Chương 5 Chính sách perestroika giai đoạn III: 1990 1991
Điều canh cánh trong lòng Gorbachev bắt nguồn từ một bài báo trên tờ Pravda vào tháng 11/1989. Bài báo bắt đầu với tiêu đề “Tư tưởng xã hội chủ nghĩa và cải tổ cách mạng”, cho rằng đây chỉ là cương lĩnh của cá nhân ông mà thôi. Ông nói rõ mình đã thay đổi cách nhìn nhận trên nhiều vấn đề:
Ông muốn chuyển đổi nền kinh tế hành chính − mệnh lệnh nhưng lại không muốn chấp nhận chủ nghĩa tư bản. Một xã hội nhân ái, tự do và lành mạnh sẽ xuất hiện qua hình ảnh công nhân làm việc trong xí nghiệp, nông dân lao động trên đồng ruộng. Mục tiêu là một xã hội dân sự, nơi mà nền dân chủ và tự do ngự trị. Quan trọng hơn, ông chỉ ra nền dân chủ thật sự là mục tiêu cuối cùng và chỉ có thể đạt được dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhưng trong khi đó nền dân chủ hình thức cũng có vị trí quan trọng, nghĩa là coi nền dân chủ hình thức của các nước tư bản chủ nghĩa là một bước đệm để đi đúng hướng. Việc phân lập các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp cũng rất quan trọng. Ông thừa nhận Đảng đã tụt hậu trong cuộc chạy đua xây dựng dân chủ. Điều này cho thấy ông đang chủ trương xây dựng một nền dân chủ xã hội kiểu phương Tây, dù không có bất cứ biểu hiện nào chứng tỏ ông cổ vũ nền kinh tế thị trường và quyền tư hữu. Tất nhiên, trên cương vị lãnh đạo Đảng, ông không thể công khai thừa nhận các tư tưởng này.
Gorbachev tiếp tục tìm kiếm một cơ chế thị trường mà nó có thể giải quyết mọi vấn đề mà ông đang đối mặt. Chế độ độc Đảng là có lợi trong giai đoạn phức tạp hiện tại nhưng Đảng phải chấp nhận đa nguyên về tư tưởng và ngày càng dân chủ hơn. Điều gì sẽ xảy ra nếu Đảng không bắt kịp tốc độ phát triển của xã hội? Không có lời đáp cho câu hỏi này, nhưng Gorbachev nói với người Berlin rằng lịch sử sẽ trừng phạt những ai không theo kịp xu thế phát triển. Gorbachev táo bạo hơn, trong thông điệp đầu năm mới ngày 31/12/1989. Ông đã gạt bỏ những lời nhắc đến Lenin, đến chủ nghĩa cộng sản và Đảng 1 .
Mùa đông năm 1989-1990 là một trong những mùa đông kinh khủng nhất. Sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu cuối cùng dẫn đến vụ hành hình Nicolai và Elena Ceaucescu, gia đình trị ở Rumani vào tháng 12/1989 khuấy động nỗi niềm hy vọng và thất vọng. Những người đòi quyền tự trị, đòi độc lập được khích lệ mạnh mẽ, trong khi các thành viên của giới cầm quyền Xô viết lại dửng dưng trước sự kiện này. Tình hình kinh tế suy thoái châm ngòi cho sự bất mãn của dân chúng và chủ trương công khai tước bỏ tính hợp pháp của Đảng. Đảng trở thành vấn đề chính đối với Gorbachev. Nhóm liên khu vực gồm các đại biểu Đại hội Đại biểu Nhân dân, phần lớn là những người cộng sản (ngoại trừ trường hợp của Andrei Sakharov) ngày càng mạnh bạo và cấp tiến hơn, nhất là trong kỳ họp Đại hội Đại biểu Nhân dân toàn quốc. Các cuộc bầu cử vào Xô viết Tối cao các nước cộng hòa (chỉ nước Nga vẫn tuân theo hình mẫu Xô viết đề ra khi tiến hành bỏ phiếu trong và ngoài Đại hội Đại biểu Nhân dân, một đại biểu Đại hội Đại biểu Nhân dân toàn quốc và một Xô viết Tối cao) diễn ra đầu năm 1990. Họ nghiêng về phe cấp tiến và những người cộng sản bảo thủ đã bị loại bỏ.
Việc này khích lệ Nhóm Liên Khu vực tin là tương lai nằm trong tay họ. Theo cuộc thăm dò dư luận mùa thu năm 1989 cho thấy đại biểu Đại hội Đại biểu Nhân dân nào cấp tiến hơn thì càng nổi tiếng hơn trong con mắt công chúng. Nhóm Liên Khu vực muốn sửa đổi Điều 6 trong Hiến pháp 1977, điều quy định vai trò độc tôn của Đảng trong cơ cấu quyền lực chính trị. Điều này hợp pháp hóa các phe phái trong Đảng, vốn là điều cấm kỵ kể từ Đại hội lần thứ 10 năm 1921. Phái cấp tiến nghiêng nhiều về phi tập trung hóa hoạt động kinh tế nhưng Thủ tướng Ryzhkov đang cố đưa ra một đường lối nghiêng về tập trung hơn. Các đại biểu Đại hội Đại biểu Nhân dân cũng nghiêng về quyền sở hữu tư nhân về đất đai và hoạt động kinh doanh. Điều này gần như quảng bá cho một Liên bang Xô viết, trong đó Moskva nắm quyền lãnh đạo mà các nước cộng hòa chỉ nghe theo.
Gorbachev phản đối tất cả các sáng kiến này. Ông đặc biệt nhạy cảm với Điều 6 nhưng cũng thành thật cho rằng quyền tư hữu là một bước thụt lùi. Ông lấy cương vị chủ tịch của mình để ngăn cản hoặc chí ít, tránh nổ ra thảo luận các vấn đề này trên phạm vi rộng. Việc đó gây cho mọi người ấn tượng ông đang bảo vệ đặc quyền của giới cầm quyền. Giữa ông và Andrei Sakharov đã xảy ra đụng độ đối đầu vào ngày 12/12/1989. Andrei Sakharov đề nghị tổ chức một cuộc thảo luận về quyền tư hữu đất đai và các xí nghiệp, Điều 6 trong Hiến pháp, và Hiến pháp phải được sửa lại cho phù hợp. Các vấn đề nên được bổ sung vào chương trình nghị sự. Gorbachev phản ứng như bị ong châm và xua Sakharov ra khỏi diễn đàn để không có cơ hội tranh luận. Gorbachev thóa mạ vị viện sĩ cao niên này nhưng khi đưa tin trên truyền hình quốc gia ngay tối hôm đó, chính Sakharov lại là người đã giành được phần thắng. Hai ngày sau ông qua đời vì một cơn đau tim. Những người cấp tiến ghép hai sự kiện này lại, khẳng định chính việc Gorbachev làm bẽ mặt đã đẩy Sakharov đến chỗ chết. Gorbachev không hề muốn có bất kỳ cuộc thảo luận nào về Điều 6, ông cho rằng một Hiến pháp mới có thể giải quyết vấn đề này.
Ngày 13/12, Nikolai Ryzhkov trình bày trước các đại biểu nhân dân kế hoạch chi tiết gồm hai giai đoạn tiến tới quan hệ thị trường. Mỗi giai đoạn kéo dài ba năm. Gavriil Popov, đồng Chủ tịch nhóm Liên Khu vực chế giễu kiến thức kinh tế của Ryzhkov:
Popov chỉ ra rằng kinh tế thị trường không thể được áp dụng từng đợt, giống như một chiếc ôtô cần có một động cơ và các chi tiết cấu thành cùng tương tác mới chạy được. Ông cho là cần có năm luật cơ bản: về quyền sở hữu, đất đai, xí nghiệp, các nước cộng hòa có sự độc lập kinh tế và quyền tự quản của địa phương. Tuy nhiên Đại hội Đại biểu Nhân dân toàn quốc vẫn thông qua kế hoạch xây dựng mối quan hệ thị trường của Ryzhkov với đại đa số tán thành. Họ quyết tâm tiếp tục hợp lý hóa nền kinh tế. Những người cải cách tỏ ra thất vọng và một đại biểu Ukraine bày tỏ nỗi niềm cay đắng trước sự bất công: cả một nước cộng hòa lao động cật lực bị trung ương lấy đi tới 95% sản lượng và chỉ chừa lại cho họ có 5%. Song cũng có trường hợp ngoại lệ, đó là các quốc gia vùng Baltic. Ngày 1/1/1990, họ thông qua quyền tự hạch toán, tức là họ đã giành được quyền tự quyết định về kinh tế.
CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
Lithuania là nơi Gorbachev áp dụng thử nghiệm chính sách dân tộc của mình. Tại cuộc họp thượng đỉnh Malta, Tổng thống Mỹ Bush nêu rõ, người Mỹ sẽ không làm phức tạp thêm vấn đề cho các nhà lãnh đạo Xô viết, đồng thời nói thêm ông sẽ không dùng vũ lực. Đại diện các nước cộng hòa vùng Baltic đã có cuộc gặp đại sứ Mỹ tại Moskva trước khi diễn ra hội nghị thượng đỉnh và tin chắc là Moskva và Washington sẽ không xóa bỏ thỏa thuận vấn đề Baltic. Ngày 7/12, Xô viết Tối cao Lithuania sửa đổi Điều 6 trong Hiến pháp Lithuania, là điều trao quyền độc tôn cho Đảng. Đảng Cộng sản Lithuania triệu tập Đại hội ngày 20/12 và ngay trưa hôm đó “với giọng nói tức giận khác thường”, Gorbachev gọi điện thoại cho Brazauskas để hỏi nghị quyết về việc tách Đảng Cộng sản Lithuania ra khỏi Đảng Cộng sản Liên Xô thông qua chưa, ông có biết hậu quả sẽ dẫn tới đâu không? Được cảnh báo quân đội có thể đến giải tán Đại hội nếu việc này được thông qua, Brazauskas lập tức quay lại phiên họp và khuyến cáo Đảng này nên tách ra. Đương nhiên tuyên bố này đồng nghĩa với việc Lithuania thành một nước độc lập. Phái thân Moskva, chiếm khoảng 1/6 số đại biểu tách ra thành lập Đảng của riêng mình, gọi là Đảng Cộng sản Lithuania, trung thành với cương lĩnh của Moskva.
Nay Đảng của Brazauskas trở thành Đảng Cộng sản độc lập Lithuania. Tại phiên họp Đại hội Đại biểu Nhân dân ngày 21/12, Gorbachev khích bác các đại biểu Lithuania: “Các đồng chí là những người cộng sản, những người Bolshevik vô Đảng.” Khi Landsbergis bắt đầu phát biểu, Gorbachev hỏi kháy: “Bolshevik vô Đảng phải không?” Landsbergis trả lời “Vâng”, không nghe thấy từ Bolshevik. Thế là hai bên đã có lời qua tiếng lại. Sau đó, Tổng Bí thư với vẻ mặt buồn rầu, thở dài: “Algirdas 2 , anh đã cống hiến gì cho Đảng Cộng sản?” Dường như Gorbachev đã mất đi một người bạn thân. Họ thuyết phục những người Lithuania rất lâu. Ngày 24/12, cuối cùng Đại hội chấp nhận báo cáo của Yakovlev về Hiệp ước Molotov-Ribbentrop, một nghị định thư kín và tất cả tài liệu khác liên quan.
Đại hội nhận thấy rõ sự đối đầu trực tiếp đầu tiên giữa Gorbachev và Shevardnadze. Ủy ban Sobchak thông báo trước Đại hội về vụ thảm sát Tbilisi, Gorbachev và Shevardnadze được miễn tội, họ đổ lỗi cho quân đội, trách nhiệm chính thuộc về người chỉ huy − Tướng Igor Rodionov. Giới quân sự mếch lòng và biện bạch vụ này mang tính tự vệ. Sau đó, Shevardnadze đòi chất vấn điều tra một số khiếu nại về giới quân sự nhưng Gorbachev không để ông can thiệp vào các vấn đề đó. Thái độ đó khiến Shevardnadze nổi đóa vì ông nghĩ đã có một thỏa thuận về báo cáo được trình ra mà không cần thảo luận. Ngày 24/12, Shevardnadze cảnh báo Gorbachev rằng ông sẽ từ chức để phản đối nhưng vị chủ tọa không muốn nghe và Ngoại trưởng chịu nhường. Gorbachev quyết định đứng về phe quân sự, đó là bằng chứng rõ rệt đầu tiên chứng minh mối quan hệ Gorbachev và Shevardnadze có nguy cơ tan rã. Nó cũng chứng tỏ sự thiếu nhạy cảm của Gorbachev trong các vấn đề dân tộc.
Trong phiên họp toàn thể Ban Chấp hành Trung ương ngày 25/12, những lời xỉ vả tới tấp đổ lên đầu Brazauskas, Vadim Medvedev chứng kiến sự hợp nhất giữa Đại hội Đảng Lithuania và phong trào Sajudis. Đối với Ligachev, phong trào Sajudis lợi dụng Đảng như một công cụ nhằm đạt các mục tiêu quốc gia. Nursultan Nazarbaev, Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Kazakhstan, cho rằng Đảng Cộng sản Lithuania đang cố tước bỏ vai trò là “đội quân tiên phong chính trị trong xã hội Xô viết của Đảng Cộng sản Liên Xô”. Tuy vậy, ông lại đề xuất ngay việc tái cơ cấu Bộ Chính trị làm đại diện cho toàn thể các dân tộc của Liên bang Xô viết. Gorbachev ngắt lời những người đang phát biểu say sưa chỉ trích Brazauskas. Có lúc ông đã nói, nhà lãnh đạo người Lithuania này là “một chú ngựa thành Troa”. Một nhà phê bình đã cảm nhận Brazauskas giống một nhân tố nguy hiểm vì ông là “người nhạy cảm, và có quyền lực”. Phe bảo thủ trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng được một phen chế nhạo, huýt sáo miệng thoải mái, perestroika bị mang ra xem xét.
Sau đó, Gorbachev phê bình những người ủng hộ perestroika không chịu lên tiếng. Chernyaev phân trần là họ chờ ông phát biểu trước. Nếu ông ngồi đó và chấp nhận sự chỉ trích này, những người ủng hộ ông còn biết làm gì. Gorbachev nhường Ligachev lãnh đạo phiên họp toàn thể Ban Chấp hành Trung ương ngày 9/12 và ông đã tấn công perestroika. Yakovlev báo cáo sau đó, Tổng Bí thư ca ngợi Ligachev có công “bảo vệ Đảng”. Cách cư xử này khiến những người ủng hộ ông lúng túng. Chernyaev nói với Gorbachev là chừng nào mà ông còn ca ngợi Ligachev trước công chúng, dù biết ông này là kẻ thù, thì sẽ không bao giờ có perestroika trong Đảng. Yakovlev nói với Gorbachev lẽ ra ông không phải chịu sự phê phán cá nhân trước những việc ông đã làm. Lẽ ra ông phải đứng dậy và bỏ đi, ông cũng có thể lôi kéo thêm 100 người nữa theo ông ra ngoài. Trong số các nhà lãnh đạo, Yakovlev nghĩ Medvedev, Shevardnadze, Slyunkov và Kryuchkov sẽ ủng hộ Mikhail Sergeevich. Yakovlev cho rằng Gorbachev nên bỏ hẳn các vị có danh pháp lãnh đạo trong trung ương Đảng, vì perestroika không thể thành công với một đội ngũ lãnh đạo như vậy.
Phiên họp toàn thể chỉ rõ Gorbachev không chấp nhận một Đảng liên bang, như Yakovlev và những người khác khuyên. Thậm chí, dù đại đa số đảng viên của Lithuania đều muốn có một Đảng liên bang, Gorbachev coi đó là con đường dẫn đến hủy hoại. Ông cho quá trình này là quá trình tách khỏi Liên bang Xô viết và nó sẽ là sự cáo chung lịch sử đối với tất cả các dân tộc thuộc Liên bang Xô viết 3 .
Tình hình ở Lithuania ngày càng nghiêm trọng hơn và Gorbachev cảm thấy phải nghĩ cách gửi lời kêu gọi thẳng tới nhân dân không thông qua các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản. Ngày 4/1, ông gặp lãnh đạo Đảng Lithuania Brazauskas tại Moskva. Yakovlev dự đoán Lithuania có thể tạo ra hiệu ứng đôminô có thể là vấn đề chính sự tồn vong của Liên bang Xô viết. Gorbachev khuyến cáo những người cộng sản Lithuania nên chống lại tư tưởng độc lập, đồng thời cho họ hiểu nỗi khó xử của ông. Khi đến Vilnius ngày 11/1/1990, ông được phong trào Sajudis chào đón nhiệt tình, họ kêu gọi dân chúng thể hiện sự tôn trọng trước “nhà lãnh đạo của một nước láng giềng” và còn là “một nước láng giềng thân thiện”. Sau đó, ông chỉ trích Brazauskas nhưng người Lithuania đáp lại là Brazauskas không thể trả lời thay cho phong trào Sajusdis. Mikhail Sergeevich giải quyết vấn đề có nên tồn tại hai đảng ở Lithuania không. Ông được hộ tống đến khắp nơi với các nhà lãnh đạo của cả hai đảng. Ông sửng sốt về sự phản kháng mãnh liệt của công chúng Lithuania và điều này đã khiến ông nhận ra tình cảm dân tộc là tình cảm sâu sắc nhất. Ông cố từ bỏ khát vọng giành độc lập. Ông hy vọng cải cách chính trị và kinh tế sẽ đẩy lùi tư tưởng ly khai. Thấy được việc tham gia Liên bang mang lại lợi ích thật sự, người ta sẽ không còn ám ảnh bởi ý nghĩ độc lập và vấn đề này sẽ được giải quyết có lợi cho mọi người. Song, ông đưa ra hai nhân nhượng cơ bản. Một dự thảo luật đang được soạn thảo nhằm quy định cụ thể các thủ tục rút khỏi Liên bang Xô viết. Ông cũng đang tính đến một nhà nước đa đảng. Không có sự kiện bất ngờ xảy ra trong chuyến đi này và người Lithuania cho rằng thành công chủ yếu của chuyến thăm là không có gì thay đổi. Ngày 16/1, Brazauskas được bầu làm Chủ tịch Xô viết Tối cao Lithuania, được coi là người đứng đầu nhà nước. Ông đang dọn đường để gặp Gorbachev trên cương vị hai nhà lãnh đạo tối cao. Lithuania áp dụng mô hình nhà nước Xô viết. Quyền lực dịch chuyển từ Đảng sang tay Xô viết Tối cao.
Toàn thể Ban Chấp hành Trung ương nhóm họp từ ngày 5-7/2 và nghe báo cáo kết quả chuyến thăm Lithuania của Gorbachev. Ông thừa nhận xu hướng ly khai hiện đang chi phối nước cộng hòa này. Song, hai đảng ở Lithuania nên tìm giải pháp chung cho những vấn đề gây cấn. Cả hai đảng đều được mời cả hai đại biểu đi dự Đại hội Đảng lần thứ 28 ở Moskva. Tuy nhiên, những người bảo thủ lại nổi lên trong Đại hội. Họ chỉ ra “hội chứng Ceaucescu” và bày tỏ sự lo ngại một ngày nào đó chính họ bị treo lơ lửng trên các cột đèn. Nếu sự việc bắt đầu ở Lithuania thì nó sẽ kết thúc ở đâu? Phe thân Moskva trong Ban chấp hành Trung ương Đảng Lithuania tập trung chỉ trích Yakovlev, đổ hết tội lỗi cho ông vì chính ông đã khơi mào mọi chuyện và làm tình hình ở Lithuania tồi tệ hơn. Cuối cùng Gorbachev đứng về phe bảo thủ, khiển trách Đảng của Brazauskas. Ông hậu thuẫn cho Đảng thân Moskva, nhưng trên thực tế đảng này không có lực lượng ủng hộ ở Lithuania. Nó đang chơ vơ ở ngã ba đường giữa Gorbachev và Lithuania. Gorbachev không thể đưa ra một sáng kiến nào cho nước cộng hòa này nữa.
Tình trạng căng thẳng giữa Azerbaijan và Armenia về vùng Nagorno-Karabakh ngày càng tăng trong năm 1989, Moskva quyết định giao vấn đề tranh chấp vùng đất này cho các nước cộng hòa liên quan. Chính quyền đặc biệt tại Nagorno-Karabakh dưới thời Arkady Volsky giải thể ngày 28/11/1989, khi Xô viết Tối cao Liên bang bỏ phiếu ủng hộ trả lại vùng Nagorno-Karabakh thuộc về quyền quản lý của Azerbaijan. Ngày 1/12, căng thẳng ngày càng gia tăng ở thủ phủ Stepanakert, khi Xô viết Tối cao Armenia bỏ phiếu công nhận Nagorno-Karabakh là một vùng đất không thể tách rời của họ. Azerbaijan đáp trả bằng cách phong tỏa Armenia, vì vậy hầu như toàn bộ hàng hóa vận chuyển đến Armenia phải đi qua lãnh thổ Azerbaijan. Mặt trận Dân tộc Azerbaijan, lúc này được công nhận hợp pháp, đã tổ chức các đoàn biểu tình lớn phản đối. Ngày 13/1/1990, các cuộc bạo loạn đẫm máu nhất trong thời kỳ Xô viết đã xảy ra ở Baku. Người Armenia bị sát hại ở mọi nơi. Mặt trận Dân tộc nắm lấy quyền lực và giới lãnh đạo Đảng phải di chuyển về Moskva. Ngày 18/1, Mặt trận Dân tộc tuyên bố tình trạng khẩn cấp và chính quyền cộng sản bắt đầu sụp đổ. Ngày 19/1, Mặt trận đã chiếm các tòa nhà của Đảng và chính phủ.
Cùng ngày đó, Moskva tuyên bố tình trạng thiết quân luật và quân đội Xô viết tiến vào Baku nhằm khôi phục chính quyền cộng sản. Ngày 21/1, Xô viết Tối cao Azerbaijan biểu quyết tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý về việc tách khỏi Liên bang Xô viết nếu quân đội Liên bang tiếp tục đóng quân trên mảnh đất này. Hơn 200 người ở Baku có thể đã bị sát hại trong cuộc đàn áp thẳng tay. Tình hình này chỉ kích thích thêm nỗi niềm khao khát của người Azeris về một nền độc lập hoàn toàn. Sự can thiệp bằng quân sự ở Baku châm ngòi cho các cuộc biểu tình ở Nga. Họ không phản đối việc quân đội tiến hành đàn áp mà họ quan tâm đến người thân, con cái đang bị đẩy vào nơi nước sôi lửa bỏng. Tuy vậy, có một tiền lệ: để giữ gìn đế chế được toàn vẹn thì phải đổ máu. Kết luận riêng của Gorbachev là chính quyền không thể tránh được việc sử dụng vũ lực trong tình huống quá khích. Chỉ có một chút hài lòng cho Gorbachev là người Mỹ không đả động gì đến vụ thảm sát ở Baku. Washington chấp nhận đó là xung đột sắc tộc nội bộ.
GORBACHEV, PHE CẤP TIẾN VÀ PHE BẢO THỦ
Hơn 400 người cấp tiến trong Đảng đã tập hợp lại ngày 20-21/1/1990 với mục đích tạo dựng nền tảng dân chủ cho Đảng Cộng sản Liên Xô. Nhiều người trong số này là đại biểu nhân dân của Nhóm Liên Khu vực. Họ nghiêng về chủ trương xây dựng một chế độ đa đảng, sự cáo chung của chế độ độc Đảng, của chế độ tập trung dân chủ và bỏ phiếu kín bầu các quan chức chính quyền. Có nhiều người tin ở lại trong Đảng sẽ tốt hơn, như Yeltsin, nhằm thay đổi tổ chức ngay từ bên trong. Song, những người khác, như Gavriil Popov, lại muốn tách ra khỏi Đảng nếu bộ máy Đảng không được xây dựng dân chủ hơn. Aleksandr Yakovlev không tham gia nhưng người ta cho rằng ông có hướng ủng hộ nhóm này.
Cuộc chiến sôi sục ở hậu trường được đăng tải trên các trang báo của tờ Le Monde. Phóng viên thường trú của báo này tại Moskva có trong tay nhiều tài liệu về chủ trương, chính sách do các cố vấn của Gorbachev soạn thảo, họ là những người ủng hộ nhóm dân chủ này. Họ tán thành cắt đứt hoàn toàn quan hệ với phe bảo thủ trong Đảng, chính những người đó bây giờ là bức rào cản lớn nhất đối với perestroika. Hơn thế nữa, họ còn đang tạo dựng các liên minh với những phần tử Sô-vanh và các thành phần yêu nước khác trong xã hội. Để thúc đẩy perestroika, Gorbachev buộc phải liên minh với những người cấp tiến này chứ không phải đứng làm trung gian giữa hai phái như trước nữa. Điều đó càng làm tăng sự nghi ngờ của phe bảo thủ, điển hình là Ligachev, về việc Gorbachev từ bỏ đấu tranh giai cấp và phản bội đất nước. Gorbachev thể hiện mình là một tài năng lớn khi thoát khỏi tình huống nguy hiểm này và Bill Keller, phóng viên đáng kính của tờ Thời báo New York, đã tóm lược kỹ năng của Gorbachev khi phiên họp toàn thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngày 5/2 khai mạc:
Gorbachev tạo nên một trong những điều thần kỳ tại phiên họp toàn thể. Ông nhận được sự ủng hộ đông đảo từ phía những người bảo thủ, chấp nhận chế độ bầu cử tổng thống, được đưa vào cương lĩnh mới của Đảng để trình bày tại Đại hội Đảng lần thứ 28 tháng 7/1990. Ông vận dụng hàng loạt chiến thuật nhằm đạt được kết quả. Đầu tiên, cũng có nhân tố bất ngờ. Vấn đề này không được thảo luận trong Đảng hay trong giới báo chí trước khi phiên họp diễn ra. Ông hy vọng vấn đề này được thông qua trước khi các phe phái chống ông hình thành. Ông không đưa ra quá nhiều chi tiết. Tuy vậy, ông nhân nhượng với phe bảo thủ. Ông phản đối chế độ Liên bang và bảo vệ bộ máy tập trung chuyên chế của Đảng. Không có quyền tư hữu đất đai. Tất nhiên, ông chủ trương tiếp tục thúc đẩy xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chắc chắn ông nhận ra mình không thể sử dụng quyền lực tổng thống nếu Đảng cứ khư khư vai trò tập trung của mình. Nếu được bầu làm tổng thống, ông sẽ từ bỏ vai trò lãnh đạo Đảng. Điều đó chỉ có thể diễn ra khi ông coi vai trò của Đảng chỉ mang tính chất là một diễn đàn. Hình như ông kết luận nếu ông là một nhân vật cấp tiến hơn, ông sẽ đảm bảo nền tảng quyền lực của mình trước tiên. Với cương vị tổng bí thư và chủ tịch Đại hội Đại biểu Nhân dân, ông có thể bị thuyên chuyển bất cứ lúc nào. Là tổng thống, ít ra ông cũng được đảm bảo chức vụ của mình trong nhiệm kỳ năm năm. Trong một thời gian trước mắt, thuyết phục Đảng chấp nhận hệ thống bầu cử tổng thống, ông sẵn sàng nhượng bộ. Tuy vậy, các nhượng bộ ông đưa ra làm trầm trọng thêm tình hình kinh tế đáng báo động của đất nước và lại một lần nữa, trì hoãn công cuộc cải cách kinh tế có tính quyết định.
Phiên họp cũng chấp nhận sửa đổi Điều 6 trong Hiến pháp năm 1977 ở phiên họp tới của Đại hội Đại biểu Nhân dân. Trong hồi ký của mình, Gorbachev coi đó là “Điều 6 đáng nguyền rủa”. Về nguyên tắc, quyết định bỏ chế độ độc Đảng được thừa nhận tại Hội nghị lần thứ 19, có nghĩa là chấp nhận một chế độ đa đảng và có phe đối lập chính trị. Nhưng khi nào mới áp dụng những thay đổi cơ bản này? Những người bảo thủ trong giới lãnh đạo, đứng đầu là Ligachev, không muốn từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng. Sự thô bạo của Gorbachev đối với Sakharov vào tháng 12/1989 dường như liên quan tới thất bại của phe cấp tiến, Gorbachev, Medvedev, Shevardnadze và Yakovlev, nhằm muốn đẩy qua Bộ Chính trị xem xét cho nhanh. Gorbachev lên kế hoạch riêng cho cải cách nhưng còn phụ thuộc vào kỹ năng chiến thuật của ông đánh bại những người bảo thủ. Mặt khác, sự phát triển xã hội nhanh hơn sự phát triển của Đảng và cần có sự thay đổi mạnh mẽ, cấp tiến hơn. Khó khăn mà Gorbachev phải đối mặt là nắm bắt nhanh nhạy và kịp thời những thay đổi, thỏa mãn hai viện, không để họ ngày càng bỏ xa nhau. Cũng có quan điểm cho rằng hoạch định mang tính chiến thuật (kế hoạch ngắn hạn) tốt hơn là hoạch định mang tính chiến lược (kế hoạch dài hạn). Cho đến lúc này, ông chưa có một tầm nhìn chiến lược rõ ràng và chưa xác định rõ là mình đang đi đâu. Một trong những điểm yếu của ông là không có khả năng dự báo được hậu quả các hành động của mình.
Gorbachev nhạy cảm lạ thường trước trào lưu chỉ trích cá nhân nổi lên khi các nhóm ủng hộ dân chủ kêu gọi tổ chức một cuộc biểu tình ở Moskva vào ngày 25/2. Ông ủng hộ cuộc biểu tình trước, vào ngày 4/2; nhưng Vladimir Kryuchkov, khéo léo khai thác điểm yếu không thích phê bình của Gorbachev, đã xuyên tạc một số lời nhận xét bình luận, thêm thắt mùi vị chống Gorbachev. Kryuchkov loan tin là những người tuần hành ngày 25/2 có ý đồ xông vào Điện Kremlin. Ryzhkov xuất hiện trên tivi khuyến cáo người dân nên ở trong nhà để tránh rơi vào tình trạng bạo lực có thể xảy ra. Người ta cũng đạt được một thỏa hiệp và đám đông hơn 100 nghìn người đã tụ họp ở Công viên Gorky và sau đó tới quảng trường Smolensk, tránh xa trung tâm. Quân đội sẵn sàng chờ lệnh phòng xa khi có người cố đến gần trung tâm. Toàn bộ việc này làm cho người của phe dân chủ tức giận, họ bắt đầu nghi ngờ về động cơ muốn trở thành tổng thống của Gorbachev. Vị tổng thống tương lai đã giải quyết không thỏa đáng trước đoàn biểu tình khiến họ cho rằng ông không hề có niềm tin vào nền dân chủ. Trong cuộc họp của Xô viết Tối cao hai ngày sau đó, Sergei Stankovich và Anatoly Sobchak kêu gọi cần có sự cân nhắc trước khi thông qua sửa đổi Hiến pháp. Gorbachev bị kết tội tập trung quá nhiều quyền lực trong tay. Điều đó làm ông bị tổn thương và những lời bình luận rời rạc của ông chứng tỏ sự bối rối trong lòng ông. Khi cuộc bỏ phiếu sắp tiến hành, đã có một số lớn ủng hộ bản sửa đổi Hiến pháp.
LẠI LÀ VẤN ĐỀ LITHUANIA
Các cuộc bỏ phiếu cho Xô viết Tối cao Lithuania hay Hội đồng diễn ra ngày 25/2/1990 và vòng hai hoàn thành để Hội đồng có thể triệu tập họp vào ngày 10/3. Các ứng cử viên ủng hộ phong trào Sajudis đã giành chiến thắng đa số áp đảo và hơn số đại biểu cam kết thúc đẩy nền độc lập tự chủ. Đảng thân Moskva tiếp nhận tài sản của Đảng và Gorbachev cảnh báo Brazauskas rằng việc ly khai sẽ làm cho Lithuania mất đi 21 tỷ rúp (tương đương 33 tỷ đôla) vì Moskva sẽ không chấp nhận thanh toán bằng tiền rúp. Lithuania có thể sẽ mất Vilnius và Klaipeda, đồng thời phải lùi về biên giới cũ năm 1939.
Các nhà lãnh đạo Sajudis, đứng đầu là Vytautas Landsbergis, đề nghị gặp đại sứ Mỹ và được chấp thuận sáng 7/3. Tuy nhiên, Shevardnadze đề nghị có cuộc gặp khẩn trước đó. Ông chuẩn bị các công hàm bằng tiếng Gruzia. Việc này quả thật nghiêm trọng. Với giọng điệu trịnh trọng, ông giải thích cuối tuần tới, ngày 10-12/3, sẽ là thời khắc quyết định đối với Liên bang Xô viết: “Kế hoạch của Gorbachev đảm nhận một nhiệm kỳ tổng thống và một liên bang gồm các nhà nước có chủ quyền lại vấp phải sự phản đối kịch liệt. Tình hình nội bộ hết sức căng thẳng, đặc biệt là giới quân sự, một động thái sai cũng có thể châm ngòi cho một cuộc nội chiến và “tạo ra một chế độ độc tài quân sự”. Nếu Đại hội Đại biểu Nhân dân mới của Lithuania tuyên bố độc lập trước khi Đại hội Đại biểu Nhân dân toàn quốc thông qua chế độ bầu cử tổng thống, chắc chắn sẽ có nội chiến. Nếu người Lithuania tuyên bố độc lập sau khi Gorbachev trở thành tổng thống, ông có thể kiểm soát được tình hình. Shevardnadze đề nghị đại sứ Mỹ trì hoãn cuộc gặp với lãnh đạo phong trào Sajudis. Việc này cũng tránh nghi ngờ Mỹ đang ”lôi kéo” Lithuania hòng làm tan rã chế độ Liên bang Xô viết. Việc này có thể xô đẩy đến hành động quân sự chống người Lithuania. Vị đại sứ nói với Shevardnadze rằng ông không thể hoãn cuộc gặp.
Landsbergis phát biểu rằng đoàn đại biểu muốn thông báo với đại sứ rằng Hội đồng Tối cao Lithuania sẽ triệu tập vào cuối tuần và có thể sẽ tuyên bố độc lập. Người Lithuania băn khoăn hai vấn đề: nước Mỹ phản ứng ra sao trước tuyên bố độc lập của họ, liệu quan hệ giữa Washington và Moskva có vì các vấn đề dân tộc mà bế tắc không? Vị đại sứ giải thích Mỹ chỉ công nhận một chính phủ có khả năng kiểm soát được chính lãnh thổ của mình. Đây không phải là trường hợp đó, Washington sẽ không công nhận Lithuania. Về vấn đề dân tộc, không có sự thông cảm giữa hai chính phủ. Người Lithuania muốn tuyên bố độc lập trước khi Gorbachev lên làm Tổng thống. Tại sao vậy? “Đơn giản chúng tôi không tin ông ta”, Landsbergis đáp, “Ông ta thích quyền lực hơn, vì vậy ông ta có thể nghiền nát chúng tôi!” Vị đại sứ đáp lại rằng: Gorbachev hiện đã thừa khả năng để nghiền nát họ rồi.
Vị đại sứ gặp Shevardnadze ngay hôm sau. Ông gợi ý là Tổng thống Bush có thể liên hệ với Landsbergis khuyên ông chờ thêm một tuần nữa trước khi tuyên bố độc lập. Song, Gorbachev phải cam kết không dùng vũ lực chống lại Lithuania. Không có chuyện gì xảy ra cả. Khi chia tay, Shevardnadze gây cho vị khách sửng sốt, ông nói: “Jack, tôi sẽ nói với anh một điều. Nếu tôi chứng kiến một chế độ độc tài đang hình thành, tôi sẽ từ chức. Tôi sẽ không nằm trong thành phần một chính phủ mà tay họ nhuốm đầy máu.” Hội đồng Tối cao Lithuania tuyên bố độc lập vào ngày 11/3, đúng năm năm sau ngày Gorbachev nhậm chức tổng bí thư. Washington tái khẳng định “quyền tự quyết hòa bình không thể bị tước bỏ của nhân dân vùng Baltic” và thúc giục chính quyền Xô viết phải sớm tham gia vào các cuộc thương lượng có tính xây dựng cùng chính phủ Lithuania”. Vytautas Landsbergis được bầu làm chủ tịch, do vậy đồng thời là người đứng đầu nhà nước. Agirdas Brazauskas là người thứ hai. Tên chính thức là nước Cộng hòa Lithuania và các đại biểu Đại hội Đại biểu Nhân dân tuyên bố “tái thiết nền độc lập cho nhà nước Lithuania”. Kazimiera Pruskiene trở thành Thủ tướng vào ngày 17/3 và Brazauskas làm Phó Thủ tướng thứ nhất. Sự mạo hiểm của ông chia sẻ với những người bảo thủ đã đem lại kết quả tốt và sau đó ông kế nhiệm Landsbergis làm Tổng thống nước Lithuania độc lập.
VỊ TỔNG THỐNG ĐẦU TIÊN
Kết quả bầu Gorbachev làm Tổng thống ngày 13/3/1990 tại Đại hội Đại biểu Nhân dân, trên cương vị chủ tịch điều hành Liên bang Xô viết là điều đã được dự đoán. Trong phiên họp toàn thể Ban Chấp hành Trung ương một ngày trước đó, ông được phê chuẩn. Sự căng thẳng giữa Gorbachev và phe cấp tiến, những người dân chủ ngày càng tăng lên rõ rệt qua bài diễn văn của Yury Afanasev, phát ngôn thay cho Nhóm Liên Khu vực. Ông tiết lộ nhóm này sẽ bỏ phiếu chống chủ trương áp dụng hệ thống bầu cử tổng thống đến chừng nào các điều kiện nhất định chưa được đáp ứng. Họ muốn có một cuộc bầu cử tổng thống dựa trên một hiệp ước Liên bang, áp dụng chế độ đa đảng, bầu ra một cơ quan lập pháp mới và bầu tổng thống rộng rãi. Tổng thống sẽ không đóng vai trò chủ chốt trong bất cứ đảng phái chính trị nào.
Rõ ràng phe cấp tiến lo ngại Gorbachev sẽ sử dụng quyền lực mới của mình chống lại họ. Afanasev không tiếc lời thóa mạ Gorbachev. Ông ta lớn tiếng tuyên bố mục đích của chế độ tổng thống chỉ nhằm hợp pháp hóa quyền lực tối cao trong tay một cá nhân, mà lúc này người đó chính là Mikhail Sergeevich Gorbachev. Các đại biểu khác lại bảo vệ Gorbachev, họ cho rằng ông đã giành được quyền lực cá nhân tuyệt đối năm năm trước. Ông cũng mong muốn các điều kiện khác nữa nhưng đơn giản vì không có thời gian để tham dự các cuộc bầu cử tổng thống. Một đại biểu khác lo sợ Gorbachev có thể sẽ thâu tóm mọi quyền lực: “Nó đe dọa tiến trình dân chủ hoá… có nguy cơ quay lại chế độ độc tài, các nguyên tắc dân chủ bị phá vỡ… không ai nghe ai cả.”
Nursultan Nazarbaev, Bí thư thứ nhất Đảng Kazakhstan đề xuất một số việc không liên quan đến Gorbachev. Ông muốn áp dụng chế độ bầu cử tổng thống ở nước cộng hòa này “nhằm loại bỏ các mâu thuẫn giữa khái niệm về nhiệm kỳ tổng thống và nguyện vọng của các nước cộng hòa muốn mở rộng thêm quyền tự trị của họ”. Trong một bài phát biểu, Nazarbaev có ý định cắt giảm quyền lực và ảnh hưởng của trung ương. Khi cuộc bỏ phiếu dừng lại, theo danh sách cử tri, 1.817 phiếu nhất trí chế độ bầu cử tổng thống, 133 phiếu chống và 61 bỏ phiếu trắng. Có ba người có tên trên lá phiếu bầu tổng thống, nhưng Nikolai Ryzhkov 4 và Vadim Bakatin rút lui, Gorbachev ở lại không có đối thủ. Ông được bầu làm Tổng thống trong một cuộc bỏ phiếu kín với 1.329 phiếu thuận, 495 phiếu chống và 313 phiếu trắng hoặc bị coi là không hợp lệ. Điều này đại diện cho 59,1% đại biểu Đại hội Đại biểu Nhân dân, là quá bán 50% cộng một được coi là hợp lệ. Song, việc này cho thấy mức độ có thay đổi nhiều kể từ sau cuộc bỏ phiếu tháng 5/1989, khi ông được bầu vào chức Chủ tịch Xô viết Tối cao với 2.123 phiếu (95,6%) so với 87 phiếu còn lại.
Một vấn đề khác tại Đại hội là liệu “người được bầu vào chức vụ Tổng thống của Liên bang Xô viết có thể nắm các trọng trách khác trong Đảng hoặc có chức vụ trong nhà nước không”. Cả nhóm liên khu vực và những người bảo thủ đều phản đối và kiến nghị đòi sửa đổi Điều 127 (quyền Tổng thống) thất bại vì 1.303 phiếu chống và chỉ 607 phiếu thuận. Một sửa đổi trong hiến pháp cần phải có sự ủng hộ của 2/3 đa số đại biểu Đại hội Đại biểu Nhân dân. Phe bảo thủ không đạt được mục tiêu của họ.
Có nhiều ý kiến trái ngược về việc phải chăng Gorbachev đã phạm phải một sai lầm lớn là không được bầu rộng rãi. Yeltsin xoáy vào điểm này. Được bầu chính thức hẳn là có tác dụng làm tăng hình ảnh và tính hợp pháp của Gorbachev. Tuy nhiên, sau khi cân nhắc kỹ, ông có thể kết luận mình không phải là người chiến thắng. Để được bầu làm tổng thống, ứng cử viên phải có đa số phiếu ủng hộ của các nước cộng hòa. Sự thù hận chống Mikhail Sergeevich ở Baltic và Ngoại Cavcaz chắc chắn khiến ông không nhận được đa số ủng hộ ở đây. Ông sẽ phải nhân nhượng họ rất nhiều để đổi lấy sự ủng hộ của họ trong cuộc bầu cử ở các nước cộng hòa. Hiến pháp muốn cản người Nga bầu cử cho một người Nga làm Tổng thống toàn Liên bang Xô viết, người Nga đó sẽ áp đặt ý chí của mình lên các dân tộc không phải Nga.
Tổng thống bổ nhiệm Hội đồng Bộ trưởng và trình danh sách lên Xô viết Tối cao xem xét và thông qua. Ông chủ trì Hội đồng Quốc phòng. Một Hội đồng Tổng thống, đại diện cho các khu vực bầu cử, được bổ nhiệm. Về mặt nghi thức, hội đồng này có thể thay mặt Bộ Chính trị. Như vậy, sự cân bằng về quyền lực được bảo đảm để hoạt động hiệu quả. Thành viên của Hội đồng đón tiếp các quan chức cao cấp nước ngoài trong các ngày lễ nhà nước. Một Hội đồng Liên bang cũng được bầu ra đại diện cho các nước cộng hòa. Hai hội đồng này đóng vai trò tư vấn, cùng với Tổng thống đảm trách thực hiện quyền hành pháp. Ở đây thể hiện sự phân lô quyền lực rõ ràng. Tuy nhiên, có nhiều điểm yếu trong hệ thống này, Ryzhkov lo lắng trước việc chính quyền đang trên đà suy yếu. Một số cố vấn của Gorbachev khuyên ông chống lại việc can thiệp vào quá trình quản lý kinh tế − đây là một sai lầm chết người. Không có cơ quan hành pháp mạnh nào lập ra chỉ để thực hiện các quyết định của Tổng thống. Đảng phải đứng ngoài các hoạt động nhà nước. Các Xô viết, đa số là thành viên của các cơ quan lập pháp nhưng lại không có vai trò gì trong hành pháp. Một điểm chủ yếu nữa là thất bại trong việc thiết lập một hệ thống tòa án độc lập và mạnh mẽ. Ủy ban Hiến pháp đưa ra quá ít hướng dẫn vì các quan tòa cũng giống như Solomon, tìm ra giải pháp cho cả hai bên. Kết quả là thiếu đi quyền hành pháp tập trung, các cơ quan ở dưới như các nước cộng hòa và các tổ chức mafia đang nổi lên, từng bước lấp chỗ trống này.
TRỞ LẠI BALTIC
Tại Đại hội Đại biểu Nhân dân, đại biểu Lithuania tham gia với tư cách quan sát viên và không tham gia bầu cử tổng thống. Họ kêu gọi Đại hội bình tĩnh sáng suốt đưa ra giải pháp cho các cuộc thương lượng giành độc lập. Giống như vậy, người Estonia không bỏ phiếu bầu cử tổng thống và chính thức đề nghị Gorbachev bắt đầu tiến hành đàm phán về nền độc lập. Ông cương quyết chống lại: “Không thể có vấn đề đàm phán nào với Lithuania, với Estonia hoặc Latvia.” Phản ứng của Đại hội là bác bỏ tuyên bố độc lập của Hội đồng Tối cao Lithuania. Moskva khuyến khích các dân tộc thiểu số ở Lithuania hãy thể hiện quyền lực của họ và chống lại xu hướng ly khai. Chủ trương công khai, cuối cùng chỉ là phương tiện tuyên truyền cho các quan điểm của trung ương mà thôi.
Ngày 23/3, toàn bộ các nhà ngoại giao được lệnh rời khỏi Lithuania trong vòng 12 giờ (Mỹ cũng có hai quan sát viên ở đây) và các phóng viên báo chí được thông báo hoãn các chuyến đi thăm vùng này. Căng thẳng đã bắt đầu. Người Mỹ khuyến khích đối thoại nhưng Landsbergis chỉ chấp nhận thương lượng trên tư cách một nước có chủ quyền, còn Moskva chỉ thương lượng trong trường hợp nước cộng hòa này rút lại tuyên bố về độc lập. Trong khi Washington làm ngơ trước vụ tàn sát ở Baku, tình hình đổ máu ở Lithuania sẽ đặt dấu chấm dứt quá trình hợp tác giữa hai cường quốc.
Bộ luật chờ đợi từ lâu quy định về vấn đề ly khai cuối cùng cũng được thông qua và Tổng thống Gorbachev đã ký vào ngày 3/4. Mục đích của luật này biến việc ly khai thành một thủ tục kéo dài và phức tạp đến mức trên thực tế không thể thực hiện được. Trước hết, phải tiến hành tham khảo ý kiến, có sự nhất trí của đa số 2/3, sau đó người ta mới tiến hành thương lượng. Đại hội Đại biểu Nhân dân sẽ quyết định thời gian của quá trình chuyển đổi (có thể là đến năm năm) và cuối cùng Đại hội sẽ công nhận về mặt pháp lý, nước cộng hòa được ly khai. Bằng bất cứ giá nào Gorbachev vẫn muốn duy trì chế độ liên bang.
Vào ngày 13/4, ngày thứ sáu tốt lành, Gorbachev phát đi một tối hậu thư:
Người ta tiến hành phong tỏa vào ngày 18/4. Mặt hàng đầu tiên bị cắt là dầu hỏa và khí tự nhiên, hai mặt hàng này bị cắt giảm đến 80%. Một danh sách dài các hàng hóa khác gồm cả: cà phê, đường cũng bị cấm cung cấp và Gorbachev bác bỏ đề nghị cung cấp ngoại tệ cho Lithuania. Brazauskas phải chịu trách nhiệm đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng. Ông là sự lựa chọn tuyệt vời vì ông có nhiều quan hệ trong Liên bang Xô viết. Kể từ khi Lithuania là một nước xuất khẩu lương thực, hầu như không hề xảy ra tình trạng khủng hoảng lương thực ở đây. Nguyên nhân khiến nước cộng hòa này suy yếu và lụn bại là do việc đóng cửa nhà máy năng lượng điện hạt nhân ở Ignalina. Moskva đóng cửa nhà máy hạt nhân này để sửa chữa nhưng Brazauskas đe dọa sẽ cắt điện toàn khu vực Kaliningrad, vì nhà máy ở Ignalina cung cấp đến 60% nguồn điện cho vùng này, và nhà máy điện này ngay lập tức được hoạt động trở lại. Phần lớn điện sử dụng trong khu vực Kaliningrad là dùng cho quân đội. Việc phong tỏa này cũng khiến Tổng thống Mỹ bối rối, vì trước đó ông cam kết không có hành động chống lại Gorbachev. Gorbachev cho rằng áp lực kinh tế và những cuộc diễn tập quân sự liên miên ở nước cộng hòa này sẽ buộc người Lithuania phải phục tùng.
Chẳng những có tác động đe dọa người dân Baltic, áp lực của Moskva đối với Lithuania còn có tác động ngược lại. Ngày 30/3, Xô viết Tối cao Estonia mà thành phần chủ yếu là Mặt trận Dân tộc trong các cuộc bầu cử gần đây, tuyên bố pháp luật Xô viết hiện hành là bất hợp pháp từ lúc khởi đầu và đòi phục hồi nước Cộng hòa Estonia thời kỳ trước chiến tranh. Ngày 19/4, Gorbachev gặp riêng các đại biểu từ Estonia và Latvia, hy vọng thuyết phục họ không theo gương Lithuania. Ông cam kết sẽ trao cho họ quyền tự trị trong một liên bang mới. Điều này nghe không còn mấy hấp dẫn và vào cuối tháng 4, Latvia tuyên bố việc sáp nhập vào liên bang của nước này năm 1940 không còn hiệu lực.
Ngày 16/5, Lithuania tuyên bố sẵn sàng tạm thời ngừng hoạt động cho việc tuyên bố độc lập. Landsbergis và Prunskiene gặp Gorbachev và ông chỉ rõ mình có thể nhân nhượng. Trong khi đó Prunskiene sẵn sàng tận dụng các kết quả đạt được thông qua thương lượng, Landsbergis lại kiên quyết không chịu nhượng bộ. Prunskiene tỏ ra thận trọng trước lập trường không nhượng bộ của ông này.
Khi Ngoại trưởng Mỹ James Baker thăm Moskva cuối tháng 5 để chuẩn bị cho cuộc gặp thượng đỉnh Washington, vấn đề Lithuania lại một lần nữa trở thành vấn đề nổi cộm trong chương trình nghị sự. Khi gặp Shevardnadze, Baker nói rõ địa vị hợp pháp của ba nước cộng hòa vùng Baltic khác hoàn toàn với địa vị của các nước cộng hòa khác trong Liên bang Xô viết. Shevardnadze vặn vẹo lại rằng nhân dân vùng Cavcaz đều hài lòng và mãn nguyện với việc gia nhập Liên bang, đây cũng là tâm lý chung của nhiều người dân vùng Trung Á. Ông cũng nêu rõ dù Gorbachev và ông thật sự muốn tạo lập mối quan hệ ngày càng tốt đẹp hơn với Mỹ, và nếu phải chọn lựa giữa việc giữ cho Liên bang Xô viết thống nhất một khối và có quan hệ tốt đẹp hơn với nước Mỹ, thì cả hai sẽ ưu tiên củng cố thống nhất trong nội bộ Liên bang lên hàng đầu. Nội chiến sẽ xảy ra ngay lập tức nếu họ cho phép bất cứ một nước cộng hòa nào ly khai khỏi Liên bang. Sau đó, Baker còn gặp Kazimiera Prunskiene, nhân vật mà ông cho là nhà thương thuyết tài năng hơn Landsbergis − người không thể giành thắng lợi nếu cứ gò mình vào các khẩu hiệu hô hào hay chú tâm nhiều vào vị thế đàm phán. Prunskiene muốn biết liệu việc trì hoãn tuyên bố độc lập của Lithuania có thể hiện nước này đang tự nguyện đi theo tiến trình luật pháp của Xô viết không. Baker hứa chắc chắn bất kể Lithuania hành động ra sao, Washington luôn công nhận các nước cộng hòa vùng Baltic là một bộ phận của Liên bang Xô viết. Nhu cầu của Liên Xô về việc ký một hiệp định thương mại với Mỹ ngày càng cấp bách vì nền kinh tế của họ đang trên đà trượt dốc. Washington có thể lợi dụng tình thế này để tăng sức ép chấm dứt các trừng phạt kinh tế của họ với các nước cộng hòa. Như một phần của cuộc trao đổi, người Mỹ tuyên bố họ sẽ không ký hiệp định thương mại cho đến khi Moskva thông qua luật cho phép tự do xuất cảnh.
Gorbachev tìm mọi cách thoát khỏi bãi lầy trong vấn đề Lithuania, ông nhận định nước Nga có thể còn là mối đe dọa đáng sợ hơn Lithuania. Bất chấp nỗ lực ngăn cản của ông đối với cơ hội thắng cử của Yeltsin, vào chức Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên bang Nga, Yeltsin vẫn trở thành Chủ tịch Đại hội Đại biểu Nhân dân và giữ cương vị đứng đầu nước cộng hòa này, vào ngày 29/5. Đó cũng chính là ngày Gorbachev đi dự hội nghị thượng đỉnh ở Canada và Mỹ. Lần đầu tiên, Gorbachev bị bao phủ bằng hàng loạt các sự kiện trong nước trong khi tham gia hội nghị tại nước ngoài.
Tại hội nghị thượng đỉnh (từ 30/5-4/6), Tổng thống Bush vẫn chưa có ý định ký hiệp định thương mại, Shevardnadze cảm thấy ngao ngán khi được thông báo khả năng Tổng thống Mỹ sẽ không ký hiệp định này. Sau cùng, Gorbachev thuyết phục Bush ký Hiệp định nhưng phải có hai nhượng bộ. Liên bang Xô viết buộc phải thông qua đạo luật về tự do xuất cảnh và Gorbachev phải dỡ bỏ trừng phạt kinh tế với Lithuania, trước khi luật thương mại được trình lên Đại hội. Thỏa thuận về vấn đề Lithuania chỉ mang tính cá nhân chứ không công khai vào thời điểm đó.
Ngày 1/6, Yeltsin gặp Landsbergis thảo luận vấn đề hợp tác giữa hai chính phủ và chỉ trích lệnh phong tỏa đang được áp dụng. Trước khi đi Washington, Gorbachev kết tội Yeltsin có ý đồ làm tan rã Liên bang Xô viết. Tại hội nghị thượng đỉnh, ông cho Tổng thống Bush biết Yeltsin là kẻ phá hoại. Người dân Lithuania bị chia rẽ sâu sắc trước cách giải quyết của Moskva. Landsbergis muốn thể hiện một lập trường cứng rắn nhưng Prunskiene nghiêng về nhân nhượng thỏa thuận, thậm chí có lúc phải có những bước lùi chiến lược. Bà ý thức được cái giá kinh tế khủng khiếp mà nước cộng hòa này phải trả cho độc lập. Trong số hai nhân vật ở Moskva, bà muốn đàm phán thương lượng với Gorbachev hơn. Yeltsin quá mạo hiểm và liều lĩnh. Ngày 12/6, Landsbergis gặp Gorbachev, ngày 13/6 gặp Ryzhkov và hai người này hứa sẽ tăng số lượng cung cấp khí tự nhiên. Bế tắc được khai thông khi hai bên thống nhất giãn thời gian trả nợ. Tuyên bố độc lập sẽ dừng lại chứ không là hủy bỏ.
Ngày 29/6, Hội đồng Tối cao Lithuania chấp nhận hoãn nợ 100 ngày, Gorbachev ngay lập tức ra lệnh dỡ bỏ lệnh phong toả. Toàn bộ cách giải quyết đối với tình hình này chứng tỏ sự thất bại cay đắng của Gorbachev và làm trầm trọng thêm tình hình kinh tế trong nước vốn đã rất khó khăn. Lithuania bị cấm xuất khẩu hàng hóa sang các vùng khác thuộc Liên bang Xô viết. Theo nhận xét của Vadim Bakatin, Gorbachev không linh hoạt khi giải quyết vấn đề này: “Tổng thống sai lầm khi cho rằng chính phủ Latvia, Lithuania và Estonia không được quần chúng ủng hộ”.
Những người bảo thủ và giới quân sự liên tục ép các quốc gia vùng Baltic đi dần vào khuôn khổ. Quan điểm của Moskva và người dân vùng Baltic vẫn còn khá cách xa nhau. Trung ương hy vọng có thể thương lượng với ba nước vùng Baltic trên cơ sở các quy định về quyền ly khai và quy định trong khuôn khổ hiệp ước Liên bang mới. Tuy nhiên, Vilnius, Riga và Tallinn cho rằng quyền độc lập là thực tế hiển nhiên và điều họ cần phải làm là thương lượng để giành được nền độc lập đó.
NƯỚC NGA THỨC TỈNH
Các cuộc bầu cử vào Đại hội Đại biểu Nhân dân Liên bang Nga (RSFSR) diễn ra vào tháng 3 và tháng 4/1990, những người dân chủ − tập hợp lại dưới một tổ chức gọi là Nước Nga Dân chủ (DemRossiya) − chỉ chiếm thiểu số. Một phần do họ không thể thống nhất được với nhau. Điều này cho phép ứng cử viên Đảng Cộng sản, thường là thành viên bộ máy Đảng hoặc giám đốc xí nghiệp, giành thắng lợi trong nhiều khu vực bầu cử, phần lớn do đối phương vắng mặt. Vài người trong phe dân chủ là thành viên của Đại hội Đại biểu Nhân dân Xô viết và Nga. Có tin tiết lộ rằng 86,7% các đại biểu là đảng viên. Điều này dường như không quan trọng vì hầu hết các nhân vật cấp tiến lúc đó hãy còn ở trong Đảng. Tuy nhiên, có khoảng 1/4 số đại biểu từ các tổ chức Đảng, Xô viết và tổ chức xã hội. Thành phần phụ nữ không đáng kể chỉ chiếm 5,3% đại biểu. Một nhân tố nổi bật là 92,7% đại biểu có trình độ học vấn khá cao.
Boris Yeltsin giành được chiến thắng ngoạn mục ở Moskva. Gorbachev phát biểu ông đã đánh giá thấp hiện tượng bầu cử Yeltsin ở Moskva và tin rằng “sẽ không phải là hiện tượng phổ biến trên toàn nước Nga”. 5 Phong trào Nước Nga Dân chủ giành chiến thắng đa số ở Moskva, Leningrad, Sverdlovsk (địa bàn của Yeltsin) và nhiều thành phố lớn khác. Khi Đại hội Đại biểu Nhân dân khai mạc ngày 16/5, rõ ràng phe dân chủ chỉ chiếm thiểu số, nhưng tính ra có khoảng 40%. Những người bảo thủ chiếm tương đương 40%. Chìa khóa cho thành công trong Đại hội là khả năng thuyết phục được các đại biểu trung lập. Việc bỏ phiếu cho vị trí chủ tịch Đại hội Đại biểu Nhân dân của Xô viết Tối cao là cực kỳ quan trọng. Yeltsin phải thu hút các phiếu bầu ngay từ lúc các đại biểu cộng sản còn đang lưỡng lự chưa biết bầu cho ai.
Gorbachev ủng hộ Aleksandr Vlasov rất mạnh mẽ, nhưng ông này là một nhà diễn thuyết tồi và dường như thiếu năng động trong công việc. Gorbachev lo sợ việc bầu Yeltsin sẽ làm tăng sự đối đầu giữa nước Nga và Liên bang: “Tôi đã biết con người này bản chất là kẻ phá hoại”. Trong vòng bỏ phiếu đầu tiên, Yeltsin giành được nhiều phiếu ủng hộ hơn Vlasov nhưng lại chưa đủ đa số phiếu. Vlasov và vài đại biểu khác rút khỏi vòng hai, Yeltsin vượt qua Ivan Polozkov, sau này là một nhà lãnh đạo bảo thủ của Đảng Cộng sản Nga. Nhưng Yeltsin vẫn thiếu sự ủng hộ đa số. Polozkov rút lui và Vlasov trở lại. Lần thứ ba, Yeltsin giành đa số sít sao. Ngay lập tức, ông tuyên bố ông sẽ không liên kết với bất cứ đảng phái nào hoặc phe phái nào, nhưng ông sẽ đại diện cho toàn thể nhân dân Liên bang Nga. Quyết định này gây ra cho Yeltsin rất nhiều vấn đề sau này. Yeltsin để mắt đến nhiệm kỳ tổng thống Nga nhưng phải giành được 2/3 đa số ủng hộ của đại biểu về việc sửa đổi Hiến pháp Nga năm 1978. Việc này gây ra tình trạng hỗn loạn mùa hè năm 1990.
Việc bầu Yeltsin vào chức chủ tịch Xô viết Tối cao và cũng là người đứng đầu Liên bang Nga, lần đầu tiên đem lại cho ông một nền tảng chính trị hoàn toàn độc lập với Gorbachev. Nước Nga có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của toàn Liên bang và còn có thể trở thành nhân tố quyết định. Tuy vậy, nước cộng hòa này đang đối mặt với nhiều vấn đề khó giải quyết trong việc xác định địa vị và quyền lợi của chính mình. Liệu nước Nga có cùng chung ranh giới với Liên bang Xô viết? Mặt khác, nước Nga chỉ đơn giản là một nước cộng hòa lớn nhất trong Liên bang Xô viết không? Đây là sự xung đột giữa “những người kiến tạo quốc gia” − cho rằng nước Nga có cùng chung biên giới với Liên bang Nga, và “những người cứu sống đế chế” − tin rằng nước Nga chính là Liên bang Xô viết, đã đập tan một phần nước Nga dân chủ. Liệu nước Nga có phải là một nhà nước dân tộc không? Ai là người Nga? Xét cho cùng, có khoảng 25 triệu người Nga sống ngoài lãnh thổ Liên bang Nga. Nước Nga không có đảng cộng sản riêng, Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô giám sát hoạt động của giới trí thức khoa học Nga, Bộ Văn hóa Liên Xô chịu trách nhiệm quản lý điều hành các viện bảo tàng, các nhà hát và nhiều cơ quan khác. Trong khi đó, các nước cộng hòa khác cũng có các tổ chức như trên, nước Nga nằm dưới sự giám sát của Liên bang. Một số nhà kinh tế Nga cho rằng Liên bang Nga chiếm khoảng 3/4 tổng sản phẩm quốc nội của Liên bang Xô viết, đang bị các nước cộng hòa khác bóc lột. Nếu nước Nga giành được quyền điều hành nền kinh tế của mình, người dân đã giàu có và thịnh vượng hơn nhiều.
Rõ ràng, vấn đề chủ quyền sẽ không xảy ra. Các nước cộng hòa Baltic và Azerbaijan đã tuyên bố chủ quyền của họ. Nhưng chủ quyền được định nghĩa như thế nào? Theo Điều 76 Hiến pháp Liên Xô, “một nước cộng hòa thuộc Liên bang là một nhà nước xã hội chủ nghĩa có chủ quyền, thống nhất với các nước cộng hòa Xô viết khác trong Liên bang Các nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết”. Do vậy, tất cả các nước cộng hòa đều là nước có chủ quyền. Song trên thực tế, đó là chủ quyền giả tạo, hình thức. Lúc này, các nước cộng hòa muốn giành lại chủ quyền thật sự của mình.
Đại hội Đại biểu Nhân dân Nga mới đã đưa ra một quyết định quan trọng là tuyên bố chủ quyền của mình vào ngày 12/6/1990. Sự kiện này đã đặt luật Liên bang Nga lên trên luật pháp Liên bang Xô viết và đã đẩy mạnh cuộc chiến về mặt luật pháp. Các tổ chức Nga chỉ hành động vì các lợi ích của nhà nước cộng hòa mà không lệ thuộc vào tổ chức Liên bang. Nhiều người cộng sản bỏ phiếu ủng hộ tuyên bố này, bắt đầu tiến trình tách Nga khỏi Liên bang. Nhiều người cộng sản lại ủng hộ kế hoạch đảo chính nhằm duy trì Liên bang, nhưng kế hoạch này đã sớm chết yểu vào tháng 8/1991. Rõ ràng, họ không hiểu hàm ý của tuyên bố này. Vladimir Kryuchkov nhận thức rõ tác động của tuyên bố này. “Giai đoạn quyết định phá bỏ chế độ Liên bang bắt đầu vào mùa hè năm 1990 sau khi Đại hội Đại biểu Nhân dân Liên bang Nga thông qua tuyên bố chủ quyền của nước Nga và đặt luật pháp Nga lên trên luật pháp Liên bang.” Gorbachev nhấn mạnh: “Tôi chắc rằng nếu đây không phải là bước đi sống còn, chế độ Liên bang sẽ được bảo vệ và duy trì.” Mặt khác, ông cũng thừa nhận “một số nguyên tắc và điều khoản ghi nhận trong tuyên bố về chủ quyền của nước Nga có thể tạo cơ sở cho một Hiệp ước Liên bang mới”. Vậy sai lầm ở đâu?
Gorbachev và Yeltsin cơ bản có quan niệm trái ngược nhau về chế độ Liên bang mới. Gorbachev muốn tăng cường các cơ quan trung ương và các quyền lực về dân sự thì trao hết cho các nước cộng hòa. Ông đề cập đến một cơ quan trung ương mạnh nhưng các nước cộng hòa phản đối bằng cách đề xuất quyền lực mạnh ở trung ương và ở các nước cộng hòa cũng có quyền lực mạnh. Đề cập đến các thể chế trung ương mạnh, ông lập luận một cách logic không chấp nhận một đảng Liên bang và trao quyền quản lý kinh tế cho các nước cộng hòa. Mặt khác, Yeltsin nghiêng về quan điểm nước cộng hòa mạnh có thể tự quyết định họ sẽ chu