Chương 7 Phần kết
Cải cách đòi hỏi phải có sự lãnh đạo. Cải cách càng quan trọng, đòi hỏi càng cao đối với giới lãnh đạo. Gorbachev là một nhà cải cách lớn, liệu ông có phải là nhà lãnh đạo tài ba không? Hay ông là một nhà cải cách lớn nhưng lại là một nhà lãnh đạo chính trị thất bại? Chắc chắn ông là nhà cải cách vĩ đại với ý nghĩa là công cuộc cải cách khởi đầu dưới sự lãnh đạo của ông đã chuyển hóa hệ thống cộng sản Xô viết vượt ra ngoài mong đợi. Quả thật, cuộc phẫu thuật cải cách này cấp tiến đến nỗi bệnh nhân − Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết − qua đời dưới lưỡi dao cải cách. Tuy nhiên, đây không phải là mục tiêu của Gorbachev. Một người ưa thích, coi trọng và bảo vệ tuyệt đối quyền lực của mình sẽ không bao giờ để quyền lực đó bị hủy hoại, đến mức bị đe dọa và bị tước đi một cách thô bạo. Ông phàn nàn trong hồi ký của mình rằng thậm chí người ta không cho ông từ chức một cách danh dự. Không có nghi lễ nào đánh dấu sự qua đời của Liên bang Xô viết. Nó ra đi mãi mãi. Một quốc gia mới kế tục, nước Nga không thể chờ đến khi chôn thi hài này được.
Do vậy, khi Gorbachev mở đường cải cách vào tháng 3/1985, ông tin đang tiến đến một mục tiêu chắc chắn giành thắng lợi. Ông đã dừng lại ở một nơi hoàn toàn khác với mong đợi. Sự thật là đoàn tàu perestroika với vỏ bọc bóng bẩy, đẹp mã của ông đã đâm vào ngõ cụt. Không có vấn đề gì, ông đã là một nhà cải cách vĩ đại! Vậy ông đã cải cách cái gì? Cải cách luôn động chạm, trước hết dẫn đến sự đổ vỡ, rồi mới tới xây dựng lại.
ĐÁNH GIÁ CẢI TỔ
Cải tổ là một khái niệm khó nắm bắt, ngay cả trong mắt của Gorbachev, nhưng vẫn có giá trị khi đưa ra một định nghĩa. Qua thời gian, khái niệm này phát triển và có một ý nghĩa tiến bộ nào đó. Công trình nghiên cứu này chia thời đại của Gorbachev làm ba giai đoạn chính.
• Cải tổ giai đoạn I có thể coi như việc tập trung cải cách kinh tế, một điều kiện tiên quyết đối với quá trình cải cách chính trị. Giai đoạn I cố gắng cải cách cơ chế kinh tế (các mối quan hệ chủ chốt trong nền kinh tế) thông qua việc giao quyền hoạch định chính sách nhiều hơn cho người quản lý và người lao động. Công nhân được quyền tham gia các quyết định, ở một chừng mực nhất định. Họ chưa từng được hưởng quyền này trong cơ chế hành chính-mệnh lệnh. Người ta cho rằng quyền lợi của họ chính là quyền lợi của người quản lý và quyền lợi của Đảng.
• Trong giai đoạn I, người ta tin có thể đạt được các mục tiêu trái ngược nhau. Mức sống sẽ tăng khi tiến hành cải cách cơ cấu, nó đem lại lợi ích cho toàn bộ khu vực chế tạo máy. Mặc dù có yêu cầu đầu tư lớn hơn, vẫn có nhiều quỹ dự trữ cho tiêu dùng. Hai vấn đề then chốt không được giải quyết trong giai đoạn này là quyền sở hữu và giá. Thay vì tăng trưởng kinh tế, lại xuất hiện các dấu hiệu chững lại. Tăng vốn đầu tư cũng không thể đáp ứng cho tiêu dùng.
• Mục đích của giai đoạn I là khuyến khích và thúc đẩy lực lượng lao động nhưng nó lại làm tăng thêm tâm lý bực bội, chán nản.
• Thất bại ở giai đoạn I dẫn đến thất bại trong giai đoạn II. Người ta cho rằng lý do tác động hạn chế ở giai đoạn I là sự kháng cự của tầng lớp lãnh đạo tư tưởng và kinh tế cấp cao. Giải pháp đưa ra là khởi xướng cải cách từ bên dưới. Chủ trương công khai khuyến khích người dân lên tiếng phê bình giới lãnh đạo bảo thủ. Cải cách chính trị được coi như lời giải đáp cho tình trạng đình đốn kinh tế. Đảng bị gạt ra ngoài quá trình quản lý kinh tế và do vậy, trụ cột của hệ thống cộng sản bị xói mòn. Cấp dưới không phải chịu một áp lực nào. Đó là một quyết định sáng suốt trong cách lãnh đạo của Gorbachev. Các Xô viết tiếp quản các tổ chức Đảng. Đại hội Đại biểu Nhân dân là bước đi đầu tiên trong việc làm mới lại nền chính trị trong nước. Đảng không còn vai trò độc tôn trong việc nêu ý kiến, quan điểm và nhất nhất bắt mọi người phải chấp hành. Gorbachev thông báo với các vị đại biểu cộng sản rằng sẽ không áp dụng các quy định trong nguyên tắc Đảng nữa.
• Giai đoạn II là một cuộc cách mạng chính trị nhanh chóng chỉ ra các thói hư tật xấu của xã hội Xô viết. Nền dân chủ bắt đầu hình thành khi nền kinh tế đang suy thoái.
• Giai đoạn II tạo tiền đề cho giai đoạn III, khi Gorbachev giữ cương vị Tổng thống hành pháp và mong muốn đạt được một sự nhất trí chung về tương lai trong toàn xã hội. Những nỗ lực tuyệt vọng để tìm ra phương thuốc chữa trị các căn bệnh kinh tế và các giải pháp thị trường cấp tiến cũng được đưa ra thảo luận. Tuy vậy, vị Tổng thống này nhận ra rằng một giải pháp thị trường quá cấp tiến sẽ gây thiệt hại. Còn các nước cộng hòa cho rằng một nền kinh tế thị trường đồng nghĩa với việc họ có thể dần dần kiểm soát được các tài sản trên lãnh thổ của họ. Điều này khiến cuộc thương lượng một hiệp ước Liên bang mới trở nên khó khăn hơn nhiều.
• Giai đoạn III chứng kiến Tổng thống Liên bang Xô viết nghiêng dần về phái hữu và thông qua một số giải pháp đáng thất vọng nhằm duy trì sự thống nhất Liên bang. Ở Lithuania, cách thức thuyết phục coi như vô hiệu và Tổng thống từ chối lên án sử dụng vũ lực khi cần. Khi can thiệp quân sự bất thành, ông không hề có chính sách dự phòng nào. Các nước cộng hòa khác ủng hộ Lithuania và điều này làm suy yếu địa vị của Tổng thống. Người chơi quan trọng trong ván bài này là Nga và có lẽ nước cộng hòa này đang muốn giải tán Liên bang, hạ bệ Gorbachev ngay từ mùa hè năm 1990. Ở thời điểm cuối, một chương trình bình ổn kinh tế được đưa ra vào đầu năm 1991, nhưng thất bại. Khả năng xuất hiện một Liên bang với tập hợp các quốc gia có chủ quyền. Điều này thúc đẩy phe bảo thủ buộc Gorbachev ra tuyên bố tình trạng khẩn cấp lập lại trật tự cũ và duy trì sự hợp nhất Liên bang. Thất bại của cuộc đảo chính tháng 8/1991 kết liễu số phận Liên bang Xô viết.
Perestroika trải qua nhiều giai đoạn nhưng chủ yếu cải cách chính trị nhiều hơn là kinh tế. Có thể đưa ra một kết luận tổng hợp như sau:
• Cải cách cấp tiến về hệ thống kinh tế và chính trị. Ngay từ đầu, trong nền kinh tế, người ta nhấn mạnh cải cách cơ chế kinh tế (chú trọng quyền sở hữu và giá cả). Trong nhận thức, đây là một cuộc tìm kiếm cách thức khuyến khích lao động và làm cho quá trình quản lý hiệu quả hơn.
• Thất bại trong việc cải thiện kinh tế dẫn đến các cuộc thảo luận về nền kinh tế thị trường và sự phát triển các hợp tác xã và buôn bán tư nhân. Tuy nhiên, khu vực nhà nước vẫn đóng vai trò quan trọng. Người ta cho phép tồn tại sở hữu tư nhân nhưng đã quá muộn. Đầu năm 1991, cải cách giá mới được tiến hành thì đã quá muộn.
• Về kinh tế, cải tổ thất bại thảm hại dẫn đến sự suy thoái kinh tế, sự khan hiếm hàng hóa, thâm hụt ngân sách nghiêm trọng và lạm phát gia tăng.
• Về chính trị, cần có một phương thức lãnh đạo mạnh mẽ và cấp tiến của Đảng trước sự đa dạng của nền kinh tế.
• Dân chủ hóa, chứ không phải là nền dân chủ (nghĩa là quyền được chọn một hệ thống chính trị) là phần không thể tách rời trong giai đoạn chuyển đổi này. Mãi đến năm 1988, các quan chức Đảng được bầu vào tổ chức vẫn là những nhân vật dẫn đường cho tương lai, lãnh đạo, dẫn đạo và thúc đẩy dân chúng. Họ thiếu sự cam kết đối với tiến trình cải cách chính trị dẫn đến việc bị gạt ra ngoài và bị các Xô viết thay thế.
• Dần dần, dân chủ hóa chuẩn bị tiền đề cho nền dân chủ. Bắt đầu bằng nền dân chủ nghị viện làm suy yếu quyền lãnh đạo của Đảng cùng sự phân lập quyền hạn và phạm vi không rõ ràng, đặc biệt là giữa lập pháp và hành pháp, khiến cho sự lộn xộn càng tăng.
• Đất nước mất dần sự quản lý cũng giống như sức mạnh chính trị của trung ương giảm sút do thiếu các thể chế hành pháp để triển khai các quyết định quan trọng của lãnh đạo.
• Căng thẳng gia tăng cùng suy thoái kinh tế.
• Perestroika còn làm tăng sự căng thẳng giữa các dân tộc và tạo điều kiện cho các nước cộng hòa lần lượt tuyên bố nền độc lập của mình. Đụng độ xảy ra ngay trong chính bộ máy nhà nước khiến họ không còn thời gian quan tâm đến các dân tộc khác không phải dân tộc Nga. Thậm chí chính quyền cũng không thể hòa giải trong thời kỳ quá độ chuyển sang một Liên bang mới.
• Những người bảo thủ coi perestroika là một thất bại vì nó quá cấp tiến, còn những người cấp tiến thì coi perestroika thất bại vì nó không đủ cấp tiến.
• Perestroika thúc đẩy tính đa dạng trong quan điểm, sau đó là chủ nghĩa đa nguyên về xã hội, đa đảng về chính trị. Nó bắt đầu như một cải cách trong lòng hệ thống và sẽ hoàn thành khi tiến hành cải cách bên ngoài hệ thống.
• Ngay từ đầu, perestroika muốn cải cách hệ thống hiện hành, nhưng cuối cùng nó lại là nguyên nhân phá vỡ hệ thống đó. Để đạt được quá nhiều mục tiêu trái ngược nhau, nó phải thỏa mãn một số và bỏ qua nhiều thứ.
• Trong con mắt của phần lớn công dân Xô viết, cải cách đã thất bại.
Perestroika có thể được hiểu là một hệ thống quá độ, bắt đầu bằng một hệ thống cộng sản nhưng lại thất bại khi muốn thoát khỏi hệ thống này. Sự cấp tiến đáng kinh ngạc trong các mục tiêu, thậm chí như muốn lập ra một trật tự xã hội dân chủ kiểu phương Tây. Không một sức ép nào đòi cải cách từ bên dưới cho mãi đến năm 1989, nhưng sau đó giới lãnh đạo lại phải hứng chịu sự gia tăng sức ép từ bên dưới. Mãi đến năm 1989, giới lãnh đạo mới tiến hành perestroika. Trong và sau năm 1989, cải cách này được thúc đẩy từ bên dưới. Thiếu sự đồng thuận trong giới lãnh đạo dẫn đến sự đối đầu không khoan nhượng. Vì perestroika thay đổi trọng tâm, thường xuyên, nên đã tạo ra một sức ép lớn cho giới lãnh đạo và khiến quản lý cải cách trở nên cực kỳ khó khăn.
GORBACHEV VÀ GIỚI LÃNH ĐẠO
Trước khi đánh giá liệu giới lãnh đạo, đầu tiên và chủ yếu là Gorbachev, thành công hay thất bại, cần phải đưa ra định nghĩa về sự lãnh đạo. Lãnh đạo là xác định mục tiêu đạt được, sau đó phân tích chi tiết các vấn đề đang tồn tại. Giai đoạn tiếp theo là vạch ra đường đi nước bước để thực hiện cải cách, dựa trên các thế mạnh và điểm yếu của hệ thống đang tồn tại. Sau đó nhà lãnh đạo phải chọn lựa cho mình một nhóm làm việc ăn ý, chia sẻ các mục tiêu với mình và có khả năng tiến hành triển khai các mục tiêu đó.
Một nhân tố quan trọng là họ có thể kiểm soát được rủi ro. Song, kiểm soát rủi ro lại dựa vào việc các cá nhân tin rằng trong một chừng mực nào đó, họ là những chủ thể tự do. Vì người ta không bao giờ chắc chắn điều gì, người ta luôn luôn ngu dốt ở mức độ nào đó. Nhiều thông tin thu nhận được đều có thể hoặc không đúng hoặc không đầy đủ. Sự thay đổi cấp tiến ban đầu còn ở mức thận trọng và vô cùng quan trọng bởi người ta không thể đoán được hậu quả. Đây là sự phân tích phi Marxist.
Các nhà Marxist là những người kiên quyết và họ tin họ có thể dự đoán tương lai. Do vậy, người ta có thể dự đoán giới lãnh đạo Xô viết năm 1985 càng coi trọng tư tưởng bao nhiêu thì càng ít thành công bấy nhiêu, và phải coi nhân tố con người (tưởng đơn giản, nhưng lại là nhân tố khó nắm bắt và khó dự đoán) là một nhân tố cấu thành. Sự nghịch đảo cũng có thể đúng. Do vậy, Gorbachev khoác trên mình một hành trang “tư tưởng” là sự lựa chọn tốt nhất để bắt đầu tiến hành cải cách.
Giới lãnh đạo nhận thấy đất nước đang tụt hậu về công nghệ và tin tưởng rằng tăng đầu tư vào khu vực chế tạo máy sẽ là con đường giải quyết sự suy giảm. Một khía cạnh khác là nhân tố con người, động lực của lao động. Gorbachev không nhận thấy mâu thuẫn giữa việc vừa tăng đầu tư vào các hàng hóa cho người sản xuất lại vừa tăng mức sống. Việc bất thành nên phải tìm ra một người biết chịu trách nhiệm. Giới lãnh đạo đi đến kết luận lỗi không phải vì nhận thức ban đầu mà là của cấp lãnh đạo Đảng cấp cao hơn và cả bộ máy chính quyền quan liêu. Họ chống lại những thay đổi vì quyền lợi riêng tư và ích kỷ của mình. Phương thức tiến hành là gạt Đảng ra khỏi quá trình quản lý kinh tế và thay bằng vai trò của các Xô viết địa phương. Các cuộc bầu cử vào Xô viết sẽ thể hiện người nào được công chúng tin cậy. Theo cách này, các quan chức sẽ được công chúng xem xét. (Các đảng viên đều phải được xem xét, không chỉ trước nhân dân, mà còn trước giới lãnh đạo Đảng ở Moskva).
Giai đoạn tiếp theo của cải cách là lập ra một Đại hội Đại biểu Nhân dân, quốc hội của nhân dân, để thúc đẩy perestroika . Chủ trương công khai đem lại tiếng nói cho người dân. Người ta chưa bao giờ nghi ngờ việc người dân ủng hộ perestroika . Cho đến giai đoạn này, giới lãnh đạo không hề chịu một sức ép nào từ bên dưới buộc họ phải cải cách. Việc thành lập nghị viện, đáp ứng những mong mỏi về thể chế luật pháp, gây sức ép từ bên dưới. Theo quan điểm này, giới lãnh đạo đang cố kìm hãm sự phát triển của chủ nghĩa cấp tiến nghị viện.
Gorbachev sau này trở thành Tổng thống hành pháp nhằm tạo ra sự lãnh đạo mạnh mẽ và rõ ràng, vì ông không thể thực hiện quyền đó thông qua Đại hội Đại biểu Nhân dân. Cho mãi đến cuối năm 1989, ông vẫn là nhà lãnh đạo có tiếng tăm nhất trong nước, sau này uy tín của ông bắt đầu suy giảm do sự cấp tiến của các đại biểu nghị viện. Từ cuối năm 1989, ông ít cấp tiến hơn. Ông nhận thấy khó khăn chồng chất khi giải quyết các vấn đề dân tộc và kinh tế phát sinh từ khâu quản lý yếu kém của nền kinh tế và chủ trương công khai.
Không có sự lãnh đạo rõ ràng từ đầu năm 1990. Suốt năm 1990, Gorbachev dao động giữa cải cách thị trường hay cải cách truyền thống, nhưng từ tháng 10/1990 đến tháng 4/1991, ông đứng hẳn về phe cải cách truyền thống, bảo thủ. Sau đó ông lại quay lại cải cách thị trường và thể chế thành lập Liên bang mới. Mùa đông năm 1990-1991, ông phải chịu một áp lực lớn từ phe bảo thủ đòi tuyên bố tình trạng khẩn cấp. Ông còn cho người ta cảm giác rằng ông đang xem xét lựa chọn này.
Tuy nhiên, thật không may, việc này dẫn đến bi kịch ở Vilnius vào tháng 1/1991. Do không có sự lãnh đạo kiên quyết đã tạo điều kiện cho những người bảo thủ tin họ có thể gây ra tình huống buộc ông phải tuyên bố tình trạng khẩn cấp. Tình hình tương tự nổi lên vào tháng 8/1991 khi phái bảo thủ do Kryuchkov lãnh đạo, buộc ông phải từ chức hoặc nghỉ phép kéo dài cho đến khi họ thiết lập được trật tự ở đất nước này. Sự hiểu lầm nghiêm trọng đó là hệ quả của sự lãnh đạo yếu kém, thiếu quyết đoán. Sau khi từ Foros trở về, Gorbachev lại là một nhà lãnh đạo đuổi hình bắt bóng. Yeltsin lập ra một chương trình nghị sự và Gorbachev lại nhảy theo nhịp của ông này. Ông không đạt được các mục tiêu liên quan đến một hiệp ước Liên bang.
Song, thành tích lãnh đạo của Gorbachev là có tính hỗn hợp. Ông bắt đầu sự nghiệp với sự tự tin rất cao và nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của dân chúng. Cơn thủy triều bắt đầu dậy lên vào năm 1989 và đến năm 1990 1991, ông hoàn toàn mất sự tự tin, hậu quả là ông biến thành một nhà lãnh đạo thiếu quyết đoán và thụ động. Một trong những chỉ trích của Ryzhkov về cách thức lãnh đạo của ông là nghe quá nhiều ý kiến trước khi đưa ra ý kiến riêng của mình. Lý do có thể giải thích vì ông chưa biết mình sẽ phải làm gì. Trong mùa đông năm 1990 1991, tất cả các bên đều thúc ép ông phải làm một cái gì đó.
Ông vẫn cố gắng đứng vững bất chấp sự bêu riếu của phái bảo thủ và phái cấp tiến, chứng tỏ ông có kỹ năng chiến thuật rất cao. Ông để ngoài tai những lời chỉ trích, ít ra đến tháng 8/1991. Vì đã thành công trong Đảng, ông luôn tìm cách củng cố vai trò của Đảng, và cuối cùng phá hủy Đảng. Đáng ngạc nhiên là Đảng không bao giờ chống lại ông. Điều này dường như là do ông đã gây cảm giác rằng ông sẽ luôn hành động như phe bảo thủ mong muốn, rằng một khi những nỗ lực lật đổ ông bất thành đồng nghĩa với việc chấm dứt sự nghiệp chính trị của những kẻ âm mưu, rằng việc sùng bái lãnh đạo luôn luôn tồn tại trong Đảng. Cuối cùng vị Tổng Bí thư này cũng có thể ra lệnh và nhận được sự phục tùng. Tất nhiên, điều này chỉ diễn ra ở trung ương. Phái bảo thủ cư xử theo cách họ nghĩ là thích hợp. Việc phải cân bằng quá nhiều các lực lượng xung đột là một nguyên nhân cơ bản của sự lãnh đạo yếu kém giai đoạn 1990 1991.
Nhân tố quan trọng trong lãnh đạo là việc định rõ tầm nhìn, đề ra được một hướng đi đúng đắn. Điều này được áp dụng ở giai đoạn đầu của perestroika nhưng rồi lại ngập ngừng năm 1989 và mất hướng ở giai đoạn 1990 1991. Từ năm 1989 trở đi, những thành viên khác của giới lãnh đạo thường không nhận ra nên đưa ra chính sách gì và như thế nào − biểu hiện này rõ nét hơn trong các quan chức của Đảng.
Các chính sách thông qua nhằm cải thiện tình hình từ năm 1989 trở đi đều thể hiện sự thiếu sót. Perestroika xây dựng trên nền tảng nhận thức sai lầm. Liên bang Xô viết suy yếu ngay trong hệ thống khi Gorbachev cầm quyền nhưng ông và những người lãnh đạo khác đều không nhận ra điều này. Cải cách tiến hành chỉ đẩy nhanh sự suy yếu đó mà thôi. Việc loại bỏ vai trò của Đảng khỏi quá trình quản lý kinh tế đã gây ra hậu quả vô cùng nghiêm trọng. Chính thể chế này là chất kết dính các thể chế khác trong xã hội với nhau. Không một thể chế thay thế nào có thể nắm bắt và thực hiện tốt vai trò, chức năng này của Đảng. Một trong những thất bại của Gorbachev là trong khi phá bỏ hệ thống cũ, ông lại chưa lập được một hệ thống mới thay thế. Dưới thời ông, Liên bang Xô viết đang lơ lửng giữa cái mới và cái cũ, giữa quá khứ và tương lai. Trở ngại chủ yếu là sự bất lực của ông trong việc nắm được thực chất của nền kinh tế thị trường. Ngay đến kỳ họp của nhóm các nước G7 vào tháng 7/1991, ông vẫn còn cho rằng những người theo đường lối cải cách vừa phải hợp lý và những người có tư tưởng cải cách cấp tiến nhanh và mạnh vẫn có thể hợp nhất.
GORBACHEV HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH RA SAO?
Làm thế nào giải thích sự rõ ràng về tầm nhìn luôn bị lạc hướng? Gorbachev hoạch định chính sách ra sao? Khi ông lên cầm quyền vào tháng 3/1985, trên bàn ông đã có hơn trăm văn bản đề cập đến các tình huống của các khía cạnh khác nhau của nền kinh tế. Ông có những cố vấn tốt nhưng những người cộng tác cùng ông thường là các luật sư hay các chuyên gia chính trị, như Shakhnazarov. Ông không bao giờ coi trọng các nhà kinh tế, đặc biệt là những người có xu hướng thị trường. Ông cãi lý với tất cả các nhà kinh tế toán học hàng đầu. Do vậy, chắc chắn ông không hoạch định và tiến hành nổi một chính sách cải cách kinh tế trọn gói rõ ràng.
Ông có nhiều kỹ năng chiến thuật đề ra các chính sách ngắn hạn, mang tính chiến thuật hơn là chính sách dài hạn mang tính chiến lược. Ông giỏi lôi kéo vận động các đối thủ nhưng sau đó ông phải chuyển sang một cuộc chơi tiếp theo. Ông có quyền vạch ra những điểm chủ yếu của chính sách. Ông đưa ra chủ đề và phát triển theo hướng ông thích, hoặc thay đổi theo hướng ông cho là đúng. Việc này không tạo nên một cơ chế lãnh đạo gắn kết mạnh lạc trong quá trình hoạch định chính sách. Ông không được đào tạo chặt chẽ tri thức giải quyết tình huống như vậy. Vị đại sứ Mỹ gọi quá trình này bằng thuật ngữ “sự độc thoại”. Thường những người này đi lạc đề, họ trở nên bực dọc nếu người đối thoại muốn thảo luận một vấn đề cụ thể nào đó.
Xuất hiện tính độc đoán trong cách hoạch định chiến lược của Gorbachev và từ năm 1989, ông ít tham khảo ý kiến cộng sự và cứ áp đặt các chính sách sai lầm của mình. Điểm nổi bật là các thể chế tiếp nhận từ Bộ Chính trị, Hội đồng Tổng thống, Hội đồng An ninh và Hội đồng Nhà nước, bên cạnh đó còn có một bí thư, nhưng không có cán bộ để triển khai các nghị quyết. Cơ cấu này đồng nghĩa với việc Gorbachev coi những cơ quan này như các cơ quan phiền hà. Là người tham công tiếc việc, từ năm 1989 ông tham khảo ý kiến các nhóm ở quy mô càng ngày càng nhỏ, thường là ý kiến cá nhân.
Là một chính trị gia, Gorbachev khó gần. Ông không có bạn bè thân thiết, ngoại trừ Raisa Maksimovna, bà là người mà ông hỏi ý kiến hay tham khảo mọi việc. Gorbachev cũng gặp không ít khó khăn trong việc đánh giá hậu quả do mình gây ra, có lẽ đó là thiếu sót nghiêm trọng nhất của ông. Người ta có thể nói ông thường là nạn nhân hứng chịu hậu quả bất ngờ. Thông tin giúp ông hoạch định đánh giá tình hình đều được các cố vấn của ông sàng lọc trước. Vì ông không nhận ra Boldin và Kryuchkov đã thông tin sai, điều này giải thích trong chừng mực nào đó ông đánh giá thiếu hợp lý.
Như nhiều người khác, Gorbachev nhận thấy Vytautas Landsbergis là một kẻ đối thoại cứng đầu, không khoan nhượng. Cách giải quyết của Kazimiera Prunskiene dễ chấp nhận hơn nhiều. Bà đánh giá về Gorbachev như sau:
Tôi hiểu cách giải quyết công việc của Gorbachev, ông ấy không ngừng nỗ lực cân bằng các lực lượng chính trị để kiểm soát sự biến động của tình hình và tài năng xuất chúng của một chính trị gia sáng tạo, tôi hy vọng có thể nhận được câu trả lời tích cực và có thiện chí trước một vấn đề có tính quyết định. Có thật ông ấy muốn cải cách đế chế cộng sản này, giải phóng các dân tộc và nhân dân, xây dựng một nhà nước pháp quyền, đem lại công bằng và dân chủ không?
Điều bà chê trách ông nhiều nhất là ông không thực hiện được điều này. Bà hiểu ông là một chính trị gia có tư tưởng giải phóng các lực lượng mà ông cố gắng kiểm soát nhưng lại không thể. “Dây cương chính trị đã tuột khỏi tay ông” bởi vì ông thiếu một nhãn quan sâu rộng.
Shevardnadze cảm thấy vị lãnh đạo phản bội mình, ông cũng cay đắng nhận ra Gorbachev là tù nhân của chính bản chất của những khái niệm, cách nghĩ và hành động riêng của ông. “Đôi khi tôi nghĩ không có kẻ thù nào đáng sợ và nguy hiểm hơn là chính bản thân mình. Trước khi tìm bạn ở quanh mình, bạn phải tìm một người bạn trong chính mình.
Shevardnadze coi Gorbachev là người không có khả năng đánh giá con người và hững hờ với những người bạn của mình. Ông thấy buồn hơn vì Gorbachev không bảo vệ ông và những cộng sự khác.
Với tôi, vẫn là một bí mật khi tại sao ông ấy lại trở nên quá thụ động như vậy. Ông ấy biết trong những vấn đề nhận định tôi đều đúng, 100% đúng nhưng ông ấy vẫn yên lặng. Tôi tự hỏi: một bộ trưởng, một cố vấn thân cận là người nghĩ thế nào làm như thế, và một người bạn tận tình lại bị chà đạp và ngược đãi − tại sao ông ấy không bảo vệ người bạn của mình? Suy cho cùng, mọi việc tương tự xảy ra với Yakovlev và những người khác... Lẽ ra Tổng thống phải bảo vệ chúng tôi. Không chỉ chúng tôi mà còn là sự nghiệp chung.
Chính sách đối ngoại đạt được thành công hơn nhiều so với việc giải quyết vấn đề đối nội. Có một tầm nhìn sâu rộng, thấu đáo nhưng lại thiếu một cơ chế năng động linh hoạt trong chính sách đối nội. Việc này liên quan đến thực tế ông tiếp thu tiêu chuẩn phương Tây, đặc biệt là Mỹ, trong chính sách đối ngoại. Sự tán thành các giá trị con người toàn cầu có nghĩa là đặt dấu chấm hết cho một phương thức ngoại giao được ăn cả ngã về không, chấm dứt cách tiếp cận có tính giai cấp trong chính sách đối ngoại. Ông áp dụng quan điểm của người Mỹ trong việc đạt một số tiến bộ về vấn đề kiểm soát vũ khí, giảm chạy đua vũ trang − những vấn đề chỉ có thể thực hiện khi hai cường quốc này cùng chia sẻ quan điểm chung, nhận thức chung. Ông thường nói dông dài khi thảo luận các vấn đề nội bộ nhưng lại rất ít khi làm như vậy khi trình bày chính sách đối ngoại.
Ví dụ điển hình là ông độc thoại trước Tổng thống Bush vào tháng 7/1991, dẫn đến việc Tổng thống Mỹ nảy sinh băn khoăn trước cách đánh giá tình hình thực tế của Mikhail Sergeevich. Ông bị mệt lử trước áp lực trong nước ở giai đoạn 1990–1991, nhưng ông đã thay đổi hoàn toàn khi chuyển sang chính sách đối ngoại. Thời gian ông nghiêng về phái hữu, từ tháng 10/1990 đến tháng 3/1991, ông vẫn là người cấp tiến trong hoạt động đối ngoại. Trên thực tế, ông bị chỉ trích là dành quá nhiều thời gian và công sức cho các hoạt động đối ngoại tại những thời điểm khủng hoảng.
Thế giới bên ngoài ca ngợi ông vì ông cũng mong muốn như vậy: hòa bình trong thời đại của chúng ta. Ông là một vị anh hùng ở Đức bởi ông nhất trí ủng hộ kế hoạch tái thống nhất nước Đức. Ông cho phép Đông Âu chọn con đường phát triển của chính họ. Về một khía cạnh khác, ông đã làm suy yếu vị trí cường quốc của Liên bang Xô viết. Ông thật sự không có sự lựa chọn nào khác vì chính sự suy yếu của hệ thống Liên bang Xô viết đã đi đến giai đoạn cuối.
GORBACHEV LÃNH ĐẠO NHÓM MÌNH RA SAO?
Không nhà lãnh đạo nào có thể thành công mà không nhờ đến nhóm cộng sự ăn ý với mình. Lúc đầu, Gorbachev phải tìm kiếm và sát cánh với họ nhằm củng cố địa vị của mình. Ông phải kiến tạo một Bộ Chính trị chấp nhận các sáng kiến chính sách của ông. Ligachev, Yakovlev, Yeltsin, Ryzhkov và Shevardnadze tạo thành một ê-kíp gây ấn tượng mạnh. Cho đến tháng 12/1990, toàn bộ ê-kíp này đã cãi cọ với Gorbachev. Gorbachev chưa bao giờ để các đồng sự nắm hoàn toàn quyền kiểm soát về một lĩnh vực chính sách nào đó. Ligachev và Yakovlev luôn tranh quyền kiểm soát phương tiện thông tin đại chúng, sau đó Yakovlev chuyển sang phụ trách các công việc đối ngoại, nhưng ở đây, ông này lại vấp phải Shevardnadze.
Có nhiều trường hợp Gorbachev gây ấn tượng rằng ông không tin bất cứ đồng sự thân cận nào. Ông cảm giác họ đang ghen tỵ với địa vị độc tôn của ông. Ông muốn bản thân mình nổi bật. Ông không chịu được với người nào đó có địa vị ngang ông. Boldin trách Gorbachev không thích giao việc gì cho ai, mà chỉ thích tự mình làm hết mọi việc. Điều này khiến ông xa rời tập thể. Những người cấp tiến có ý đề cử Gorbachev làm Tổng thống và Yeltsin làm Phó Tổng thống, đây chỉ là đề cử trong mơ vì nó không bao giờ xảy ra. Bản thân mối quan hệ giữa Gorbachev và Yeltsin đòi hỏi người ta phải nghiên cứu nhiều. Có người cho rằng sự ghen tỵ của Gorbachev với hình ảnh đầy thuyết phục của Yeltsin là gốc rễ của mọi vấn đề.
Tất cả các cộng sự mà ông chọn làm người kế nhiệm đều là những người thấp hơn ông về mọi mặt. Càng ngày, tiêu chí bổ nhiệm lãnh đạo cấp cao càng giảm sút. Pavlov là một bức tranh biếm họa về một vị Thủ tướng. Có thật Gorbachev bổ nhiệm Pavlov vì với Gorbachev, ông ta thật sự có tài hay chỉ vì ông ta không hề nổi bật trước công chúng? Bessmertnykh là một nhà ngoại giao chuyên nghiệp nhưng lại không có quyền thế nào khi là một chính trị gia. Pugo là sự thay thế quá tồi tệ cho Bakatin. Ông chọn Kryuchkov kế nhiệm Chebrikov và luôn tỏ ra tin tưởng ông này. Kryuchkov, một trí thức khôn khéo, mang lại cho Gorbachev nhiều thông tin mà ông ta biết Tổng thống sẽ phát triển lên được. Boldin và Oleg Shenin là những cộng sự hàng đầu chống lại ông. Ông không bao giờ nắm được ý đồ thật sự của họ cho đến khi xảy ra đảo chính. Điều đó cho thấy ông thiếu một nhãn quan sắc sảo trong việc đánh giá tính cách từng nhân vật dưới quyền mình. Sự đánh giá tồi còn thể hiện ở việc tiến cử Lukyanov vào chức chủ tịch Xô viết Tối cao, có ý ép buộc Vlasov vào Xô viết Tối cao Nga, do vậy mở đường cho Yeltsin. Cuộc tìm kiếm đáng thất vọng một đối thủ cạnh tranh với Polozkov vào vị trí lãnh đạo Đảng Nga, nhưng toàn bộ cố gắng này đều thất bại vì ông hoàn toàn hiểu sai Polozkov.
Đồng minh của Gorbachev là phe dân chủ. Thời gian trôi đi, ông nhận thấy họ trở thành đối thủ của mình, thậm chí là kẻ thù. Ông từng chấp nhận đề xuất của Kryuchkov là họ sẽ chiếm Kremlin vào tháng 3/1991. Yakovlev cố gắng thức tỉnh sự ngớ ngẩn của ông nhưng thất bại.
Gorbachev đôi khi là kẻ thù nguy hiểm nhất của chính mình. Khi ông cố sa thải Starkov, chủ biên tờ Argumenty i Fakty , ông biến một đồng minh thành một người chống đối. Với cách làm này, quan hệ mật thiết của ông với giới trí thức năng động và đầy sáng kiến coi như kết thúc. Ông thường quá tự tin vào bản thân mình. Ông dập tắt cố gắng của Pavlov và các bộ trưởng khác muốn chiếm đoạt một số quyền lực của ông vào tháng 6/1991. Tháng 7/1991, ông cười lớn khi nghe Yeltsin khuyến cáo cơ quan KGB có thể lắp thiết bị nghe trộm trong phòng. Sự tự tin quá đến nỗi ông không ngờ KGB đang nghe trộm ông. Việc này xuất phát từ một người chuyên nhận các mẩu tin vắn hàng ngày từ một tổ chức, cho thấy nguồn của các mẩu tin là do đặt máy nghe trộm. Ông đọc các báo cáo KGB rất cẩn thận, viết nhận xét và các điểm cần lưu ý ngoài lề của báo cáo.
Gorbachev khiến ê-kíp của mình chán nản và thất vọng và họ cảm thấy phẫn nộ. Nhất là Nikolai Ryzhkov, người rất phiền lòng khi bị bỏ rơi vào cuối năm 1990. Một số người phàn nàn Gorbachev rất cục cằn và không bao giờ tán thưởng nỗ lực của đồng sự. Ông là người chịu khó lắng nghe, đặc biệt khi đối thoại với đối tác nước ngoài mà ông quan tâm. Tuy vậy, vào năm 1990-1991, ông hầu như bỏ ngoài tai mọi lời khuyên của đồng sự.
Người ta có thể bào chữa cho cuộc đảo chính do Kryuchkov, Pavlov, Yazov và Pugo tiến hành không? Gorbachev cho rằng vì ông bổ nhiệm họ nên họ phải trung thành với ông. Trong việc này ông đã mắc sai lầm nghiêm trọng. Sự trung thành của họ không phải cho cá nhân Gorbachev mà cho Đảng, cho nhà nước. Họ kết luận ông đang làm suy yếu cả hai tổ chức này nên quyết định phải hành động. Cũng có lý lẽ cho rằng, vì sự trung thành tuyệt đối của họ với Đảng và nhà nước nên họ mới tiến hành đấu tranh chống Tổng thống và Tổng Bí thư.
GORBACHEV CHỊU TRÁCH NHIỆM GÌ TRONG CÁC VỤ ĐỔ MÁU?
Trách nhiệm của Gorbachev đến đâu trong các vụ đổ máu tại Tbilisi, Baku, Vilnius và Riga? Vụ trấn áp ở Tbilisi diễn ra do sự đổ vỡ về đường lối lãnh đạo từ trung ương đến thủ đô của nước cộng hòa Gruzia. Giá như Shevardnadze đến Tbilisi thì toàn bộ bi kịch này có thể không xảy ra. Không có lý do gì để nghi ngờ sự bào chữa của ông rằng những người lãnh đạo Đảng ở Gruzia đảm bảo với ông mọi việc đang trong tầm kiểm soát. Gorbachev có thể chỉ chịu trách nhiệm đưa ra quyết định cuối cùng, khi không đùn đẩy cho ai được. Do vậy, ông chỉ chịu trách nhiệm gián tiếp trong vụ trấn áp mà thôi.
Baku thì dễ hiểu hơn. Gorbachev có liên quan vì đã phê chuẩn việc dùng vũ lực. Ở mức độ nào đó, ông là người khởi động vụ trấn áp này. Lỗi xuất phát từ việc ông đánh giá sai về người ly khai, ông cho rằng có thể dễ dàng dập tắt phong trào của họ.
Vinlius là sự kiện khó khăn và nhạy cảm nhất. Lúc nào ông cũng tin Landsbergis và phong trào Sajudis chỉ đại diện cho thiểu số dân chúng Lithuania, trong khi đó, trên thực tế phong trào này nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ và rộng rãi của quảng đại quần chúng. Ông tin vào những tuyên bố phát ngôn từ Đảng thân Moskva và bỏ qua bộ máy Đảng do Brazauskas lãnh đạo. Nhưng thực tế, bộ máy của Brazauskas hoàn toàn có ảnh hưởng ở đây, trong khi Đảng thân Moskva lại không hề có mảy may ảnh hưởng nào. Ông nghe theo lời khuyên của phái bảo thủ là dùng sức ép quân sự buộc Lithuania chấp nhận từ bỏ chủ trương giành độc lập. Bằng cách gửi một bức điện ngày 10/1, ông chủ tâm nghiêm trọng hóa tình hình. Người ta kêu gọi người dân Lithuania từ bỏ cố gắng lập lại trật tự tư sản. Họ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước những việc xảy ra nếu không lập lại hiến pháp Xô viết. Chẳng lẽ ông không nghĩ tới bức tối hậu thư mà ông gửi tới Vilnius hay sao? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu người dân Lithuania không chịu phản ứng tích cực trước lệnh của ông?
Moskva không thể hiện chút cố gắng nào để suy xét xem hậu quả sẽ ra sao trước khi họ sử dụng vũ lực. Kryuchkov cho rằng quyền lực tổng thống sẽ được thiết lập, một thủ tướng bù nhìn và một chính phủ bù nhìn được dựng lên, Lithuania lại quay về khuôn khổ Liên bang. Gorbachev có biết gì về kịch bản này không? Đại hội Đại biểu Nhân dân thông qua một đạo luật vào tháng 3/1990 thiết lập thể chế làm cơ sở cho Tổng thống Liên Xô có thể viện đến các đặc quyền. Từ đó trở đi, về mặt lập pháp, quyền lực tổng thống là một lựa chọn. Tổng thống Bush cảnh báo với Gorbachev nhiều lần về hậu quả của việc sử dụng vũ lực trong các nước vùng Baltic. Gorbachev không hề muốn có đổ máu ở Vilnius và cảm thấy choáng váng trước sự việc xảy ra. Người ta có thể chỉ trích ông không chịu suy nghĩ đến hậu quả của bức điện tín. Có chắc nó gây ra bạo lực không? Lại một lần nữa, ông phải chịu trách nhiệm gián tiếp về thảm họa này. Yakovlev và những người khác khuyên ông nên bay tới Vilnius, gặp Landsbergis, đặt vòng hoa tưởng niệm những người đã bị giết và lên án cuộc trấn áp này. Ông từ chối làm việc đó.
Vụ đổ máu ở Riga còn dễ hiểu hơn nhiều. Một quan chức đương nhiệm tiến hành đàn áp biểu tình bằng vũ lực mà không có lệnh trực tiếp từ Moskva. Việc này cho thấy Tổng thống hoàn toàn mất quyền kiểm soát công cụ cưỡng chế của mình ở Vilnius và Riga.
GORBACHEV − MỘT NHÀ CẢI CÁCH, MỘT NHÀ LÃNH ĐẠO LỚN?
Gorbachev là một nhà cải cách lớn, một nhà lãnh đạo lớn? Chúng ta cần xem xét vấn đề này trên ba khía cạnh: cá nhân Gorbachev, Liên bang Xô viết và phương Tây. Liệu một nhà chính trị có thể vừa là nhà cải cách lớn, vừa là nhà lãnh đạo lớn, nhưng kết cục lại không còn chỗ mà đi? Ông tiến hành cải cách, muốn đưa Liên bang Xô viết thoát khỏi hệ thống đang tồn tại. Xuất phát từ quan điểm cá nhân, ông thất bại vì chính những cải cách của mình, biến ông thành kẻ thất nghiệp. Người ta còn kết tội đường lối lãnh đạo của ông.
Nhìn từ quan điểm của một nhà nước thì điều đó lại khác hẳn. Ông tiếp nhận một cường quốc đang trong giai đoạn suy yếu và tiến hành chuyển đổi sang một xã hội hậu cộng sản. Đảng hoàn toàn mất quyền lực, phong trào cộng sản thế giới bị giáng một đòn chí tử, vương quốc Xô viết bị tan rã. Hiệp ước Warsaw bị giải thể và quyền lực trung ương tan vỡ. Liên bang Xô viết tan rã và thay vào đó là 15 quốc gia độc lập, mà không trải qua nội chiến. Đã tránh được thảm kịch của một nước Nam Tư khác. Giới trí thức được giải phóng và cuộc sống của họ được hồi sinh. Nền dân chủ bắt đầu phát triển cùng sự phát triển của các xí nghiệp tư nhân. Sự tự đày ải và tách biệt mình với phần còn lại của thế giới đã chấm dứt, nước Nga cùng với các nước cộng hòa khác gia nhập cộng đồng quốc tế và chia sẻ các mục tiêu chung. Trên hết, đây mới thật sự là một thành công to lớn và ở nước Nga, người ta cũng sẽ ghi nhận những đóng góp của Gorbachev. Phân tích dựa trên giả thiết không tiến hành thành công cải cách hệ thống mệnh lệnh-hành chính. Vấn đề duy nhất năm 1985: suy thoái kinh tế là một quá trình diễn ra từ từ hay rất nhanh? Không thể dân chủ hóa Đảng và vẫn còn một Đảng Marxist-Leninist. Chắc chắn Đảng sẽ tách ra thành phái tả và phe dân chủ xã hội. Các đại diện về mặt tư tưởng và nhiều đại diện cho xu hướng kinh tế hẳn là bác bỏ phân tích này. Với họ, thời đại Gorbachev là thảm họa vì họ mất hết quyền lực. Công bằng mà nói, ông là một nhà cải cách vĩ đại nhưng không được đánh giá là nhà lãnh đạo thiên tài, nhất là sau năm 1989.
Theo quan điểm đánh giá của phương Tây, Gorbachev là một nhà cải cách lớn và cũng là nhà lãnh đạo tài năng. Ông có cái nhìn thấu đáo khi cho rằng hệ thống xã hội năm 1985 đã suy tàn và phải cải cách. Ông bắt đầu tiến hành từ cải cách kinh tế nhưng thất bại vì không hề quan tâm đến các bài học về nền kinh tế thị trường. Sau đó ông lại đề ra cải cách chính trị nhằm cơ cấu lại đất nước. Mục tiêu của ông không nhằm duy trì hay tăng quyền lực của mình, nếu không thì ông đã chuyển sang một đường lối bảo thủ, nhưng ông đặt xã hội và đất nước lên trên hết. Khi ông nhận thấy quyền lực đang trượt khỏi tay, ông cũng không có ý định dùng vũ lực giành lại. Trong chính sách đối ngoại, ông cũng làm nên nhiều điều kỳ diệu và góp phần tạo dựng một thế giới mới. Người ta bầu ông là nhân vật xuất sắc nhất trong năm và của thập niên.
Lẽ ra ông nên làm điều gì để tiếp tục nắm quyền sau khi xem xét thấu đáo mọi việc xảy ra? Đưa ra một nền kinh tế thị trường, cho phép các nước cộng hòa Baltic tách khỏi Liên bang và thương lượng một Liên bang mới gồm các nước có chủ quyền? Lẽ ra cấp trung ương ở Moskva nên có sáng kiến thực hiện quá trình bãi bỏ độc quyền, cải cách giá cả, áp dụng các thể chế thị trường có định hướng nhằm điều chỉnh một thị trường hoàn chỉnh. Một thị trường chung có thể đã xuất hiện. Điều này tạo ra sự đồng thuận về chính trị sớm hơn, nhất là khi các nước cộng hòa biết sự phát triển một nền kinh tế chung là tất cả mọi người đều có lợi. Gorbachev không bao giờ tán thành kinh tế thị trường và luôn để tâm vào các vấn đề chính trị lúc nền kinh tế đang trên đà suy thoái trầm trọng. Do vậy, nếu ông ưu tiên tập trung vào kinh tế hơn là cải cách chính trị thì có thể đem lại kết quả tốt hơn nhiều. Ông chưa bao giờ thảo luận trực tiếp với Ryzhkov và đây chính là điểm yếu của ông. Điều đó có nghĩa là không hề có một chính sách cải cách kinh tế nào được đưa ra bàn thảo. Ông hài lòng với Pavlov vì ông này không có chút nổi bật gì. Ông cần phải có một trợ lý giỏi trong hàng ngũ lãnh đạo, ủng hộ các chính sách của ông và có kỹ năng điều hành, triển khai các chính sách đó. Gorbachev muốn có một thành tích chính trị nổi bật vững chắc, nhưng ông lại cảm thấy nản lòng trước những thất bại trong quá trình triển khai chính sách. Đây là nhược điểm nổi bật của ông.
GORBACHEV VÀ THUYẾT TRIỂN VỌNG
Một lý giải cho việc Gorbachev nghiêng về phái hữu khoảng từ tháng 10/1990 đến tháng 3/1991 có thể xuất phát từ thuyết triển vọng. Theo thuyết này, mọi người sẵn sàng chấp nhận rủi ro, họ được hướng dẫn nhiều để tránh mất mát. Loại bỏ điều mình ghét còn mạnh hơn việc chấp nhận rủi ro. Khi một chính trị gia có quyền lực nhất định, anh ta sẽ không thích bị mất chút nào. Mất đi một phần nhỏ quyền lực có thể sinh ra các phản ứng bất thường và để lại cảm giác vương vấn thất vọng.
Nếu thuyết này áp dụng ở Liên bang Xô viết dưới thời Gorbachev, ông đã thắng lớn cho đến năm 1989. Khi Hội đồng Nhân dân đã đi vào nền nếp quy củ, Gorbachev lẽ ra phải tiến hành một nền dân chủ hoàn chỉnh. Suy cho cùng, ông đề cao nhân tố con người, cá nhân đóng một vai trò to lớn hơn trong xã hội. Ông tức giận trước những bài chỉ trích và cảm thấy bị xúc phạm khi biết cuộc thăm dò dư luận cho thấy các đại biểu cấp tiến nhất lại được các cử tri quan tâm nhất. Ông đánh liều triệu tập Đại hội nhưng phải hứng chịu tác động ngược khiến ông mất đi phần nào quyền lực. Việc này dẫn đến sự thành lập một hội đồng hành pháp, bước tính toán đầy mạo hiểm. Lại một lần nữa không có tác dụng như ông mong đợi. Thay vì chào đón các nhà dân chủ như những đồng minh, ông lại coi họ là đối thủ, là phe phải ganh đua, thậm chí là kẻ chống đối. Bất cứ việc gì ông cho là làm giảm quyền lực của mình đều khiến ông tức giận.
Dịch chuyển theo hướng thị trường, mà bằng chứng là việc thúc đẩy chương trình 500 ngày Shatalin-Yavlinsky, lại là một sự tính toán mạo hiểm nữa. Ngay từ đầu, Gorbachev cho rằng chương trình này sẽ củng cố địa vị sẵn có của ông và giúp ông lấy lại quyền lực đã mất. Khi ông phát hiện chương trình này thực ra là một kiểu cải cách cấp tiến nhưng gắn bằng một tên khác, lập tức ông không quan tâm nữa. Cải cách cấp tiến này liên quan đến vai trò của nhà nước, nghĩa là nhà nước sẽ không đóng vai trò gì trong nền kinh tế. Nhà nước hạn chế bằng cách đưa ra một khung hoạt động và để các nhân tố kinh tế tự tham gia các hoạt động có chọn lựa. Ông nghiêng về chính sách của Ryzhkov-Albakin, nhấn mạnh sự can thiệp mạnh của nhà nước vào nền kinh tế. Dựa vào các tiền đề của Gorbachev, kết quả của chính sách này có thể đoán trước.
Cách giải quyết vấn đề thể hiện tương tự trong các cuộc thương lượng về hiệp ước Liên bang mới. Mục tiêu chủ yếu của ông là hạn chế tối đa quyền lực bị mất, vì vậy phải tạo ra các thể chế trung ương mạnh nhằm kiểm soát Liên bang mới. Những dự thảo liên tiếp cho hiệp ước Liên bang mới đều cắt xén dần quyền lực của trung ương, lẽ ra ông phải cảm nhận được điều này ngay từ tháng 8/1991. Chiến thuật của ông thể hiện ông ghét bị mất mát. Ông thương lượng theo hướng tiêu cực hơn là tích cực. Đối với ông thật đau đớn khi quyền lực bị tuột khỏi tay. Ông cũng áp dụng cách giải quyết này trong vấn đề dân tộc. Khát khao muốn ly khai bị ông cự tuyệt vì ông coi ly khai là nhân tố phá hoại sự tồn tại của Liên bang Xô viết.
Căm ghét sự mất mát thể hiện trong cách giải quyết vấn đề các nước cộng hòa Baltic. Gorbachev không chấp nhận giải thích của Yakovlev rằng những nước cộng hòa này bị ép gia nhập Liên bang năm 1940, nên coi đây là một trường hợp đặc biệt. Công nhận nền độc lập của họ là một lựa chọn khả thi. Yakovlev còn nói nếu Gorbachev chấp nhận sự lựa chọn này thì ông vẫn nắm nhiều quyền lực. Tình hình còn có thể sáng sủa hơn nếu nghe theo lời khuyên này nhưng ông không tự nguyện nhường quyền lực của mình.
Thuyết triển vọng cho rằng một người, khi đưa ra quyết định liên quan đến rủi ro, thường bị của cải hay quyền lực họ đang nắm giữ chi phối. Một nhà lãnh đạo đầy quyền lực chắc chắn sẽ không tham gia canh bạc mà không hề có sự tính toán nào vì họ có thể mất thế mạnh của mình trong canh bạc đó. Khi một nhà lãnh đạo bắt đầu nhận thấy quyền lực của mình suy giảm, ông ta sẽ liều lĩnh để nắm lại quyền lực đó, củng cố vị trí cũ của mình. Do vậy, một chính trị gia đang chìm có thể trở thành một tay chơi liều lĩnh đặt cược mọi thứ. Giai đoạn bảo thủ của Gorbachev, từ tháng 10/1990 đến tháng 3/1991, chứng tỏ ông là tay chơi bài điệu nghệ nhất. Ông chịu rủi ro lớn và đã thất bại. Sau đó, ông không bao giờ phục hồi địa vị từng có trước tháng 10/1990. Nếu ông chủ trương thực hiện kinh tế thị trường vào tháng 10/1990, ông có thể vẫn giữ chức Tổng thống Liên bang. Mặt khác, phái bảo thủ trong Đảng và các đại diện kinh tế chắc chắn sẽ gạt ông khỏi cuộc chơi. Để thực hiện học thuyết này, ông phải trả giá bằng cả sự nghiệp chính trị của mình.
Hệ quả lâu dài mà Gorbachev để lại là ông đã dẫn dắt nhân dân ông từ một đất nước ổn định sang một đất nước bất ổn. Do vậy, người dân Xô viết trở thành tù nhân của một tương lai mù mịt. Sự bất ổn đã làm cho họ được tự do. Bắt đầu bằng bước đi liều lĩnh, lần đầu tiên trong lịch sử Xô viết, các công dân cảm thấy trong một chừng mực nhất định mình là những người tự do. Họ tự chịu trách nhiệm trong việc giải quyết các rủi ro vốn có của cuộc sống hàng ngày mà chính Gorbachev mang lại cho họ một điều gì đó quý giá, đó là quyền được nghĩ và quyền được tự xoay xở với cuộc sống của mình.
CẢI TỔ CỦA ĐẶNG TIỂU BÌNH: MỘT CHIẾN LƯỢC THAY THẾ
Sự chuyển đổi của Trung Quốc sang kinh tế thị trường là một nhu cầu. Di sản đầy khiếm khuyết của Mao Trạch Đông đe dọa sự bất ổn trong xã hội. Nền kinh tế chỉ huy truyền thống, kế thừa của Liên bang Xô viết chứng tỏ không đem lại hy vọng về mức sống cao cho hàng triệu người dân Trung Hoa. Thủ tướng Triệu Tử Dương đã thuyết phục được phe bảo thủ trong giới lãnh đạo rằng việc thử nghiệm cải cách kinh tế hướng thị trường hoàn toàn không làm xói mòn sức mạnh chính trị độc tôn của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Các cải cách này bắt đầu ở nông thôn vào cuối những năm 1970 và gặt hái được thành công to lớn. Không có chiến lược cải cách tổng thể. Giới lãnh đạo Trung Quốc cực kỳ linh hoạt và thực dụng. Khi họ phát hiện chính sách cụ thể trong một lĩnh vực thất bại, họ rút ngay ra những bài học kinh nghiệm và chuyển hướng cải cách ở giai đoạn sau. Naughton gọi đó là “dò đá qua sông” để miêu tả cách tiếp cận của người Trung Quốc. Người ta vạch kế hoạch giải quyết các vấn đề kinh tế trước mắt. Sự điều chỉnh về mặt phối hợp hành chính đi cùng với điều chỉnh thị trường đã tránh được những hậu quả nghiêm trọng. Các cải cách của người Trung Quốc tiến hành dựa trên việc đa dạng hóa các phương thức thực hiện. Người ta chống lại việc đặt toàn bộ các quả trứng cải cách trong cùng một rổ. Chuyển đổi kinh tế được thương lượng và bàn bạc rất thành công thông qua việc đa dạng hóa phương thức thực hiện. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc rất nhanh và bền vững. Mô hình cải cách của Trung Quốc thật sự có hiệu quả.
Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy sự thay đổi từ từ trong nền kinh tế mệnh lệnh là rất khả thi. Tranh cãi về một cuộc cải cách cấp tiến mạnh mẽ nhằm nhanh chóng xoay chuyển thị trường hoàn toàn không mang lại kết quả. Ở các giai đoạn đầu, từ năm 1978 trở đi, Trung Quốc phạm phải nhiều sai lầm để tìm cho mình một đường đi hiệu quả. Trung Quốc tiến hành cuộc cải cách thận trọng, từ từ nhưng hóa ra lại là một cuộc cải cách cực kỳ thành công vì nó dựa vào chính tình hình thực tế của đất nước.
Mắt xích quyết định trong tiến trình cải cách là sự nới lỏng độc quyền nhà nước đối với công nghiệp. Một khi độc quyền được nới lỏng, sự thu hút lợi ích độc quyền cho khu vực kinh tế đó sẽ có hướng hoàn toàn mới. Các xí nghiệp mới hoạt động kinh doanh theo giá cả thị trường và từng bước ép khu vực nhà nước phải điều chỉnh giá cả. Họ cũng tạo ra cạnh tranh và các xí nghiệp nhà nước phải đối mặt với điều này. Nhân tố chính trong việc nới lỏng độc quyền của nhà nước về công nghiệp là Bắc Kinh không bao giờ tiến hành kiểm soát gắt gao và chi tiết đối với công nghiệp. Hoạt động công nghiệp vận hành theo địa phương, độc lập với các nhà hoạch định kế hoạch trung ương, đã luôn là một thực tế. Quy mô rộng lớn của đất nước Trung Quốc cũng là nhân tố quan trọng.
Hàng nghìn cộng đồng địa phương có quyền tham gia các hoạt động thi đua với các địa phương khác. Thành phố này thi đua với các thành phố khác. Khu vực nhà nước cũng phải thi đua. Việc thành lập các công ty mới tăng với tốc độ kỳ lạ, thậm chí thiếu hẳn việc xác định rõ các quan hệ sở hữu. Do nền kinh tế kế hoạch luôn gây ra sự khan hiếm, các xí nghiệp nhỏ đổ xô lấp chỗ trống này và đáp ứng nhu cầu về hàng hóa tiêu dùng. Kết quả hình thành một giới kinh doanh phát triển. Chính phủ Trung Quốc cố gắng trong nhiều năm tiến hành cải cách giá nhưng thất bại. Các nhân tố mới xuất hiện và cạnh tranh lại dẫn đến sự tái sắp xếp căn bản giá cả suốt những năm 1980. Dần dần nhà nước phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng tài chính khi cơ chế không còn đủ năng lực để thu thuế toàn bộ các xí nghiệp tư nhân nhỏ. Nó tạo sức ép đối với các xí nghiệp nhà nước, buộc các xí nghiệp này phải làm ăn có lãi hơn.
Năm 1989, mở rộng kinh tế dẫn đến tăng cầu về cải cách chính trị và phong trào dân chủ khiến chính phủ Trung Quốc vô cùng bối rối. Câu trả lời của Bắc Kinh chính là sự kiện tại Quảng trường Thiên An Môn và một số nơi khác. Phái bảo thủ đi theo tính khắc khổ của nền kinh tế vĩ mô, tái tập trung đầu tư công, tăng cường quyền kiểm soát kế hoạch từ trung ương và ưu tiên công nghiệp quốc doanh. Nhưng kết quả rất tệ. Chính quyền địa phương đã làm suy yếu sự tái tập trung tài chính và các xí nghiệp chịu sự can thiệp của nhà nước. Tốc độ tăng trưởng trong tổng sản phẩm quốc nội năm 1989 giảm 4,3% và năm 1990 là 4%. Điều này đã khiến các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhất trí đồng lòng áp dụng nền kinh tế thị trường, coi đó là một phương thức khả thi để tăng trưởng kinh tế. Các chính sách kinh tế bảo thủ theo đó và sau năm 1989 hoàn toàn bị phá sản và thất bại. Không một nhà lãnh đạo Trung Quốc có tham vọng có thể bảo vệ được mô hình kinh tế mệnh lệnh mất uy tín này. Trung Quốc chuyển dần sang nền kinh tế thị trường. Năm 1992 tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 12,8%.
Sau đó, Trung Quốc áp dụng cách tiếp cận theo hai hướng. Họ vừa duy trì kinh tế kế hoạch vừa thử nghiệm phát triển khu vực thị trường. Mục tiêu cuối cùng của Trung Quốc là tiến tới xây dựng một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh. Bước lùi cơ bản của Trung Quốc là tiếp tục thất bại trong cải cách chính trị. Đài Loan và Hàn Quốc tiết lộ họ cũng phải làm như vậy.
Những bài học nào được rút ra từ cải cách của Trung Quốc dành cho Liên bang Xô viết? Gorbachev có thể học hỏi và tiếp thu một số kinh nghiệm cải cách này chăng? Những nhân vật nhiệt tình nhất trong việc ủng hộ kiểu cải cách của Trung Quốc là viện sĩ Oleg Bogomolov, Giám đốc Viện Kinh tế Hệ thống Xã hội Chủ nghĩa Thế giới, Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương về cải cách kinh tế vào tháng 6/1987, ông đề xuất cải cách kinh tế nên bắt đầu từ nông nghiệp, như đã tiến hành ở Trung Quốc. Gorbachev phản đối chủ trương cho người dân thành thị thuê 800 nghìn trang trại bị bỏ hoang ở vùng không phải là đất đen của nước Nga để khai khẩn. Một sắc lệnh được ban hành quy định chỉ cấp 600m² đất cho mỗi trang trại. Việc này làm cho toàn bộ hoạt động kinh doanh không thể thực hiện được. Gorbachev quá lạm dụng quyền lực và rõ ràng giới lãnh đạo chẳng ưa gì việc cho thuê đất này.
Aleksandr Yakovlev muốn áp dụng kinh tế theo hướng thị trường ở nông thôn của Trung Quốc, nhưng Gorbachev bỏ ngoài tai đề xuất của ông. Bogomolov ủng hộ việc bán cổ phần và trái phiếu cho công nhân, giống Trung Quốc. Công nhân có thể mua các xí nghiệp làm ăn thua lỗ của nhà nước và biến chúng thành các nhà máy hợp doanh. Giới báo chí Xô viết đã có bài báo ca ngợi xí nghiệp tư nhân ở Trung Quốc và một số nước Đông Âu. Luật Xô viết về hợp tác xã là bằng chứng xem xét hết sức kỹ lưỡng bài học kinh nghiệm triển khai ở Trung Quốc và một số nước xã hội chủ nghĩa khác. Dường như Gorbachev tỏ ra yêu thích kinh nghiệm cải cách nông thôn của Trung Quốc và nhất quán ủng hộ tiến hành trang trại gia đình. Ông đề cập việc này tại Đại hội Đảng lần thứ 27 vào tháng 2/1986, trong bài diễn văn tháng 8/1987 và tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương về thuê đất nông nghiệp vào tháng 5 và tháng 10/1988. Thực tế, ông không thuyết phục nổi giới lãnh đạo bảo thủ về các điểm cơ bản của chính sách này. Việc bổ nhiệm Ligachev vào vị