng đang ngấm ngầm tổ chức chiến dịch riêng của họ. Liên minh Dân chủ thành lập tháng 5/1988 là tổ chức đầu tiên chống đối Đảng Cộng sản Liên Xô. Nó tập hợp khoảng 2 nghìn thành viên và người giữ vai trò lãnh đạo là Valeriya Novodvorskaya, sinh năm 1950. Năm 1968, cô đã thành lập một hội sinh viên bí mật với mục đích hành động là lật đổ chính quyền Xô viết, lần đầu bị bắt tháng 12/1967 và bị kết tội về các hoạt động bất đồng chính kiến trong các năm 1978, 1985 và 1986. Cô tốt nghiệp tại Pháp, dưới một hộ chiếu giả. Trong thời kỳ bị giam cầm, cô phải điều trị trong bệnh viện tâm thần khép kín ba tháng. Khi Gorbachev lên cầm quyền, Valeriya bị bắt 17 lần và mỗi lần bị bắt đều tuyệt thực. Rất nhiều các đảng phái và tổ chức chính trị khác đã ra đời vào năm 1989. Phong trào Dân chủ Thiên Chúa giáo Nga là tập hợp giữa Liên đoàn Dân chủ Thiên Chúa giáo Nga và Liên đoàn Dân chủ Thiên Chúa của người Nga, đây là tổ chức của những tín đồ Thiên Chúa giáo bảo thủ. Đảng Dân chủ Tự do Nga và ba Đảng Dân chủ Lập hiến (Đảng Dân chủ Lập hiến và Đảng của những người dân chủ hợp hiến − sự khác nhau cơ bản giữa họ là cách giải thích về sự kế thừa từ Đảng Dân chủ Lập hiến (Kadet) và Liên đoàn Những người dân chủ hợp hiến). Đây cũng là tập hợp của những người có tư tưởng bảo thủ. Đảng Dân chủ Nga, đứng đầu là Nikolai Travkin được thành lập vào tháng 5/1990, bắt đầu chuyển thành đảng tự do nhưng sau đó dần ngả sang phe chính trị bảo thủ. Đảng Cộng hòa của Liên bang Nga thành lập và hoạt động vào tháng 11/1990 và tập hợp được 30 nghìn thành viên. Đảng nước Nga dân chủ, tổ chức hoạt động dựa trên tư tưởng dân chủ tự do xuất hiện vào tháng 10/1990. Có hai Đảng Dân chủ Xã hội (Đảng chủ chốt nhất là Đảng Dân chủ Xã hội Nga, thành lập vào tháng 5/1990) và có sự liên minh giữa người lao động, công đoàn và Liên hiệp Cách mạng Cộng sản Arnacho. Các đảng phái dân tộc bảo thủ khác đều xuất hiện vào mùa thu năm 1990, như Đảng Dân chủ Quốc gia Nga. Những người theo chế độ quân chủ, chủ trương quay về thời kỳ Nga hoàng Romanov, cũng lập ra một đảng của mình.

Dần dần hai nhóm chính trị chủ đạo hợp nhất lại: nhóm cộng sản và nhóm dân chủ. Nhóm cộng sản do Gorbachev lãnh đạo, chủ trương cải tổ chế độ xã hội chủ nghĩa, thiên về sự phát triển sở hữu xã hội chủ nghĩa, các hình thức tập thể trong các mối quan hệ xã hội, chế độ tự quản và hoạt động xoay quanh nhân tố con người. Nhóm dân chủ muốn tư hữu hóa tài sản nhà nước, tiến hành một cơ chế kinh tế thị trường, một hệ thống nghị viện hoàn chỉnh và đảm bảo nhân quyền.

Khi Gorbachev đi nghỉ vào ngày 1/8, Ligachev chịu trách nhiệm công việc tại Kremlin đã nắm lấy cơ hội đưa ý tưởng của mình vào chính sách perestroika. Ông ta công khai phản đối nền kinh tế thị trường và bảo vệ bản chất giai cấp trong các mối quan hệ quốc tế. Quan điểm này hoàn toàn mâu thuẫn với bài phát biểu của Eduard Shevardnadze đọc trước một hội nghị gồm các nhà ngoại giao và các chuyên gia hồi tháng 7. Trong bài diễn văn này, Shevardnadze nhấn mạnh “chúng ta không thể không chấp nhận môi trường cùng tồn tại hòa bình, một kiểu đấu tranh giai cấp đặc biệt… Cuộc đấu tranh giữa hai hệ thống đối lập không còn là xu thế quyết định trong thời đại ngày nay”. Đó là tuyên bố dứt khoát đăng trên báo Đảng, rằng Liên bang Xô viết đã từ bỏ nguyên lý quan trọng nhất của chủ nghĩa Marx-Lenin.

Trong bài phát biểu ở Vilnius, Yakovlev thể hiện câu chữ lắt léo, hầu như xảo quyệt tinh vi, đáp trả lại những nhà cải cách. Ông này đặt lợi ích chung của nhân loại lên trên lợi ích quốc gia cũng như lợi ích các dân tộc thiểu số. Không còn nghi ngờ gì nữa, đã xuất hiện sự hỗn loạn. Theo quan điểm Gorbachev, Ligachev đang chuyển hóa perestroika sang một phương thức mới. Cũng có giải pháp khác. Đảng nên chuyển giao toàn bộ quyền quản lý kinh tế và chỉ nên quan tâm đến các công việc nội bộ trong hệ thống Đảng mà thôi. Do vậy, Gorbachev có thể đương đầu với sự phản đối trong Đảng về cải cách kinh tế.

NHỮNG THAY ĐỔI TRONG ĐẢNG

Gorbachev quyết định lập ra các tổ chức quá độ đến khi các Xô viết và các cơ quan chính quyền củng cố được sức mạnh và tích lũy được kinh nghiệm. Trong bản thông báo gửi Bộ Chính trị ngày 24/8/1988, Gorbachev đề nghị giảm số lượng các ban ngành trong Ban Bí thư Ban Chấp hành Trung ương từ 20 xuống 9. Chỉ có hai ban chuyên trách kinh tế được giữ lại: ban phụ trách nông nghiệp và một ban mới phụ trách vấn đề kinh tế − xã hội. Các thành viên chính phủ trong Bộ Chính trị rất hào hứng với việc này. Tựa như trong một nước đa đảng, các bộ thuộc chính phủ sẽ do Hiến pháp điều chỉnh và giám sát. Ban phụ trách quan hệ với các đảng cộng sản và đảng công nhân các nước xã hội chủ nghĩa bị hạ cấp và sáp nhập thành một bộ phận của Ban Quốc tế. Sự chuyển đổi có ý nghĩa báo hiệu các nước xã hội chủ nghĩa khác không còn được đối xử như con riêng nữa mà trở thành quốc gia thật sự có chủ quyền. Valentin Falin, chuyên gia về các vấn đề Đức, đảm nhiệm công việc của Anatoly Dobrynin, người đã bị Shevardnadze loại khỏi ê-kíp khi giữ chức lãnh đạo Ban Quốc tế thuộc Ban Bí thư. Andrei Gromyko và Anatoly Dobrynin đều bị gạt ra rìa cùng một lúc vào tháng 10/1988.

Vào tháng 9, Gorbachev tiến xa hơn một bước và Ban Bí thư được tái cơ cấu thành sáu ủy ban. Chủ tịch mỗi ủy ban chuyên trách chịu trách nhiệm về chính sách của lĩnh vực đó trong Đảng. Vadim Medvedev được giao nhiệm vụ phụ trách tư tưởng và sự thừa hưởng chính của chức vụ này là Ligachev không còn được giao phụ trách lĩnh vực nhạy cảm này nữa. Medvedev không cấp tiến như Yakovlev, nhưng Yakovlev lại được chỉ định làm chủ tịch Ban Đối ngoại, vậy là hợp với sở trường của ông. Ligachev làm chủ tịch ban chuyên trách vấn đề nông nghiệp. Việc này có nghĩa là hy sinh khu vực nông thôn vì không hề có sự tiến triển nào tiến tới thị trường dưới thời Ligachev. Georgy Razumovsky phụ trách chính sách nhân sự và Nikolai Slyunkov phụ trách chính sách kinh tế xã hội. Viktor Chebrikov chuyển từ cơ quan KGB sang làm chủ tịch Ban Luật pháp. Nhiệm vụ ban này là giám sát Bộ Nội vụ, Bộ Quốc phòng và cơ quan KGB. Rất khó để tìm ra một người thích hợp hơn Chebrikov sau Hội nghị Đảng lần thứ 19. Gorbachev hoàn toàn đặt niềm tin vào KGB và cũng có thể ông đã cảnh giác xa lánh một con người như vậy.

Mối quan hệ của Gorbachev với KGB cho thấy ông không bao giờ tin cơ quan KGB lại có những hoạt động chống lại ông. Ông quen với việc đọc các bản báo cáo cá nhân do Chebrikov gửi tới. Ngày 19/2/1986, lãnh đạo KGB đã báo cáo các hoạt động của tổ chức này trong năm 1985 như sau:

Mạng lưới KGB đã đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống lại những sai lệch về mặt tư tưởng và chống các kẻ thù giai cấp. Ở khắp nơi, các an ninh viên đã tham gia vào công việc của các tổ chức Đảng nhằm loại bỏ các hiện tượng tiêu cực... và tăng cường các hoạt động ngăn ngừa… Ở Moskva, Leningrad và ở các thủ đô các nước cộng hòa và các thành phố khác, các hoạt động chống phá về mặt tư tưởng, gây ra bởi hàng trăm phái viên và nhân viên các tổ chức nước ngoài chống Liên Xô, bọn dân tộc chủ nghĩa, bọn chủ nghĩa phục quốc Do Thái và các giáo sĩ đều bị phát hiện và loại bỏ. Trong số các phần tử này, 300 kẻ bị trục xuất và 322 kẻ bị cấm nhập cảnh vào Liên bang Xô viết. Ở Ukraine, các nước cộng hòa vùng Baltic và những nơi khác nữa, 25 nhóm dân tộc bất hợp pháp đã bị phát hiện và xử lý khi các nhóm này mới chỉ trong thời kỳ trứng nước… 1.275 tác giả và những kẻ phân phát tài liệu nặc danh, bất hợp pháp có nội dung chống phá Liên Xô, 97 người trong số đó bị xử trước tòa… Các biện pháp ngăn ngừa được tiến hành nhằm đối phó với 15.271 phần tử khác.

Ngày 25/9/1986, tại cuộc họp Bộ Chính trị, Gorbachev hỏi Chebrikov rằng theo định nghĩa phương Tây thì hiện nay có bao nhiêu tù chính trị. Ông trả lời ngay có 240 người. Họ bị kết tội vì tiến hành các hoạt động tình báo, vượt biên giới Liên Xô bất hợp pháp, phân phát tài liệu phản động, buôn bán ngoại tệ mạnh… Vì một số người không chịu thừa nhận hành vi của mình, có thể sẽ phải thả một phần ba trong số này, sau đó thả một nửa. Hai người bị hành quyết vì tội tiến hành các hoạt động gián điệp. Gorbachev thông báo một trong số họ là nhân viên người Mỹ, ra giá 2 triệu rúp. Chebrikov cho biết người này đã chuyển nhiều bí mật quân sự cho phía Mỹ.

Bộ Chính trị rất quan tâm đến ảnh hưởng của vụ tù nhân Tolya Marchenko chết, người đã tuyệt thực ba tháng liền trước khi chết. Ngày 4/2/1987, người ta đã thông báo lên giới lãnh đạo về cái chết của tù nhân này. Cần giảm số lượng tù chính trị xuống nhằm làm dịu đi hình ảnh của Liên bang Xô viết trong con mắt phương Tây. Ngày 15/1/1987, KGB thông báo có khoảng 288 tù nhân đang bị giam cầm, trong số đó có 114 người bị kết tội tuyên truyền phản động chống lại nhà nước Xô viết (Điều 70 trong Bộ luật Dân sự Liên bang Nga), 119 người đã có thái độ phỉ báng hệ thống xã hội và nền chính trị Xô viết (Điều 190-1) và 55 người phạm các tội khác. Một chiến thuật được chấp nhận là khuyến khích tù nhân ký vào các bản kháng cáo không thừa nhận hành vi phi pháp của mình. Có 51 tù nhân đã làm như vậy và được ân xá. Ngày 1/5/1987, vẫn còn 98 nguời bị kết án theo các điều khoản trên. Luật tội phạm dự thảo được công bố tháng 12/1988, xóa bỏ các tội được quy định trong Điều 70 và 190-1 của Luật tội phạm Liên bang Nga và các tội quy định trong luật pháp của các nước cộng hòa khác. Những người bị kết án và những người không chịu thừa nhận hành vi phi pháp của mình vẫn phải ở trong tù. Tháng 2/1992, Tổng thống Boris Yeltsin ra lệnh trả tự do cho toàn bộ tù chính trị.

Lãnh đạo mới của cơ quan KGB là Vladimir Kryuchkov, một sự lựa chọn tồi tệ hơn so với việc bổ nhiệm Chebrikov. Bào chữa cho hành động này, Gorbachev cho biết Kryuchkov là người thân tín, đồng minh lâu năm và thân cận của Andropov. Lập ra hàng loạt các ủy ban là một bước khôn ngoan đầy toan tính vì không ai để ý tới các cuộc tranh cãi của họ. Quyết sách chính trị đã thay đổi ở nhiều điểm khác. Tuy nhiên, một trở ngại quan trọng là xác định vai trò của Ban Bí thư. Ban Bí thư chịu trách nhiệm giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Bộ Chính trị. Không ai thay thế được ban này. Gorbachev phải lập ra một cơ quan mới để đảm bảo mọi quyết định tối cao đều phải được thực hiện.

Phiên họp toàn thể Ban Chấp hành Trung ương ngày 30/9 cho phép các phần tử chống đối trong giới lãnh đạo có quyền thanh minh bào chữa. Andrei Gromyko ngủ gà ngủ gật trong phiên họp, tỉnh giấc và đã có những lời phát biểu không thích đáng. Petr Demichev, Phó Chủ tịch thứ nhất Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô (đồng thời là Phó Chủ tịch nước) đã quá tuổi nghỉ hưu. Anatoly Lukyanov lên thay Petr Demichev và để trả ơn Gorbachev, chính ông ta đã lập mưu lật đổ Gorbachev vào tháng 8/1991. Mikhail Solomentsev nhường cho Boris Pugo làm Chủ tịch Ban Thanh tra Đảng. Gorbachev coi Pugo là “một người chính trực”. Đây là nhận định không thỏa đáng vì Pugo là một kẻ mưu đồ trong tháng 8/1991. Vitaly Voronikov bị chuyển sang làm Chủ tịch Đoàn Xô viết Tối cao Liên bang Nga và lãnh đạo Nhà nước Nga (đây chỉ là chức danh tôn vinh lúc đó). Ai sẽ thay Gromyko đứng đầu Nhà nước? Chính Mikhail Sergeevich đã đề cử Ligachev. Nhưng Gorbachev cho rằng khôn ngoan là không gạt bỏ Ligachev, mặc dù ông ta có thái độ bất bình trước tiến trình cải cách. Nguy cơ là ông ta sẽ đứng đầu phe bảo thủ chống đối perestroika . Có sự ủng hộ tiềm năng rộng lớn. Theo ước tính của Gorbachev, có khoảng 18 triệu công chức quản lý khoảng 127 triệu công nhân. Trong số các công chức này, có 2,5 triệu người làm việc trong các bộ và các cơ quan nhà nước, số còn lại làm trong xí nghiệp. Chính cơ cấu hành chính này làm người ta phát điên, vì cứ bảy người lao động thì có một người giữ vai trò chỉ huy. 3

Đã xuất hiện ý nghĩ Ban Chấp hành Trung ương cũng chỉ là một tổ chức bảo thủ và có nguy cơ phá vỡ tham vọng của mình, Gorbachev quyết tâm loại bỏ tổ chức hữu danh vô thực này và cả những nhân vật chống đối lại mình tại Hội nghị lần thứ 19 sắp tới nhưng không thành. 4 Sau phiên họp toàn thể Ban Chấp hành Trung ương tháng 1/1987, các bí thư Đảng đã phải đối mặt với các cuộc bỏ phiếu cạnh tranh và có nhiều người trong số họ đã bị gạt ra ngoài. Các nhà lãnh đạo Đảng đều phát huy hết công suất bộ máy tuyên truyền thông qua phương tiện thông tin đại chúng nhưng không có tác dụng. Đây chính là điểm Gorbachev tính đến, quyền lực của bộ máy Đảng sẽ giảm sút vì các đảng viên không còn sợ uy quyền đó. Các quan chức bây giờ được đánh giá theo công việc thực hiện, chứ không theo địa vị cao thấp. Các đảng viên trở nên thờ ơ với bộ máy quan liêu của Đảng. Tâm lý này lan ra trong đại đa số quần chúng và ngày càng rõ nét trong các cuộc bầu cử vào Đại hội đồng Nhân dân tháng 3/1989. Người dân mất lòng tin vào Đảng nhưng điều quan trọng hơn là họ không còn tin vào cơ quan KGB. Chủ trương công khai khiến họ không ngại lên tiếng và đến lúc này, các nhân vật có quyền được bảo vệ hay tổng bí thư đều không còn là những người bất khả xâm phạm nữa.

Điều này làm chuyển đổi nền chính trị. Năng lực của công chức được đánh giá dựa trên kết quả công việc chứ không phải theo là lời hứa. Khi các vấn đề kinh tế chồng chất năm 1989, giới quyền uy mới vào cuộc bằng việc chỉ trích phê bình, càng ngày càng gay gắt. Đây là một kinh nghiệm mới cho các đảng viên và công chức nhà nước, những người trước kia chỉ biết ra lệnh và chờ đợi sự phục tùng. Bây giờ họ phải tự bảo vệ trước hàng loạt các khiếu nại, một số bào chữa được, một số không thể nhưng cuối cùng họ cũng làm tròn bổn phận của mình một cách kém cỏi. Họ học các nền chính trị dân chủ đang tồn tại trên thế giới, họ phàn nàn và đổ lỗi cho Gorbachev về tình trạng bất công tràn lan trong xã hội. Một làn sóng các nhà luận chiến tài ba nổi lên và những bài viết ra không xứng với tầm của họ. Các cây bút này nắm lấy cơ hội trả đũa những người làm khó dễ cho họ trước kia.

Cuối cùng, Gorbachev công khai gạt bỏ các phần tử này khỏi Ban Chấp hành Trung ương Đảng vào tháng 4/1989 khi đồng loạt 74 ủy viên chính thức từ chức và 24 ủy viên dự khuyết xin rút. Theo ước tính của Gorbachev, trong số 303 ủy viên chính thức được bầu tại Đại hội Đảng lần thứ 27 thì có 84 người đã ở độ tuổi nghỉ hưu, như vậy chỉ còn 27 người trong số 157 người ra ứng cử. Do vậy ông đi đến quyết định gạt toàn bộ những người này khỏi Ban Chấp hành Trung ương. Người nào nghỉ hưu sẽ được hưởng chế độ ưu đãi về lương, nhà ở, dịch vụ chăm sóc y tế và nhiều chế độ khác, tuy nhiên một vài chế độ ưu đãi đã không thể thực hiện được.

Trong số đó có những cây đại thụ chính trị phải ra đi có Andrei Gromyko, Nikolai Tikhonov và Boris Ponomarev. Trong số những người được chuyển từ ủy viên dự khuyết lên ủy viên chính thức có nhà khoa học Evgeny Velikhov và Valentin Stalin − lãnh đạo Ban Quốc tế thuộc Ban Bí thư. Tuy vậy, như một phiên họp toàn thể Ban Chấp hành Trung ương thông thường, không có ủy viên mới được bầu. Phải đợi đến kỳ họp Đại hội Đảng sau. Không chỉ có một đội hình khao khát thực hiện perestroika đang đứng sau cánh gà. Gorbachev buồn rầu khi đi đến kết luận rằng cuộc bầu cử trong Đảng mang tính cạnh tranh đơn giản chỉ tạo ra một hình thức bầu cử mới chứ không làm thay đổi bản chất sự việc. Thậm chí nhiều cuộc bầu cử diễn ra sau này, kết quả vẫn thế mà thôi: chỉ là bầu cử hình thức. Họ đều ăn mặc chỉnh tề, cùng chung một lý tưởng chủ nghĩa Stalinist và với tư tưởng đó, họ được đào tạo để thi hành mệnh lệnh chứ không được đào tạo để phát huy sáng kiến và chịu trách nhiệm trước dân chúng.

ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU NHÂN DÂN VÀ XÔ VIẾT TỐI CAO

Các cuộc bầu cử vào Đại hội Đại biểu Nhân dân diễn ra ngày 26/3/1989, đây là một bước ngoặt chính trị. Những người Bolshevik lần đầu tiên tổ chức một cuộc bầu cử tranh cử trên toàn quốc. Khái niệm Đại hội làm cho người ta nhớ lại những năm đầu của cách mạng. Có 2.250 đại biểu trong Đại hội Đại biểu Nhân dân, trong đó 750 đại biểu đại diện cho các tổ chức xã hội, 750 người đại biểu cho cử tri các vùng, lãnh thổ và 750 đại diện cho các dân tộc trên toàn Liên bang. Như vậy, một phần ba đại biểu không được bầu trực tiếp. Trong số các tổ chức xã hội, 100 ghế dành riêng cho Đảng, một số ghế được dành cho Viện Hàn lâm Khoa học, Hội Điện ảnh và các tổ chức đại loại như vậy. Gorbachev quyết định để lại 100 người trong danh sách của Đảng. Ông lo ngại nếu danh sánh là 200 người, mà người nào cũng có tư tưởng cấp tiến, bao gồm cả ông, thì sẽ là một thất bại.

Đại hội tiến hành bầu ra một Xô viết Tối cao mới, gồm hai viện là Xô viết Liên bang và Xô viết các dân tộc, mỗi viện có 271 đại biểu nhân dân. Đây là hình thức lặp lại Xô viết Tối cao trước đây nhưng khác ở chỗ bầu cử trực tiếp. Điều thú vị là số đại biểu của hai viện này là vừa bằng số nghị sĩ của Thượng và Hạ viện Mỹ.

Bộ máy Đảng tin là có thể điều hành việc bổ nhiệm theo cách này để đảm bảo nền dân chủ giả hiệu. Đảng tin chắc là các đại biểu nam hay nữ của Đảng sẽ thắng cử. Tất cả những người có quan điểm độc lập hoặc không chính thống đều bị loại. Người bị loại số một là Boris Yeltsin. Yeltsin đã rất thận trọng khi ứng cử trong khu vực cử tri ở vùng nông thôn tỉnh Sverdlovsk, sân nhà của mình. Ông đã không thông báo trước với Đảng ủy mà xuất hiện bất ngờ. Tuy nhiên, mục tiêu của ông là giành một vị trí cao hơn. Ông muốn có tên trong phiếu bầu tại khu vực hành chính số một là Moskva. Còn lại 10 ứng cử viên vào ngày 22/2 khi quyết định cuối cùng được đưa ra xem ai có thể được ghi tên trong phiếu bầu. Đảng quyết định những người đó là Yury Brukov − giám đốc nhà máy sản xuất ôtô ZIL và Georgy Grechko − nhà du hành vũ trụ nổi tiếng. Các nhà chức trách cũng bảo đảm họ đã sắp xếp tiến trình bầu cử được truyền hình trực tiếp trên đài truyền hình Moskva. Boris Nikolaevich chắc chắn sẽ có màn thất cử ngoạn mục.

Yeltsin đã bị các đại biểu chỉ trích nặng nề và yêu cầu rút khỏi danh sách ứng cử. Ông đã đáp trả những câu hỏi mang tính thù địch khi bị chất vấn. Tuy vậy, ông cũng biết không ai khác mà chính là Grechko chủ định rút Yeltsin khỏi danh sách ứng cử. Grechko thông báo điều đó với Yeltsin và Yeltsin thuyết phục Grechko giữ kín chuyện này cho đến khi hoàn thành việc kiểm phiếu. Sau đó, ông có thể từ chức, rời khỏi Đảng mà không cần phải đề cử ứng cử viên khác thay thế. Sau 12 giờ, các đại biểu sẵn sàng bỏ phiếu. Người ta đoán Brakov sẽ bỏ phiếu đầu tiên, Grechko thứ hai và bỏ ngoài tai sự phản đối, Yeltsin vẫn là người thứ ba. Ngay sau đó Grechko phản ứng mạnh mẽ bằng cách tuyên bố mình sẽ rút lui. Đảng lại rơi vào tình thế khó xử. Nếu chấp nhận Yeltsin có nghĩa là chấp nhận một thất bại đau đớn, nếu Đảng tuyên bố bổ nhiệm ứng cử viên khác vào để lấp chỗ trống, thì điều đó sẽ biến tiến trình bầu cử, ứng cử trở thành một trò cười. Đảng buộc phải chấp nhận và để Yeltsin lại trong danh sách ứng cử.

Ngày 26/3, kết quả kiểm phiếu cho thấy Yeltsin giành được tỷ lệ bầu khá cao – 89,4% số phiếu, trong khi Brakov có một kết quả đáng thất vọng là 6,9%. Gorbachev đạo diễn màn kịch này nhằm loại bỏ Boris Nikolaevich nhưng quan trọng là ông đã không phá được kết quả bầu cử. Thắng lợi khá cao này chứng tỏ quá trình kiểm phiếu diễn ra công bằng và điều đó thể hiện sự thắng thế của nền dân chủ sơ khai. Người chiến sĩ của nhân dân đã quay trở lại trên sân khấu chính trị quốc gia. Mối quan tâm của công chúng đối với đời sống chính trị rất cao thể hiện ở tỷ lệ phiếu bầu 89,8%.

Có những thất bại khác cho những người cảm tình Đảng. Thất bại to lớn nhất là thất bại của Bí thư thứ nhất Thành ủy Leningrad, Yury Solovev, ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị. Ông này chắc đến mười mươi vì chỉ có mỗi tên ông trong danh sách ứng cử. Ông chắc chắn không thể thất cử. Theo luật, để chiến thắng trong vòng đầu tiên, ứng cử viên phải dành được ít nhất 50% số phiếu bầu cộng một phiếu. Theo luật bầu cử Nga, một người có thể không bầu cho một ứng cử viên hoặc không bầu cho tất cả ứng cử viên bằng cách gạch toàn bộ tên họ trong danh sách. Solovev không chỉ thất cử mà còn phải từ chức lãnh đạo Đảng ở thành phố Leningrad. Nguyên tắc này được Đảng chấp thuận, họ vô tình không nhận ra là nguyên tắc đó đã trở thành hiện thực. Theo một nhà quan sát, người có tài năng cũng thất cử ngay cả khi không vấp phải sự chống đối nào, nhưng tài năng này sẽ là nguồn cán bộ cho đội ngũ lãnh đạo cao cấp của Đảng.

Những người cấp tiến đã thắng lợi ở Moskva và Leningrad, trong số ứng cử viên được bầu có những người trở thành ưu tú trong tương lai như Sergei Stankevich − chuyên gia sử học về Mỹ, Anatoly Sobchak − luật sư lành nghề và sau này là thị trưởng Leningrad, nhà sử học Yury Afanasev và Nikolai Shmelev − nhà phê bình kinh tế. Oleg Bogomolov, một nhà cải cách kinh tế tài ba cũng thắng cử ở Moskva, dù Đảng đã áp dụng các tiểu xảo nhằm loại bỏ ông. Sau đó ông phát biểu một cách châm biếm: “Tôi không có ý kiến gì, đây là lợi thế chống lại Đảng”. Andrei Sakharov và Roald Sagdeev, nhà nghiên cứu vũ trụ nổi tiếng, được bầu là những đại biểu của đoàn Viện Hàn lâm Khoa học. Lần đầu tiên, Ủy ban Đảng của Viện Hàn lâm đưa các vị gạo cội vào danh sách. Điều này gây chấn động như là buộc phải chấp nhận các ứng cử viên mà các viện sĩ đề nghị. Hiệp hội Điện ảnh, nổi tiếng là tổ chức theo chủ nghĩa cấp tiến, dự đoán sẽ có một ứng cử viên thân cải cách. Gavriil Popov, tổng biên tập tờ báo kinh tế hàng đầu Voprosy Ekonomiki (Các vấn đề kinh tế), có quan điểm nghiêng về cơ chế thị trường, và nhà xã hội học nổi tiếng Tatyana Zaslavskaya, cũng được dự đoán trong danh sách ứng cử đại diện cho các tổ chức xã hội. Galina Starovoitara, một phụ nữ giành chiến thắng trực tiếp trong các cuộc bầu cử ở Evevan, Cộng hòa Armenia, chuyên gia hàng đầu về các vấn đề dân tộc và sau này trở thành nhà lãnh đạo phong trào Nước Nga Dân chủ. Khác là phụ nữ không có khả năng đảm đương công việc, Đại hội Đại biểu Nhân dân đa phần dựa vào phái mày râu nhiều hơn cơ quan Xô viết Tối cao cũ. Sự việc này dẫn đến một cuộc tranh cãi liên miên trong lịch sử Xô viết.

Liệu Đảng thắng hay thua trong cuộc bầu cử này? Gorbachev quả quyết Đảng giành thắng lợi vì có tới 87% đại biểu được bầu là người cộng sản. Ryzhkov phản đối đánh giá này, chỉ ra rằng 30 quan chức lãnh đạo Đảng các địa phương quan trọng đã bị đánh bại và nhiều đảng viên giành thắng lợi bất chấp Đảng đã tiến hành chiến dịch ủng hộ những nhân vật có quyền uy hơn. Điều đáng nói, Đảng không làm tròn trách nhiệm của mình ở các thành phố công nghiệp hàng đầu và ở các trung tâm văn hóa xã hội. Đây là một điềm xấu đối với Đảng. Lời cảnh báo rõ ràng là: nếu Đảng không tham gia chính sách perestroika và bản thân công cuộc cải cách không bắt kịp với xu thế thay đổi của xã hội, thì sẽ không còn là một Đảng tiên phong nữa và phải cố gắng không để tuột mất quyền lãnh đạo. Lần đầu tiên, kể từ những năm 1920 1921, nền chính trị trở lại phù hợp luật định. Đảng bây giờ phải tranh đấu với những phe phái khác để giành được sự ủng hộ của công chúng. Những người Bolshevik giành thắng lợi năm 1917 là do họ cấp tiến hơn đối thủ của mình. Nguy cơ hiện nay là những người khác sẽ giành được sự ủng hộ của nhân dân bởi họ cấp tiến hơn Đảng.

Gorbachev tham gia Đại hội Đại biểu Nhân dân để lấy lại quyền lãnh đạo Đảng. Trong suốt bài phát biểu trên cương vị chủ tịch hoặc diễn giả, ông nói: “Tôi biết mọi việc. Thậm chí tôi còn biết nhiều hơn các đồng chí.” Ông đã nhắc đến một số nguyên tắc. “Cải cách vẫn đang tiến về phía trước… tiến trình cải cách chính trị cũng đang ở phía trước… đã đến lúc cần phải đoàn kết vì những lợi ích tối cao.” Về các dân tộc, ông đã nghiêm khắc cảnh báo: “Nếu chúng ta bắt đầu tách mình với các dân tộc khác… nếu chúng ta lại vẽ lại đường biên giới, tôi chắc chúng ta sẽ phải chịu thảm họa.” Vấn đề Nagorno-Karabakh khiến ông băn khoăn trăn trở. Một số đại biểu tiếp tục tranh cãi với chủ tịch mới. Brazauskas bộc bạch: “Đoàn đại biểu chúng tôi đến Moskva để tham gia Đại hội Đại biểu Nhân dân chứ không phải có ý định thù địch chống lại Moskva hay thậm chí cá nhân Gorbachev”. Tuy vậy, tất cả đều bỏ phiếu cho Gorbachev là chủ tịch.

Thái độ Gorbachev đối với việc bầu chủ tịch Đại hội Đại biểu Nhân dân ngay khi khai mạc Đại hội đã phản ánh ông không có khả năng nắm bắt nền chính trị dân chủ − cần phải thể hiện thái độ cầu thị, sẵn sàng chấp nhận phe đối lập. Andrei Sakharov đề nghị cuộc bỏ phiếu bầu chủ tịch Xô viết Tối cao (đồng thời là người đứng đầu chính quyền) sẽ hoãn lại cho đến khi mọi vấn đề tranh luận được giải quyết thấu đáo, chứ không phải là mục đầu tiên trong chương trình nghị sự. Hiển nhiên Gorbachev sẽ được bầu nhưng ông kêu gọi bỏ phiếu và ngầm nhắc Đại hội điều này − Đại hội bác bỏ đề nghị này. Gorbachev khuyến khích các đảng viên chấp nhận cuộc bầu cử cạnh tranh nhưng ông lại không cho phép bất cứ người nào chống lại mình trên cương vị chủ tịch Đại hội Đại biểu Nhân dân. Gennady Burbulis, sau này trở thành một thành viên sáng giá trong chính phủ Yeltsin, đã đề cử Yeltsin nhưng ông ta từ chối. Aleksandr Obolensky, kỹ sư vùng Murmansk, quan tâm tới chức danh chủ tịch Đại hội Đại biểu Nhân dân đã tự đề cử. Các đại biểu tiến hành bỏ phiếu như Gorbachev mong muốn nhưng khoảng một phần ba bầu cho Obolensky. Mikhail Sergeevich mất cơ hội trở thành một chính trị gia dân chủ và ông nhắc lại việc mình nghiêng về quan điểm bầu cử cạnh tranh, tên của Obolensky được thêm vào danh sách ứng cử, khi đi đến quyết định, Gorbachev nhận được 95,6% phiếu bầu và chỉ có 87 phiếu chống. Theo dõi sát sao cuộc bỏ phiếu này, vị đại sứ Mỹ kết luận Mikhail Sergeevich là một tay chơi cờ kém.

Nếu ông để lộ quyết định sai lầm ở đây, ông chỉ là một người giỏi trong các cuộc đàm phán sau cánh gà ở Đại hội. Ông là người có khả năng thương lượng. Tuy vậy, khả năng này cũng không thể bảo vệ ông thoát khỏi sự chỉ trích của đồng sự. Trong nhiều ngày (Đại hội Đại biểu Nhân dân diễn ra từ 25/5 đến 9/6) ông trở thành tâm điểm của những chỉ trích mạnh mẽ từ các đoàn đại biểu, nhiều người trong số họ là người cộng sản bảo thủ, còn dân chúng đặt dấu chấm hỏi đối với các chương trình chiếu trên truyền hình buổi tối và đầu giờ sáng. Những người cộng sản bảo thủ phản đối việc bầu Sakharov và các nhà cấp tiến cũng thể hiện quan điểm, sự phê bình của họ lại không bị tuyệt đối bác bỏ. Phe cấp tiến cho rằng họ không đủ thời gian. Mikhail Sergeevich bị rơi vào giữa hai làn đạn và chắc chắn sẽ mất những gì ông đã quyết định. Một đại biểu lên tiếng chất vấn có thật là ông có một biệt thự ở Crime xây bằng tiền nhà nước hay không. Nhiều người trong số họ cũng cho rằng Gorbachev không nên đồng thời vừa là Chủ tịch Đại hội Đại biểu Nhân dân vừa là Tổng Bí thư Đảng.

Một vấn đề nhạy cảm trong Đại hội Đại biểu Nhân dân là vấn đề dân tộc đang hết sức căng thẳng và phức tạp, liên quan đến vụ thảm sát đám biểu tình không trang bị vũ khí ở Tbilisi, Gruzia ngày 9/4/1989. Sakharov chỉ trích trách nhiệm thuộc về Quân đội Xô viết, do Tướng Igor Rodionov chỉ huy (Bộ trưởng Quốc phòng Nga từ tháng 7/1996 đến 5/1997). Vì sự kiện này, ông đã bị nhiều đại biểu chỉ trích, họ là những người coi tấn công vào quân đội như để chứng tỏ sức mạnh của mình. Những người khác muốn biết ai ở Moskva ra lệnh tấn công Tbilisi (lúc đó Gorbachev không có mặt). Gorbachev có trách nhiệm phải giải thích rõ vụ việc này. Tiếng tăm và uy tín của Gorbachev nổi lên rất cao vào cuối năm 1988. Trong một cuộc trưng cầu ý kiến về các chính trị gia hàng đầu, ông nhận được 55% sự ủng hộ, trong khi đó Yeltsin chỉ nhận được 4%. Tuy nhiên, tỷ lệ ủng hộ bắt đầu trượt giảm vào năm 1989 khi sự chỉ trích và phê bình ngày càng dội lên. Không ai có quyền chỉ trích hay phê bình Tổng Bí thư. Cho đến năm 1989, ông mới chứng tỏ là một nhà lãnh đạo mạnh mẽ tự tin, nhưng giờ đây ông lại thấy mình ở thế yếu.

Các cuộc bầu cử vào Xô viết Tối cao mới đã diễn ra trong Đại hội Đại biểu Nhân dân và được triệu tập khi Đại hội Đại biểu Nhân dân đề ra những quyết sách cuối cùng. Trong khi đại biểu Đại hội có thể kiêm nhiệm, thì các đại biểu Xô viết Tối cao phải là các chính trị gia chuyên nghiệp, tham dự toàn bộ các cuộc họp của Xô viết Tối cao khoảng 40 tuần một năm. Do cơ chế của Đại hội, chắc chắn những người cấp tiến có thể hoàn thành nhiệm vụ suốt cả nhiệm kỳ. Nga được chấp nhận có 11 thành viên trong Cơ quan Xô viết về vấn đề dân tộc. Yeltsin là số 12 trong danh sách này. Đại hội phản đối số đại biểu lớn nhất ở Nga. Aleksei Kazanik, một luật sư từ vùng Omsk, thoát khỏi tình huống này là người thứ 11 và kế tiếp danh sách sau ông là Boris Nikolaevich, đã phát biểu ông không thể đối mặt với các cử tri nếu rốt cuộc ông lại là người chịu trách nhiệm về việc loại bỏ Yeltsin. Gorbachev, là luật sư nhưng đã quên hầu hết kiến thức về luật, ông đã hỏi ý kiến luật sư Lukyanov và không tìm thấy điều gì trong sách luật để ngăn chặn việc này. Gorbachev đã chủ tọa các phiên họp đầu tiên của Xô viết Tối cao, nhưng sau đó do áp lực công việc, chức này được giao cho Anatoly Lukyanov, người mà ông bổ nhiệm vào vị trí phó chủ tịch.

Theo quy định của Hiến pháp, Thủ tướng Ryzhkov phải đệ trình danh sách đề cử của các bộ trưởng trước Xô viết Tối cao để được xác nhận. Các đại biểu có quyền thoải mái bác bỏ danh sách đề cử. Các bộ trưởng có tiếng tăm có thể bị tấn công bằng lời nói và bị gạt ra ngoài.

Chính phủ mới bày tỏ niềm tin là không có khủng hoảng trong tương lai. Nó là sự kết hợp các lợi ích kinh tế (tổ hợp công nghiệp-quốc phòng, nhiên liệu, năng lượng và nhóm vận động nông nghiệp), các nhà chức trách có đầu óc cải cách (như Valentin Pavlov, người sau này kế nhiệm chức thủ tướng trong chính quyền Gorbachev) cùng các nhà cải cách kinh tế (như Leonid Abalkin). Sự cân bằng quyền lực trong chính phủ thể hiện không có dấu hiệu tiến tới cải cách cấp tiến. Nó vẫn đang trong quá trình tìm kiếm nhằm cải thiện cơ chế kinh tế mà thôi. Khái niệm thị trường được hiểu là thị trường có kế hoạch và có điều tiết. Cải cách theo hướng sinh lợi, từng bước một. Trong một môi trường chính trị ổn định, cải cách như vậy là hoàn toàn phù hợp. Tuy nhiên, đất nước này đang đứng trước nguy cơ khủng hoảng hệ thống, trong đó các cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội có nguy cơ bùng phát cùng một lúc. Chính phủ không có khả năng ứng phó với tình hình như vậy. Đã qua rồi thời mà chính phủ có thể làm mưa làm gió. Điều đó còn ảnh hưởng tới Đảng trên phạm vi rộng lớn hơn. Với tâm lý do dự, Đảng đẩy gánh nặng lên vai chính quyền mới, còn chính quyền mới lại đang trong giai đoạn điều chỉnh ban đầu.

Trong các cuộc bầu cử Đại hội, phe cấp tiến đảm nhiệm tốt vai trò và nhiệm vụ của mình ở Moskva, Leningrad, Sverdlovsk (nay là Ekaterinburg, quê hương của Yeltsin), vùng Cavcaz và các nước cộng hòa Baltic. Làm sao họ duy trì được cái đà này? Nhà lãnh đạo vẫn là Yeltsin. Ông không thuộc tầng lớp trí thức nhưng lại rất nổi tiếng ở Moskva.

Các nhà trí thức đã gạt bỏ nghi ngờ về khả năng cải cách của Boris Nikolaevich và bắt đầu lập ra một nhóm ủng hộ cải cách trong Đại hội Đại biểu Nhân dân. Là Bộ trưởng, Yeltsin được phân một căn hộ cao cấp tại Khách sạn Moskva, chỉ cách Quảng trường Đỏ một quãng ngắn. Phần lớn các đại biểu không phải là đại biểu Moskva đều ở đây. Nơi ở của Yeltsin tự nhiên trở thành nơi họp để thảo ra các kiến nghị và thảo luận các sách lược. Hầu hết họ là đảng viên cộng sản và trong tình trạng bị cấm thành lập phe phái. Liệu họ có lập ra một đảng đối lập với Đảng cầm quyền không? Không bao giờ, vì phản ứng thông thường của người Nga sẽ là: “Thêm một đảng nữa ư? Xin Chúa tha cho, một đảng còn chưa đủ hay sao?

Ngày 19/7, Yeltsin thông báo với Xô viết Tối cao về việc thành lập một cơ quan điều phối nhằm tổ chức các nhóm đại biểu liên vùng và đại hội thành lập này diễn ra vào cuối tháng 7. Nhóm này tuyên bố mục đích hoạt động là đẩy mạnh perestroika . Vì là nhóm thiểu số, có thể nó sẽ trở thành nhóm chống đối và đề xuất định chế khác. Sự việc này cho thấy các đại biểu đã phá vỡ những quy định cấm họ chính thức thành lập phe đối lập. Nhóm ủng hộ perestroika công khai đầu tiên được thành lập.

Nhóm thiểu số này có sức