← Quay lại trang sách

Chương 1 Con đường đến với quyền lực

CON TRAI BÁ TƯỚC CHATHAM VĨ ĐẠI

Trong đời sống chính trị và chính quyền Anh, con đường đến với quyền lực nhanh chóng của William Pitt là duy nhất và có thể mãi sau này sẽ vẫn là trường hợp vô song. Ngày 28/5/1780, William Pitt bước sang tuổi 21. Bảy tháng sau, ông được bầu làm nghị sĩ; sau hai năm hai tháng, ông được đề bạt làm Bộ trưởng Tài chính Anh và là thành viên Nội các Anh; chỉ sau ba năm bảy tháng, ông đắc cử chức Thủ tướng Anh và trở thành người lãnh đạo chính phủ.

Một điều khiến ta ít ngạc nhiên nhất về sự thăng tiến nhanh chóng đến không ngờ này chính là cuộc tuyển cử của ông vào Viện Bình dân ở độ tuổi còn rất trẻ. Hệ thống tuyển cử chưa được cải cách của thế kỷ XVIII đã mang lại cho những người trẻ tuổi nhiều cơ hội. Một phần sáu số thành viên Viện Bình dân ở độ tuổi dưới 30, một vài người cũng trẻ như Pitt. Cửa vào Viện Bình dân luôn rộng mở cho những người trẻ tuổi tìm được người bảo trợ có ảnh hưởng lớn trong Nghị viện, hoặc thông qua mối quan hệ chính trị, quan hệ gia đình, hoặc có người cha nổi tiếng. William Pitt rơi vào trường hợp cuối cùng. Ông là con trai thứ hai của Bá tước Chatham vĩ đại (William Pitt cha) − một ngôi sao chính trị siêu phàm và sáng chói giữa thế kỷ XVIII. Khả năng lãnh đạo của Chatham đã giúp dân tộc Anh giành được chiến thắng lừng lẫy nhất trong cuộc Chiến tranh Bảy năm 1 . William Pitt sinh năm 1759, năm mà sự nổi tiếng của người cha đã đạt đến đỉnh điểm.

Tuy nhiên, William Pitt lại phát triển khi danh tiếng của người cha đã giảm sút. Chatham là một người yêu nước, ông đã hành động vì lợi ích của dân tộc, không gây bè cánh hay thù oán đảng phái, ghét mọi hình thức tham nhũng và đầu cơ của đời sống chính trị lúc bấy giờ. Ông chống lại sự thống trị theo kiểu quý tộc của Viện Bình dân hay tước vị, bổng lộc và địa vị “ngồi mát ăn bát vàng” mà các chính phủ từng đề nghị để giành được đa số phiếu ủng hộ. Năm 1768, Chatham đã bị công kích trên một số ấn phẩm, như bài viết giấu tên Bàn về chủ nghĩa yêu nước , trong đó lên án ông là “kẻ mạo danh yêu nước”. Ông bị cho là đã để tính tự phụ của mình vượt lên cả tình yêu đất nước khi từ chức vào năm 1761, sau khi những đồng sự trong Nội các không thông qua kế hoạch của ông về cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha và từ chối ủng hộ các kế hoạch sau này của cuộc chiến.

Uy tín “một hạ nghị sĩ vĩ đại” của Chatham đã bị lung lay bởi sau khi từ chức, Chatham đã chấp nhận khoản tiền trợ cấp hàng năm 3.000 bảng và một danh vị quý tộc cho vợ mình; hơn thế nữa, ông đã trở thành Bá tước Chatham và là Thủ tướng Anh trong những năm 1766-1768. Nhiệm kỳ thủ tướng của Chatham, một sự trải nghiệm về lý tưởng yêu nước của một bộ không đảng phái ủng hộ nguyên tắc “biện pháp chứ không phải con người” đã bị đứt ngang giữa lúc sự tố cáo lẫn nhau và tranh giành quyền lực xảy ra trong Nội các, cuối cùng bệnh tật đã loại ông ra khỏi cuộc chiến đó. Việc sau này Chatham ủng hộ cải tổ Nghị viện và những người không theo đảng phái đã giúp ông lấy lại uy tín (mặc dù nó cũng khiến ông phải chia tay với nhiều chính trị gia nổi tiếng khác). Tuy vậy, Chatham không được lòng công chúng bởi chính sách ngoại giao theo kiểu đế quốc − thế mạnh lớn nhất của ông. Ông hối thúc cuộc chiến với một quốc gia rất nhạy cảm bằng việc chiếm đóng quần đảo Falkland của Tây Ban Nha vào năm 1770, tiến tới hòa bình và sự hòa giải vô ích với Mỹ trong khoảng thời gian từ 1774 đến 1778, năm ông mất.

William Pitt và cha có mối quan hệ rất sâu sắc. William Grenville, người anh họ của William Pitt, nhớ lại, Pitt “thường trò chuyện với Bá tước Chatham rất trìu mến và không bao giờ có khoảng cách giữa hai cha con”. Mối quan hệ này đã giúp Pitt bước vào đời sống chính trị ngay từ rất sớm. Chatham không chỉ huấn luyện con trai khả năng diễn thuyết trước công chúng từ khi còn nhỏ, mà còn nhắc nhở đạo làm con phải giữ gìn truyền thống yêu nước, tiếp nối truyền thống gia đình của một hạ nghị sĩ vĩ đại và lấy lại uy tín của người cha đã khuất. William Pitt sẽ đưa ra trước Viện Bình dân Anh ngọn đuốc học thuyết yêu nước mà cha ông theo đuổi, dẫu có cả những bài học về lỗi lầm của người cha mà ông không thể nào quên. Song, đó cũng là một quyết định mạo hiểm, bởi ông bắt đầu sự nghiệp chính trị từ cơ sở tài chính không vững chắc. Chatham chết khi đang nợ nần chồng chất. Pitt phải sống dựa vào khoản trợ cấp 600 bảng mỗi năm của người anh trai và không thể trông mong gì hơn, vì tài sản của cha ông đã bị các chủ nợ lấy đi hết. Phải có một khoản thu nhập cá nhân độc lập thì ông mới có thể theo học các khóa dành cho giới thượng lưu. Trong những năm 1779-1780, ông đã theo học ở trường Lincoln’s Inn. Hè năm 1780-1781, ông là luật sư tập sự nghiên cứu các vấn đề của phương Tây. Tuy nhiên, khoản thu nhập từ công việc này vẫn chưa ổn định. Do các nghị sĩ Anh không được trả lương và học thuyết yêu nước của ông là không màng đến danh lợi hoặc bổng lộc nên ông thật sự cần đến một chức vụ được chính phủ trả lương để có thể duy trì sự nghiệp chính trị hiệu quả.

Những năm đầu tiên trong sự nghiệp, dịp may hiếm có đã đến với Pitt, chỉ còn phụ thuộc vào khả năng ông khai thác nó như thế nào. Cuộc chiến tranh giành độc lập của người Mỹ (1775-1783) ngày càng trở nên tồi tệ, Pháp và Tây Ban Nha tham chiến để chống lại Anh. Tư tưởng phản đối mối bất hòa với Mỹ của Chatham nay được nhiều người ủng hộ hơn. Việc Bộ của North 2 chỉ đạo cuộc chiến sai hướng khiến mọi người thấy rõ hướng chỉ đạo mạnh mẽ và hiệu quả mà Chatham đã áp dụng trong cuộc chiến tranh trước. Trong khi đó, sự quản lý lỏng lẻo của các bộ lại được đổ lỗi cho tệ tham nhũng và sự ảnh hưởng quá mức của Vua Anh, những điều mà trước đó Chatham luôn công kích. Cơ hội chứng minh danh tiếng của người cha đã trong tầm tay, đồng thời cơ hội để Pitt gia nhập diễn đàn phù hợp cũng đã đến chỉ sau vài tháng, khi Nghị viện Anh bị giải tán và cuộc tổng tuyển cử được ấn định vào tháng 9/1780.

Tuy nhiên, để chứng minh cho danh tiếng và những nguyên tắc đạo đức của cha, Pitt đã gặp không ít trở ngại. Xét theo góc độ duy tâm, ông cần phải trong sáng hơn cha. Ông không thể chuyển sang bất kỳ một đảng nào hoặc liên hệ nhờ một sự giúp đỡ nào. Cũng như cha, Pitt tuyên bố mình là “một đảng viên Đảng Whig 3 độc lập”. Điều này có nghĩa là ông không tham gia đảng phái, nhưng cam kết duy trì một hiến pháp cân bằng và pha trộn do những thành viên Đảng Whig lập nên trong cuộc Cách mạng Vinh quang 4 năm 1688, một hiến pháp mà Pitt tin rằng nó có nguy cơ bị George III và chính phủ của ngài xâm phạm. Pitt thể hiện sự độc lập của mình đến nỗi ông từ chối tất cả những lời đề nghị ủng hộ của các thành phố, thị trấn, ngay cả khi đó là của những người thân, như Bá tước Temple và Thomas Pitt, mặc dù cha của Pitt đã vào Nghị viện bằng con đường này. Thay vào đó, ông tranh thủ sự ủng hộ của các cử tri độc lập, mở rộng và chuyển hướng sang trường Đại học Cambridge, nơi ông đã học vào năm 1773, khi mới 14 tuổi. Ông nhận bằng thạc sĩ tại trường này năm 1776 mà không cần phải thi cử (vì ông nằm trong danh sách con của khanh tướng). Lúc này, mẹ ông đánh giá ông đã “hoàn thiện ở Đại học Cambridge, sau các buổi rèn luyện trí óc và thể lực, phải thú nhận rằng tôi đã nghĩ nó thật hoàn hảo”. Trong suốt ba năm học cao hơn kết hợp với môn cưỡi ngựa ở trường Cambridge, tinh thần vui vẻ, tính hài hước và khả năng đối đáp nhanh nhạy khi tiếp xúc với những người quen đã giúp Pitt cuốn hút được đông đảo bạn bè và những người có khả năng ủng hộ ông sau này. Ông đã miêu tả vị trí của mình trong trường đại học là “đáng khao khát nhất, không phải chịu một phí tổn nào, hoàn toàn tự do và xét về mọi khía cạnh là quá vinh dự”. Ông bắt đầu chuẩn bị cho một kế hoạch cá nhân trước khi rời trường Cambridge năm 1779, nhưng chính phủ đã quyết định bầu cử sớm ngoài dự kiến, quá trình vận động bầu cử của ông chưa đủ mạnh nên ông nằm cuối danh sách bầu cử.

Hoàn cảnh bắt buộc Pitt phải chấp nhận những lời gợi ý thiện chí của một người bạn học cũ ở trường Cambridge, Công tước Rutland. Mối quan hệ của Rutland với người có ảnh hưởng lớn tại thành phố phía bắc bấy giờ − ngài Lowther − đã giúp Pitt quay trở về Appleby ở Westmorland. Ở đây, Pitt cảm thấy được thỏa mãn nhu cầu độc lập của mình. Pitt nói với mẹ về Lowther: “Am hiểu những nguyên tắc của cha, ông ấy cho rằng mình cũng sẽ tán thành những nguyên tắc của con”. Lowther không đưa ra một thời hạn cụ thể, nhưng hy vọng Pitt sẽ từ bỏ vị trí mà nó có thể khiến những nguyên tắc đạo đức của họ trở nên đối lập.

Cuộc bầu cử diễn ra sớm đột xuất khiến tất cả những người chống đối chính phủ không kịp chuẩn bị. Tình trạng tiến triển tạm thời của cuộc chiến và ảnh hưởng của Bộ Tài chính đã tạo cơ hội cho Bộ của North bảo toàn được đa số phiếu. Thành viên mới của Appleby, cũng như cha ông, bị xếp vào phe đối lập. Khoảng một tháng sau khi giành được ghế nghị sĩ, ngày 26/2/1781, với tư cách nghị sĩ tại Nghị viện, ông đã có bài diễn thuyết đầu tiên ủng hộ dự luật của phe đối lập là chuyển số tiền mà Nghị viện cấp cho Vua Anh sang phục vụ các dịch vụ công. Cơ hội đến với ông thật bất ngờ, nhưng ông đã sẵn sàng đón nhận nhờ những bài giảng của cha, những buổi trực tiếp nghe diễn thuyết và thảo luận của cha (tình bạn thân thiết của ông với William Wilberforce cũng nảy nở từ khi họ thường xuyên đi nghe các buổi diễn thuyết, trước khi cùng trúng cử vào Viện Bình dân Anh). Pitt ứng khẩu rất bình tĩnh và quả quyết trước những quan điểm của những người diễn thuyết trong buổi hội thảo. Ngay cả North cũng hào phóng tuyên bố đây là bài diễn thuyết hay nhất của một thanh niên mà ông ta từng nghe. Uy tín của cha Pitt cũng khiến mọi người sẵn sàng đón nghe những gì ông nói, và tất nhiên là sẽ không tránh khỏi sự so sánh giữa Pitt và cha. Edmund Burke khẳng định Pitt “không phải là mảnh vỡ của tòa nhà cũ, chính Pitt là tòa nhà cũ đó”. Cũng có thể sự nổi tiếng của cha đã giúp ông có được sự ủng hộ như vậy. George Selwyn, người được nghe bài diễn thuyết thứ ba của Pitt tại Viện Bình dân vào ngày 12/6, đã đánh giá: “Tất cả những gì tôi có thể nói đó là cậu ấy thật hiểu biết, một chàng trai trẻ đầy hứa hẹn”.

Tiếng tăm của cha càng thúc đẩy sự nghiệp của ông. Tuy nhiên, tự bản thân ông phải có khả năng để tận dụng triệt để sự khởi đầu thuận lợi này, và sau bài diễn thuyết đầu tiên tại Nghị viện vào mùa thu, ngay cả Selwyn cũng phải thừa nhận “bài diễn thuyết hôm nay của Pitt đã gây được tiếng vang lớn”. Sau bài diễn thuyết tiếp theo của Pitt, một người rất có kinh nghiệm như Horace Walpole cũng phải ghi nhận: “William Pitt đã đề cập đến lời tuyên bố suông của North mà cậu đã ghi vào biên bản. Cậu ấy đã thể hiện cho họ thấy khả năng tư duy logic đáng ngạc nhiên nhất. Với tất cả những gì đã thể hiện, không ai có thể nghi ngờ cậu ấy sẽ trở thành một người tài giỏi thậm chí còn hơn cả Charles Fox”. Nhân dịp năm mới năm 1782, một thính giả khác đã viết về Pitt: “Ông ta là một người tuyệt vời trên mọi phương diện, cả công việc bình thường cũng như sự thăng tiến liên tục và nhanh chóng: Tôi đã nghe ông ta diễn thuyết ba lần và lần diễn thuyết sau hấp dẫn hơn lần trước”.

Mặc dù chịu sự công kích từ Pitt, một tài năng đầy hứa hẹn của phe đối lập (Pitt tham gia phe này để cùng góp tiếng nói với Charles Fox, Burke, Sheridan và những người khác), nhưng North đã tổ chức phiên họp vào mùa xuân năm 1781 với sự hậu thuẫn mạnh mẽ của Henry Dundas, một người chủ trương ủng hộ Scotland. Sự phát triển của Pitt hẳn sẽ không suôn sẻ nếu hoàn cảnh không thay đổi theo chiều hướng có lợi cho ông. Việc quân đội Anh đầu hàng thê thảm trong cuộc chiến tại Yorktown đã làm sụp đổ cuộc chiến tranh ở Mỹ và đánh mất niềm tin trong Bộ. Tháng 3/1782, mất đa số phiếu ủng hộ, North từ chức.

Sự tan rã của một chính phủ được thiết lập trong nhiều năm của North đã làm thay đổi giới chính trị, nhiều nhóm chính trị tan vỡ. Trong hoàn cảnh này, không chỉ khả năng diễn thuyết giúp Pitt tìm kiếm được sự ủng hộ của nhiều người, mà tài trí và những buổi yến tiệc, đặc biệt là với những người cùng độ tuổi trong Nghị viện, đã biến ông thành nhân vật quan trọng trong Gootree, câu lạc bộ của các thành viên trẻ tuổi. Họ hầu hết là những bạn học cũ của Pitt ở Cambridge, trong số đó có John Jeffreys Pratt và Euston, con trai của Bá tước Camden đáng kính và Công tước Grafton, những người ủng hộ nổi tiếng trước đây của cha ông. Ông cũng biết Edward Eliot và Henry Bankess hồi còn ở trường Cambridge. Wilberforce cũng học ở Cambridge, nhưng chỉ đến khi gặp nhau ở London, họ mới kết bạn với nhau. Richard Pepper Arden cũng là người từng đi chung cầu thang gác với Pitt khi ông đang theo học ở trường Lincoln's Inn. Giám đốc ngân hàng Robert Smith cũng bắt đầu liên lạc với Pitt khi ông được vào Nghị viện. Hai người quen khác ở trường Cambridge là William Lowther và Công tước Rutland (người kiểm soát sáu ghế trong Viện Bình dân) cũng nằm trong số những người ủng hộ thân cận của Pitt. Một số người lớn tuổi hơn Pitt − Arden lớn hơn mười lăm tuổi, Smith hơn bảy tuổi, Rutland hơn năm tuổi, Bankes hơn ba, Euston và Eliot hơn một tuổi − tất cả đều đánh giá cao nhân cách của Pitt, cho rằng Pitt có khả năng giành được cảm tình và sự ủng hộ rộng rãi.

Tại thời điểm này, Pitt ảnh hưởng đến họ nhiều hơn là các lá phiếu chắc chắn của họ dành cho ông, nhưng có điểm đáng chú ý: Tháng 3/1782, Selwyn đã viết: “Pitt sẽ không bị lệ thuộc; ông sẽ không chịu như vậy trong xã hội của chính mình. Ông sẽ là người lãnh đạo nhiều thanh niên trẻ, và đó sẽ là một quân đoàn tách biệt khỏi quân đoàn của Charley (Fox); do vậy sẽ có một người khác ở vị trí đứng đầu này, người mà không ai có thể vượt qua”. Mười ngày trước, Dundas có kế hoạch yểm trợ cho Bộ của North, trong đó gồm cả kế hoạch giới thiệu Pitt với cương vị là Thủ quỹ của Hải quân Anh, với một ghế ở Bộ Tài chính, Hải quân và Thương mại, cùng với một số bạn bè của Pitt. Pitt đã thu hút được sự ủng hộ của nhiều người.

Tuy nhiên, việc thiếu kinh nghiệm đã khiến Pitt trở thành một người liều lĩnh. Khi chính phủ mới được thành lập, Pitt đã bất ngờ tuyên bố không bao giờ chấp nhận sự phụ thuộc. Ngày 8/3, ông cũng tuyên bố như vậy trước Viện Bình dân. Horace Walpole đã coi điều Pitt làm là sự bất cẩn khó tha thứ:

Đó là lời phát biểu quá ngạo mạn của một đứa trẻ không có lấy một chút kinh nghiệm, thậm chí là của một kẻ có vị trí thấp nhất trong bất kỳ một văn phòng nào, người mà chỉ nhờ những bài diễn thuyết, trên thực tế là rất hay nhưng không chứng minh được năng lực làm việc đã vội tự phụ đòi đứng ở vị trí lãnh đạo. Điều đó chứng minh anh ta chỉ là một đứa trẻ, một con người kiêu căng và đầy tham vọng. Khi bình tĩnh lại, anh ta sẽ nhận thấy đó là hành động điên rồ và muốn cắt bỏ cái lưỡi vì đã thốt ra những điều đó.

Sự việc đó đã đẩy Pitt vào thế không thể đòi hỏi quyền lực và phải phụ thuộc vào lòng tốt của một chính trị gia cấp cao mà Pitt có mối liên hệ mật thiết nhất − Bá tước Shelburne, người được thừa hưởng khả năng lãnh đạo của những người theo Chatham trước đây. Shelburne giới thiệu Pitt với Bá tước Rockingham − một nhà lãnh đạo của nhóm đối lập lớn nhất, được giao phó nhiệm vụ thành lập chính phủ mới. Rockingham có ý định bổ nhiệm Pitt làm Phó giám đốc Bộ Tài chính Ireland với mức lương 5.000 bảng mỗi năm, nhưng Pitt đã từ chối vì e ngại việc nhận chức đó sẽ đi ngược lại những tuyên bố của ông trước công chúng, sợ rằng hình ảnh của một người yêu nước sẽ bị hoen ố. Shelburne đã có một số đề nghị ưu tiên để ấn định một vị trí trong Nội các cho Pitt, nhưng chính phủ mới được thành lập mà vẫn không có Pitt.

Một lần nữa, con đường chính trị của Pitt bị dừng lại, ông nhanh chóng tìm cách củng cố hình ảnh của mình trước mắt dân chúng. Chi phí và cách quản lý sai lầm cuộc chiến tranh với Mỹ đã kích thích yêu cầu phải cải tổ Nghị viện trở thành đại diện tốt hơn cho quan điểm của giai cấp tư sản trong nước. Xuất phát từ tầng lớp cấp tiến ở London, nó đã lan sang tầng lớp quý tộc nhỏ ở các hạt. Năm 1779, Đức cha Christopher Wyvill thành lập Hiệp hội Yorkshire – nhóm gây áp lực ngoài Nghị viện cho chiến dịch đòi cải tổ, các hạt khác cũng noi gương thành lập hiệp hội. Cha của Pitt là người kiên định mục tiêu cải tổ Nghị viện, và tháng 10/1780, Pitt được bầu vào ủy ban của Hiệp hội Kent 5 do Mahon, anh rể ông, làm chủ tịch.

Phong trào đòi cải tổ đã gặp thất bại vì North chiến thắng trong cuộc bầu cử, nhưng mọi người vẫn hy vọng nó sẽ được phục hồi khi chính quyền của ông ta sụp đổ. Tháng 4/1782, Wyvill và Pitt, những người có tư tưởng cải cách, đã gặp nhau tại nhà của Công tước Richmond ở London và đi đến thống nhất rằng Pitt sẽ chuyển đến Viện Bình dân với một chân trong Ủy ban Đặc biệt để lưu ý đến tình trạng phản kháng. Pitt đã đưa ra đề nghị cải tổ lần đầu tiên vào ngày 7/5 trong một bài phát biểu kéo dài một tiếng rưỡi, ông đề xuất việc sửa đổi các nguyên tắc và giảm bớt những thiếu sót. Mặc dù đề nghị này bị phản đối với tỷ lệ phiếu 161 141, Pitt vẫn thành công trong việc củng cố hình ảnh của mình như một phát ngôn viên uy tín trong Viện Bình dân về vấn đề cải tổ Nghị viện và có mối liên hệ trực tiếp với những người cùng tư tưởng cải cách bên ngoài Viện. Mười hai ngày sau, một cuộc họp cấp cao đã đi đến thống nhất bắt đầu chiến dịch trưng cầu dân ý toàn quốc, tạo điều kiện cho Pitt tiếp tục vấn đề này trong phiên họp tiếp theo.

BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH ANH TRONG NỘI CÁC CỦA SHELBURNE

Pitt đã thăng tiến rất nhanh trước khi vận may đến với ông. Chính phủ mới bị chia rẽ thành hai bè phái tranh giành quyền lực, giữa Shelburne và Fox. Việc Pitt không có mặt trong chính phủ lúc này lại là điều kiện để ông tránh khỏi sự chia rẽ bè phái. Ông tự do ứng cử khi Rockingham đột ngột từ trần vào tháng 7, Fox và những người cùng phe từ chức sau khi Vua Anh chuyển giao cho Shelburne quyền lãnh đạo Nội các. Nội các cần bổ nhiệm các vị trí còn trống, và cần tìm một người có thể dũng cảm đương đầu với Fox trong Viện Bình dân, việc Pitt tuyên bố muốn đứng ở vị trí lãnh đạo hồi tháng 3 lúc này đã mang lại kết quả. Có quan điểm cho rằng sau khi thôi kiếm sống trong ngành luật sư, chắc chắn Pitt sẽ không từ chối vị trí Bộ trưởng Tài chính Anh trong Nội các mà Shelburne đề nghị. Trong số bạn bè của ông, Arden trở thành cố vấn pháp luật của chính phủ, Eliot và Pratt được giao giữ các vị trí ở Bộ Tài chính và các ban trong Bộ Hải quân.

Điều đáng nói là Pitt giữ chức bộ trưởng của một bộ yếu trong một Nội các không được vững chắc. Pitt vẫn chưa đủ khả năng đòi một vị trí đặc biệt và những gì ông có được đều là do may mắn mà người khác mang lại. Ban đầu, Vua Anh và Shelburne định bổ nhiệm ông làm Bộ trưởng Nội vụ, nhưng cuối cùng Thomas Townshend, người có nhiều kinh nghiệm và diễn thuyết rất thuyết phục, đã giành được vị trí đó và có quyền lãnh đạo chính phủ trong Viện Bình dân. Townshend và ít nhất hai người khác đã rời Bộ Tài chính, do Bộ không đủ người nên Pitt nhận vị trí Bộ trưởng. Đây không phải là một bộ nắm quyền, Shelburne với tư cách là Thủ tướng Anh có ý định nắm giữ tất cả mọi vấn đề liên quan đến tài chính. Cả Pitt và Shelburne đều cần phải thử thách. Bá tước Mornington, một người bạn sau này và là người đi theo Pitt, đã lộ rõ sự lo lắng khi nghe những lời đồn đại đầu tiên về Bộ mới: “Chao ôi, William Pitt là Bộ trưởng! Ngài Shelburne là Thủ tướng! Tôi chắc chắn Pitt không có đủ khả năng đảm nhiệm công việc đó, còn Shelburne, theo tôi, khó có thể trông mong ở ông ta”.

Sự bổ nhiệm chính quyền đầu tiên của Pitt là trực tiếp vào văn phòng Nội các, nhưng 9 tháng sau ông mới chính thức được nhận quyền, và chỉ đến khi hai phiên ngừng họp Nghị viện kéo dài mới khiến khoảng thời gian Pitt chờ lên nắm quyền được rút ngắn. Shelburne không mấy uy tín. Nhưng với bản tính thông minh, lanh lợi, cộng thêm sự tư vấn của các cố vấn riêng tài năng, ông đã khéo léo dần tăng uy tín của mình. Tuy nhiên, dù ông đã chiếm được cảm tình của Vua Anh, nhưng đây lại là thời điểm mà uy tín của Vua Anh bị giảm sút bởi cuộc Chiến tranh Hoa Kỳ do ngài ủng hộ đã thất bại. Người ta tính rằng ở Viện Bình dân, số người ủng hộ Shelburne và Vua Anh có thể tập trung ở 140 phiếu, Fox được 90 phiếu và North − người đã mất chức − chiếm 120 phiếu, số phiếu ủng hộ những người còn lại không được thống kê chắc chắn. Bởi vậy, phần lớn phụ thuộc vào việc Shelburne lôi kéo mọi người ủng hộ rộng rãi chính sách của ông. Tuy nhiên, ông vẫn phải đối mặt với tình thế phải giải quyết những vấn đề mà sẽ gây bất lợi cho hòa bình với Mỹ và các đối tác châu Âu, có thể chính phủ sẽ phải chịu những điều gièm pha. Bằng sự khéo léo của mình, Shelburne đã giúp dân tộc thoát khỏi chiến tranh, nhưng sự nhượng bộ của ông cuối cùng lại khiến Nội các tan vỡ, tạo điều kiện cho các thành phần chống đối tập hợp chống lại ông trong Viện Bình dân.

Sau khi Nghị viện tái tổ chức phiên họp vào tháng 12/1782 để thảo luận vấn đề hòa bình, Pitt bắt đầu tăng cường vai trò nắm quyền thật sự cho chính mình. Mọi ưu thế về quyền bổ nhiệm trong Bộ Tài chính nằm trong tay Shelburne, Pitt phải phụ thuộc vào việc liệu Thủ tướng có cho ông nghỉ việc hay không. Chẳng hạn, khi sắp xếp lại các vị trí trong Bộ, có năm vị trí còn khuyết, Shelburne đã giành quyền sắp xếp hai vị trí Bộ trưởng Tài chính cho Orde và Rose, còn lại là của Pitt. Vị Bộ trưởng Tài chính trẻ tuổi làm việc đầy nhiệt huyết, nhưng Shelburne dường như chỉ làm việc trực tiếp với các nhân viên ngân khố dày dạn kinh nghiệm, các cố vấn riêng và vị trí Bộ trưởng Tài chính. Pitt nằm trong kế hoạch cải tổ chính quyền trong Bộ Tài chính của Shelburne, được giao trọng trách đưa hai dự luật ra trước Viện Bình dân, một về việc cải cách thuế hải quan và một về điều chỉnh các văn phòng công cộng. Tuy nhiên, có ít nhất hai dấu hiệu cho thấy Pitt không nằm trong danh sách những người mà Shelburne tin tưởng khi bàn về các công việc của Bộ Tài chính. Thứ nhất, giữa hai người ít khi có sự hòa hợp, đặc biệt khi Shelburne đang giữ một ghế trong Quốc hội ở Bowood mùa thu năm 1782. Dấu hiệu thứ hai là cuộc điều trần của George Rose, Bộ trưởng Tài chính. Mặc dù Rose đã gặp Pitt ở Bộ Tài chính và một vài lần trong bữa tối tại nhà Shelburne, nhưng Rose không thấy thân thiện với vị Bộ trưởng Tài chính cho tới sau khi họ thôi cầm quyền.

Mặc dù Pitt có mặt trong tất cả các cuộc họp của Nội các, nhưng vai trò của ông rất hạn chế. Shelburne luôn điều hành trực tiếp các cuộc đàm phán về các điều luật thông qua cuộc gặp riêng với các đặc phái viên nước ngoài, gửi những đại diện cá nhân, đặc phái viên của Anh hoặc sử dụng hai vị Bộ trưởng. Trong các báo cáo về những cuộc thảo luận trong Nội các, Pitt gần như là ẩn danh. Một số người như Richmond và Keppel mạnh mẽ bày tỏ quan điểm của họ và than phiền về việc thiếu sự bàn bạc thích hợp trong Nội các. Trong thời gian ngắn, Shelburne nắm giữ quyền điều hành đất nước, quyền lực nằm cả trong tay Thủ tướng và những gì mà Pitt rút ra là có rất ít dấu hiệu cho thấy Shelburne thiết lập mối quan hệ thân mật với Pitt. Hai năm sau, Shelburne cử một đặc phái viên tới để bàn về việc Pitt đề nghị ông được nâng lên tầng lớp quý tộc, vị nguyên Thủ tướng ghi nhận: “Tôi biết sự lãnh lẽo trong thế giới mà anh sẽ bước vào, nó đòi hỏi tất cả sự hăng hái nhiệt tình của anh để làm tan đi bầu không khí đó”.

Chỉ đến khi quyền lực của Shelburne bị đe dọa ở Viện Bình dân thì vai trò của Pitt mới có ưu thế và có ảnh hưởng hơn. Vốn quý nhất của Pitt đối với bất kỳ chính phủ nào vẫn là khả năng diễn thuyết. Ông nhanh chóng tiếp cận với nhiều nhà chức trách có thế lực như Tướng Conway và Thomas Townshend. Tuy nhiên, Pitt vẫn không tránh được những sai lầm đáng tiếc. Trong các buổi thảo luận về đàm phán hòa bình ngày 6/12, Pitt đã mắc sai lầm và tiếp tục mắc sai lầm khi thách thức rằng kết quả của các cuộc đàm phán hòa bình cao hơn với Pháp, hòa bình với Mỹ là vô điều kiện. Khẳng định này mâu thuẫn với những gì Shelburne trình với Vua Anh. Vua Anh đã khiển trách sự thiếu kinh nghiệm của Pitt: “Chẳng còn nghi ngờ gì nữa, chàng thanh niên còn quá trẻ đó đã lỡ lời”. Một sơ suất khác mà Pitt đã mắc phải gây ra không ít tai tiếng. Ngày 17/2/1783, trong cuộc thảo luận về hiệp ước hòa bình, Pitt đã phản ứng lại những chỉ trích của Sheridan bằng một tuyên bố mỉa mai rằng cuộc tấn công bất ngờ còn tốt hơn là phân chia theo từng giai đoạn.

Tuy nhiên, những kỹ năng tranh luận của Pitt là sự ủng hộ tin cậy và không thể thiếu được đối với Shelburne trong Viện Bình dân. Pitt có ảnh hưởng rất lớn khi Thủ tướng Shelburne phải củng cố Bộ của mình đang có chiều hướng lung lay. Khi Richmond từ chức và Carlisle hết nhiệm kỳ, Shelburne đã dành cả hai vị trí này cho những người bạn của Pitt – Rutland, người đã từ bỏ Nội các của đảng khác và Công tước Grafton – mà không cần phải tham khảo ý kiến. Quyết định này chủ yếu là để tìm kiếm một sự ủng hộ an toàn nhằm hòa giải với North hoặc với Fox. Pitt kiên quyết không ngồi vào bất cứ ghế nào trong Nội các của North. Do vậy, mặc dù đã thăm dò ý kiến để nhận được sự ủng hộ của North (đương nhiên là không có Pitt), Thủ tướng Shelburne vẫn không thể đề nghị một chức vụ cao hơn cho North. Trong số những người từng là phe đối lập, Pitt được phép lựa chọn hướng hòa giải với Fox, nhưng Fox đã từ chối tham gia bất kỳ phiên họp nào khi Shelburne vẫn đương chức, Pitt cũng không thể từ bỏ Thủ tướng Shelburne, do đó cuộc thương lượng này không đi đến hồi kết. Sau đó, Fox và North đã xích lại gần nhau hơn, điều này nằm ngoài dự kiến của mọi người. Những thành phần từng được coi là chống đối đã liên kết với nhau để chống lại những đề nghị của Thủ tướng trong các cuộc đàm phán liên tiếp vào các ngày 17 và 21/2, khiến Shelburne phải tuyên bố từ chức sau đó ba ngày.

Đối với Pitt, bài diễn thuyết trong hai cuộc đàm phán cuối cùng này có ý nghĩa quan trọng nhất trong cuộc đời, đánh dấu những kỳ vọng của ông trong việc lãnh đạo chính phủ. Ông hiểu rằng Bộ của Shelburne sẽ bị lên án và ông phải giải thoát chính mình khỏi sự sụp đổ đó. Ông phải chứng tỏ quyền lực của mình mà không cần phụ thuộc vào Shelburne. Lần thử thách cuối cùng này, ông phải thực hiện điều mình muốn song không thể hiện mình không trung thành với Thủ tướng đã bị thất thế. Pitt đã khéo léo giải quyết tất cả các vấn đề của mình bằng việc trình bày một bài diễn thuyết về chủ nghĩa yêu nước kéo dài 2 tiếng 45 phút. Một người phe đối lập đã mô tả ông như “một cột nhà cao nhất mà cha ông chưa bao giờ trèo lên được”.

Ông cho rằng có thể đạt được hòa bình sau khi North đã lãnh đạo cuộc chiến thật tồi tệ. Ông lên tiếng chỉ trích phe đối lập đã tấn công Bộ mà không quan tâm đến lợi ích quốc gia, chỉ đơn giản nhằm hạ bệ Shelburne. Tính tự tư tự lợi của những người thuộc phe đối lập đã bộc lộ thông qua việc liên kết gượng ép hai nhóm North và Fox, mà nguyên tắc của hai nhóm này hoàn toàn đối lập nhau: “Nếu cuộc hôn nhân có nhiều điềm gở này không được cử hành theo nghi thức, tôi biết chỉ có cách ngăn cản việc đăng ký giá thú, và vì sự an toàn của công chúng, tôi cấm họ thông báo hôn nhân ở nhà thờ”. Ông ca ngợi Shelburne − nạn nhân của các nhóm chống đối – đã đóng một vai trò trung thực và đáng tôn kính trong những hoàn cảnh khó khăn.

Từ việc kiên quyết bảo vệ hòa bình và bảo vệ phẩm chất của Shelburne, Pitt chuyển sang tuyên bố các nguyên tắc cá nhân của mình và của các tổ chức chính trị riêng lẻ. Tên của Chatham được nhắc đến nhiều hơn, ông đã được minh oan:

Tự gắn mình với người thầy thông thái bậc nhất còn hơn cả Shelburne hay bất kỳ một đối thủ nào khác, trước khi kết thúc bài diễn thuyết, một lần nữa Pitt nhấn mạnh:

Những di sản và nguyên tắc của dòng họ Chatham chính là tấm lòng yêu nước: “Tôi khao khát dốc hết sức lực phục vụ cho lợi ích của đất nước; đó là mối quan tâm duy nhất để làm phần việc chính trực và trung thực”; không có gì phải phàn nàn về cách ứng xử hết sức trang trọng này của ông, “một cách ứng xử có một chút gì đó toát lên tham vọng mưu lợi”. Ông tuyên bố ý định ứng cử trong tương lai bằng việc thừa nhận tham vọng của mình, theo đuổi một địa vị cao và có tầm ảnh hưởng bất chấp dư luận nhưng được khéo léo gắn với chủ nghĩa yêu nước. Khi ông rời chức vị, ông sẽ không phải sử dụng đến phe đối lập với những người kế vị ông nhằm cố gắng củng cố quyền lực, nhưng vì họ có ảnh hưởng lớn đến sự thịnh vượng của một cộng đồng rộng lớn, nên ông hứa sẽ kiên trì ủng hộ họ “trong mọi trường hợp mà tôi có thể hỗ trợ họ trung thực và tận tâm”.

Khi kêu gọi mọi người hiểu về sự liêm chính và kiên định trong phẩm chất chính trị, ông hùng hồn tuyên bố:

Đó chính là tinh thần được đúc rút từ lời trích dẫn bằng tiếng Latinh của Horace: “Tôi cầu nguyện vận may đến trong khi nó vẫn đang tồn tại. Nếu vận may vỗ cánh bay đi, tôi không nhận món quà của nó… và sẽ trung thực sống cảnh bần hàn không của hồi môn”.

Rõ ràng câu nói này đã được truyền bá vào “ngóc ngách từng nhà và đi vào quảng đại dân chúng”, vì vậy nó có thể bị gạt bỏ vì bị cho là những lời biện hộ yêu nước mà Viện Bình dân đã nghe quá nhiều từ các chính trị gia thế kỷ XVIII. Tuy nhiên, nó có sức thuyết phục không chỉ ở chủ nghĩa lý tưởng của tuổi trẻ, mà chính từ nhận thức sâu sắc rằng đức tính liêm chính và kiên định là sự bảo đảm chắc chắn duy nhất đối với sự nghiệp chính trị của một người không có cơ may, phải đi tìm con đường riêng như một thành viên Đảng Whig độc lập. Đối với những độc giả của Pitt, “cuộc sống trung thực bần hàn không có của hồi môn” của Pitt rõ ràng là sự thật. Trong thời gian làm việc ở Bộ Tài chính, tiền ông kiếm được chỉ đủ để có được một kỳ nghỉ kéo dài hai tháng ở Pháp vào mùa thu năm 1783, nhưng ông không dự phòng cho khoảng thời gian rời khỏi Bộ Tài chính, mà dự định trở lại kiếm sống bằng nghề luật sư. Bài phát biểu của Pitt không bảo vệ Bộ của Shelburne, nhưng nó đã bảo vệ được bước tiến trong sự nghiệp của Pitt. Thomas Pelham, một người thuộc phe đối lập nghe ông diễn thuyết trong buổi hôm đó, đã ghi nhận: “Thậm chí kẻ thù của anh ta hay những phần tử chống đối đều phải cùng nhất trí rằng đó là bài diễn thuyết hay nhất mà họ đã được nghe trong Nghị viện”.

Những thành công ban đầu của Pitt đã sớm bộc lộ. Hai ngày sau, Shelburne đề cập đến ý tưởng rằng Pitt sẽ kế nhiệm Henry Dundas, người quản lý chính trị sắc sảo của ông ở Scotland, ông này từng hăng hái khẳng định năng lực của Pitt:

Shelburne đã gửi đề nghị lên Vua Anh, người từng gặp Pitt.

Đây là đề nghị đầu tiên trong ba đề nghị về vị trí lãnh đạo cho Pitt mà Vua Anh đã khước từ trước khi chấp nhận đề nghị lần thứ tư vào tháng 12. Việc Vua Anh từ chối thể hiện rõ sự cân nhắc thận trọng trong việc kiểm soát tham vọng của Pitt. Pitt đã đặt ra mục đích phải giành được chức vị cao trong bài diễn thuyết ngày 21/2. Pitt khẳng định với Vua Anh là sẽ chấp nhận nếu có sự công nhận của đại đa số thành viên trong Nghị viện. Đồng sự cũ của cha Pitt, Bá tước Camden, cảnh báo rằng Pitt còn phải phụ thuộc nhiều vào quyết định của Triều đình. Pitt nói với Dundas rằng mình sẽ phó mặc cho North và bạn bè định đoạt, sẽ không tiếp tục phản đối và “với danh dự tình cảm cá nhân tôi, tôi không thể thành lập một chính quyền mà chỉ hy vọng chính quyền đó sẽ được North ủng hộ hoặc thậm chí sẽ không bị North phản đối…”. Ác cảm thường trực của Pitt đối với North trái ngược hẳn với tất cả những khẳng định của Pitt về nguyên tắc “biện pháp chứ không phải con người”, đi ngược lại nguyên tắc đặt lợi ích quốc gia lên trên thù oán cá nhân. Nhưng ông cho rằng North phải có trách nhiệm về sự lạm dụng ảnh hưởng của Vua Anh để mua chuộc Nghị viện, về sự đối đầu với các thuộc địa đã đẩy cha ông tới chỗ chết, người đã bị kiệt quệ trong cuộc chiến, và là nguyên nhân dẫn tới việc bại trận dưới tay nước Mỹ.

Trên thực tế, việc Vua Anh khước từ bổ nhiệm Pitt lại củng cố vị trí của Pitt chứ không hề làm vị trí này yếu đi, bởi nó đã bộc lộ rõ sự thiếu vắng những người thay thế có khả năng bảo vệ Vua Anh không phải đầu hàng lần thứ hai với Charles Fox, người mà ngài có mối hận thù còn sâu sắc hơn cả mối thù của Pitt đối với North. Trong khi các bầy tôi trung thành của Vua Anh như Bá tước Gower có thể đứng về phía North, thì rất cần một người lãnh đạo có khả năng đối mặt với Fox trong Viện Bình dân. Nhưng nhiệt tình của Townshend lại nhanh chóng tiêu tan khi vị này được nhận tước vị Thị trưởng Sydney, Dundas lại không giữ địa vị xã hội được lâu nữa. Những người anh em họ của Pitt trong gia đình Grenville được chú ý, nhưng William Grenville đã nói rằng người anh họ Jame của mình không có sức khỏe, không đủ nghị lực để đảm nhận nhiệm vụ đó, còn bản thân ông “không đủ tài giỏi để chèo lái con tàu trên biển cả đầy giông bão, không dám đương đầu với trận cuồng phong như thế này”. North gần như đã bị đứng riêng rẽ, nhưng cũng không thể phụng sự nếu không có Fox. Gower gợi ý cất nhắc Thomas, người anh họ khác của Pitt, hoặc bất cứ ai khác trong gia đình Thomas, nhưng Thomas Pitt tuyên bố “không đủ tài để đảm đương nhiệm vụ này”, còn những thành viên gia đình Thomas cũng không có gì nổi trội; trong khi liên minh Fox-North luôn gây áp lực bằng việc không đồng ý khoản chi phí hành chính hàng năm của Nghị viện và từ chối thông qua dự luật chống nổi dậy đối với lực lượng vũ trang. Vua Anh buộc phải mở các cuộc đàm phán với Portland – lãnh đạo liên minh North-Fox. Tuy nhiên, ngày 20/3, Portland cho thấy rõ sự bất đồng giữa các bên về việc phân bổ chức vị, George III hối hả quay trở lại tìm Pitt.

Pitt chỉ chấp nhận chính phủ nếu liên minh North Fox bị chia rẽ, bởi như vậy, ông được xem là nhân vật đáng kính vì đã tìm cách bảo vệ đất nước tránh khỏi tình trạng vô chính phủ. Với những hy vọng mong manh này, Vua Anh đã cắt đứt đàm phán với Portland. Tuy nhiên, Pitt đã không chấp nhận cho tới khi ông thấy vị trí của mình trong cuộc thảo luận ngày 24/3. Nhưng nếu ông hy vọng được thấy liên minh North-Fox bị chia rẽ và cần ông đứng ra lãnh đạo thì ông đã thất vọng. Liên minh này đã tập hợp lại để chống lại các lực lượng chống đối và những người không thuộc đảng phái nào phải chịu im lặng. Thiếu sự ủng hộ của họ, Pitt đã cả quyết với Hầu tước Carmarthen: “Portland nên nghĩ rằng trách nhiệm mà ông ta phải thực hiện với Vua Anh mâu thuẫn với nhiệm vụ của ông trước dân chúng, cũng như nó sẽ gây bất lợi cho danh tiếng và quan điểm trong tương lai của ông ta, khi ông ta phải đảm đương nhiệm vụ quá nặng nề là lãnh đạo chính phủ”. Horace Walpole nghĩ là Pitt đã suy xét sáng suốt. Tuy nhiên, điều đáng hãnh diện là ở độ tuổi đó, Pitt đã mong muốn giành được quyền lãnh đạo đất nước, nhưng dù cho Pitt có được đưa lên vị trí lãnh đạo một đảng thì trước sau gì, ông cũng sẽ thất bại do không có được khoản chi phí hành chính của phần đông các lực lượng chống đối. Hành động từ chối lần thứ hai này mang tính quyết định. Shelburne cuối cùng đã phải ra đi vào ngày 26/3 và Pitt cũng từ chức vào ngày 31, sau khi Vua Anh chấp nhận thất bại và đồng ý một chính phủ liên minh.

NHỮNG KẺ ĐỒNG MƯU VỚI THURLOW VÀ TEMPLE

Đối với Shelburne, việc từ chức đã đánh dấu chấm hết cho sự nghiệp chính trị, nhưng Pitt lại nổi lên với uy tín ngày càng được củng cố. Những người ủng hộ Shelburne trước đây đã quay sang ủng hộ Pitt. Dundas giờ đây gia nhập phe với Pitt, trong khi Hầu tước Carmarthen viết cho Pitt: “Tôi rất tự hào vì nhân cách của tôi đã được nhân cách của anh điều chỉnh”. Đó là điều mọi người thừa nhận, như Thomas Pitt đã khẳng định với Vua Anh vào ngày 28/3:

Trước đó một năm, Pitt đã phát huy khả năng khi ngồi ở ghế Viện Bình dân Anh. Ông càng củng cố uy tín của mình khi đẩy nhanh các biện pháp cải tổ hành chính trong toàn Viện Bình dân mà ông và Shelburne đã cùng chuẩn bị (Pitt và Shelburne bị thất bại ở Viện Quý tộc). Ngày 7/5, ông đưa ra đề nghị cải tổ Nghị viện, trong đó đề xuất bổ sung 100 nghị sĩ cho các hạt và thủ đô London để cân bằng lực lượng. Trong lần đề xuất cải tổ này, Pitt đã thất bại thảm hại với tỷ lệ phiếu 149-293, nhưng tên tuổi của ông đã để lại dấu ấn trong lòng dân chúng. Ông đã nêu bật những nét khác biệt so với liên minh giữa Fox và North − người trước đây chống cải cách.

Pitt thể hiện rõ nét mối quan tâm củng cố uy tín của mình khi ông phúc đáp đề nghị xa hơn của George III. Vua Anh đã bị thất bại nặng nề. Ngài từ chối ban tước vị cho Liên minh và nổi cơn thịnh nộ khi họ đề nghị thanh toán tài chính cho đứa con trai chơi bời phóng đãng của ngài, Thái tử xứ Wales, người đã bước sang tuổi trưởng thành (và cũng là bạn của Fox). Vua Anh trút oán hận lên anh họ của Pitt, Temple, người mới trở về từ vị trí Quan đại diện nhà vua ở Ireland, dưới thời Shelburne làm Thủ tướng. Ngày 19/7, Pitt đích thân được tiếp kiến Huân tước Thurlow, cựu Đại pháp quan và là bạn của Vua Anh. Thurlow quan tâm liệu Pitt có thể gia nhập một chính phủ “trên nền tảng hệ thống chính trị cũ của Triều đình”. Pitt trả lời mà “không quan tâm đến cơ hội có thể mở rộng tầm ảnh hưởng”, mặc dù “phương thức” như vậy vẫn thường được các bộ trưởng sử dụng. Pitt nói với Thurlow rằng ông và Temple sẵn sàng hành động bất kỳ khi nào họ có thể lập nên “một hệ thống cố định, phù hợp với những nguyên tắc của họ và lập trường của dân chúng”, rằng ông ủng hộ việc cải tổ Nghị viện. Pitt hy vọng sẽ có một lời đề nghị từ phía Vua Anh khi thời cơ đã chín muồi, nhưng hy vọng sẽ “giải quyết công việc phù hợp và đáng được trân trọng nhất”.

Điều mà Pitt không hề nghi ngờ là làm thế nào mà các vấn đề lại được giải quyết nhanh chóng. Gác lại mưu tính sẽ tiếp quản chính phủ, Pitt đi nghỉ ở Brighton và sau đó du ngoạn ở Pháp trong hai tháng − lần duy nhất ông rời nước Anh. Ông trở về Anh để tham dự cuộc họp Nghị viện ngày 11/11, nhưng ngay cả sau cuộc họp đó, mọi người cũng không thể đoán biết điều gì sẽ xảy ra. Thurlow khuyên người bạn Gower rằng “dân chúng hiện đang thất vọng và rất vô vọng khi nhìn về tương lai”, không nên vội vàng vào Nghị viện. Hai ngày sau, Pitt nhận được lời đề nghị của Fox tham gia Liên minh. Ông lập tức từ chối. Có lẽ mọi người đều muốn biết tại sao ông lại không gia nhập Liên minh. Nguyên nhân chính là ngày 18/11, Fox đã đưa Dự luật Ấn Độ ra trước Viện Bình dân.

Cần phải làm một điều gì đó đối với Ấn Độ, nơi mà Công ty Đông Ấn 7 − một công ty hoạt động trong lĩnh vực tài chính – có sức thu hút người dân còn mạnh hơn cả các công ty của Anh. Đây là vấn đề nhạy cảm vì lĩnh vực bảo trợ lớn đầy tiềm năng đang bị đe dọa và các quyết định lại phải trì hoãn trong suốt cuộc khủng hoảng tranh chấp của Mỹ. Hiện tại, Liên minh phải thử sức thật sự để giải quyết vấn đề này, nhưng cách giải quyết lại là tước quyền quản lý và bảo trợ khỏi tay Công ty Đông Ấn để chuyển sang các đại diện được Nghị viện bổ nhiệm dưới quyền kiểm soát bốn năm của Liên minh, đảm bảo Liên minh có một nguồn bảo trợ lớn trong kỳ bầu cử tiếp theo.

Những trăn trở về chính phủ và hiến pháp liên quan đến vấn đề này luôn thôi thúc Pitt. Ông hối hả kêu gọi những người ủng hộ mình đến Nghị viện càng nhanh càng tốt:

Fox đã cố kiềm chế tính hay gây gổ khi đưa ra đề nghị đẩy nhanh việc thông qua dự luật, tin tưởng truyền thống đến muộn trong các phiên họp vốn không tùy thuộc vào các bộ trưởng của Vua Anh. Ngày 27/11, Pitt cố gắng tìm cách trì hoãn tiến trình thông qua dự luật. Ông đưa ra những khó khăn tài chính và kêu gọi huy động tài chính để kéo dài thời gian sao cho những người phản đối dự luật chậm nhất cũng có thể tới được London. Đó là một mánh khóe nhỏ chứng tỏ Pitt là một người có lập trường vững hơn và thắng phiếu Fox.

Thoạt đầu tưởng như không gì có thể ngăn chặn được việc Viện Bình dân thông qua nhanh Dự luật Ấn Độ. Tuy nhiên, những người phản đối có một đồng minh rất nặng ký ở thành phố London. Công ty Đông Ấn đã thành lập một ủy ban bảo vệ và Pitt thường xuyên tiếp xúc gần gũi với hai người đứng đầu ủy ban này là George Johnstone và Richard Atkinson. Ngày 26/11, cuộc họp Ủy ban Viện Bình dân của thành phố cũng đã biểu quyết chống dự luật bởi nó vừa vi phạm các đặc quyền của công ty kinh doanh xuất phát từ các phường hội cổ của đô thị London, vừa bị lên án là đã làm rớt giá cổ phiếu của Ấn Độ, đe dọa sự ổn định tài chính. Tuy nhiên, thông tin này lại không được truyền bá rộng rãi ra ngoài London, điều đó thể hiện qua việc các nghị sĩ trong cả nước đã phải miễn cưỡng đến Nghị viện trước dịp năm mới. Nghị viện thật sự trở thành nơi diễn ra cuộc chiến lớn. Ngày 25/11, nhiều người phản đối Liên minh cuối cùng cũng tập hợp lại khi những người ủng hộ Vua Anh là Thurlow và Công tước Chandos dùng bữa tối cùng với các đồng minh của Pitt là Công tước Richmond và Bá tước Temple. Pitt đáng ra cũng có mặt ở đó nhưng ông bị giữ lại ở Viện Bình dân. Họ càng được tiếp thêm sức mạnh khi Dundas đến vào ngày 27. Dundas không chỉ có một kế hoạch cải tổ Công ty Đông Ấn mà còn được tiếp xúc với đồng sự cũ John Robinson, một nhà quản lý chính trị của North và là người kiến tạo trong Nghị viện hiện thời, cựu Bộ trưởng Tài chính. Robinson cũng rất lo lắng trước việc Liên minh sẽ buộc Vua Anh phải công nhận dự luật. Sáng sớm ngày 30/11, Dundas rời nhà Robinson để tham dự các cuộc họp cùng ngày ở London. Cũng có thể trong các cuộc họp này, quyết định nhờ Vua Anh can thiệp để chống dự luật đã được đưa ra. Ngày hôm sau, Thurlow đệ trình George III một bản ghi nhớ chung đề cập đến vấn đề này, do chính ông và Temple soạn thảo.

Trong một thời gian rất dài, những người viết tiểu sử về Pitt không thừa nhận rằng chính Pitt cũng biết kế hoạch này, bởi tính đúng đắn của thông tin này chưa được xác minh. Năm 1969, trong tác phẩm The Fox-North Coalition (Liên minh Fox North), John Cannon đã đưa ra những chứng cứ chứng tỏ Pitt là người chủ mưu. Còn Paul Kelly lại phản đối khi tranh luận: “Pitt đã tự đưa ra những quyết định ảnh hưởng đến chức vụ được bổ nhiệm của ông, cho phép ông đẩy những khởi xướng của người khác và các sự kiện khác”. Tuy nhiên, khẳng định này lại không phù hợp. Những sự kiện đầu năm đó rất hiếm khi cho thấy Pitt cho phép mình đi theo những người khác. Pitt thật sự cần thiết để thành lập nên bất kỳ một bộ thay thế nào sau khi Dự luật Ấn Độ không được thông qua. Hồi đầu tháng 3, John Robinson đã thừa nhận rằng “không có Pitt thì không thể làm được điều gì”, đồng thời, do Pitt thẳng thừng từ chối hai đề nghị trực tiếp và tránh né đề nghị thứ ba thông qua Thurlow nên ý kiến của ông khó có thể được đưa ra để công nhận. George III chấp nhận điều này bằng việc cử một người làm trung gian tới kiểm tra cùng với Pitt trước khi đồng ý kế hoạch của Thurlow và Temple. Một điều khó có thể tưởng tượng nổi là hai người đã tiếp kiến Vua Anh mà không cần sự hỗ trợ của Pitt. Với vai trò mấu chốt, Pitt là nhân vật công khai khởi xướng mà không cần phải đề phòng Liên minh. Những người đứng ở cương vị như Pitt cũng là những người trung gian đương nhiên bởi các mối liên hệ của họ: Thurlow với Vua Anh; Dundas với Robinson.

Mặc dù Fox rất khéo léo đưa Dự luật Ấn Độ ra trước Viện Bình dân, nhưng hiện Pitt lại được đặt ở cương vị dàn xếp thành công vấn đề này tốt hơn bất kỳ thời điểm nào trước đây. Pitt đưa ra quyết định là cương quyết phản đối Liên minh. Quyết định này đã nhận được sự ủng hộ bên ngoài khi ngày 3/11, Ủy ban Viện Bình dân của thành phố London chỉ thị cho các nghị sĩ thành phố biểu quyết chống lại Dự luật Ấn Độ. Hai bức tranh biếm họa chua cay của James Sayers ngày 25/11 và ngày 5/12 (trong đó Fox được miêu tả như một “Carlo Khan” − bạo chúa phương Đông) đã gây ra sự căm phẫn đến mức chính Fox phải thừa nhận rằng ông thật sự bị suy sụp. Dự báo chi tiết của Robinson về tình trạng của Viện Bình dân trong khoảng thời gian từ ngày 6 đến ngày 9/12 đã cho thấy khả năng ủng hộ một chính phủ chống Liên minh sẽ có tỷ lệ là 253/305 ở Nghị viện hiện tại và 369/189 sau cuộc bầu cử, Dundas có khả năng sẽ tiến cử số lượng nghị sĩ có triển vọng nhiều hơn những dự đoán của Robinson. Ngày mồng 6, Pitt đã nói với Rutland: “Vua Anh sẽ làm tất cả để hợp tác và phối hợp nếu cuộc khủng hoảng lên tới đỉnh điểm, tôi nghĩ rằng nó sẽ lên tới đỉnh điểm”.

Tuy nhiên, sau thất bại nhục nhã hồi tháng 3, George III muốn biết chắc chắn về sự sẵn sàng hành động của Pitt trước khi ngài đưa ra quyết định. Thay mặt Vua Anh, Bá tước Clarendon đã gặp Pitt vào ngày 9 và ngày 11/12. Giữa hai cuộc gặp này, ngày 10, Pitt đã bàn bạc với Temple, Richmond, Thurlow và Gower về những việc nên làm. Mọi người khuyên Pitt nên sử dụng uy tín của Vua Anh để tập hợp lực lượng chống lại Dự luật Ấn Độ trước Viện Quý tộc, nơi dự luật sẽ được đọc lần đầu tiên vào ngày 9. Sự lựa chọn này sẽ tạo đà cho những thử nghiệm về sức chống đối ban đầu, nhưng thất bại của nó có thể khiến Bộ phải chia rẽ hoặc tự giải tán mà không cần có sự can thiệp sâu của Vua Anh. Hơn thế nữa, lựa chọn này cũng sẽ ngăn cản được vấn đề đã trở thành cuộc chiến hiến pháp trực tiếp giữa Vua Anh và Nghị viện. Nó cũng được coi là rất quan trọng để những kiến nghị của Công ty Đông Ấn và thành phố London phải được giải quyết trước khi biểu quyết nhằm gây ảnh hưởng đối với Viện Quý tộc, để các tập đoàn quan trọng cũng như các cá nhân hiểu và tỏ ý phẫn nộ trước dự luật này, đảm bảo lý do chắc chắn và hợp lý nhằm giải tán Liên minh. Tất cả những điều này là do Vua Anh quyết định. Ngài đã ủy quyền cho Temple nói với các nghị sĩ rằng ai biểu quyết cho Dự luật Ấn Độ sẽ “không những không phải là bạn của Vua Anh mà còn được xem là kẻ thù của ngài”. Các nghị sĩ tiếp nhận lời cảnh báo. Ngày 15/12, họ hoãn phiên họp thông qua dự luật lần thứ hai và ngày 17, họ thống nhất không thông qua dự luật với tỷ lệ phiếu 95/76.

BỘ TRƯỞNG CỦA VUA ANH

Nếu diễn biến các sự kiện diễn ra theo đúng kế hoạch thì đây là cơ hội thuận lợi để bác bỏ Dự luật Ấn Độ. Pitt lao vào cuộc chiến vì sự nghiệp chính trị của mình, giữa lúc cuộc khủng khoảng hiến pháp đang ở giai đoạn trầm trọng nhất. Trong những ngày này, mọi hy vọng về sự chuyển giao quyền lực nhanh chóng và suôn sẻ đã bị tiêu tan khi Liên minh cùng tập hợp chống lại mạnh mẽ.

Pitt từng hy vọng Liên minh sẽ giải tán sau thất bại của Dự luật Ấn Độ, tạo điều kiện thuận lợi để ông có thể thu hút được những thành viên có năng lực của liên minh chống đối cũ chống lại North nhằm duy trì một chính phủ theo đường lối của Đảng Whig tự do. Ông không muốn làm lãnh đạo bù nhìn của Hoàng gia, nơi luôn duy trì chính phủ “trên nền tảng nền chính trị cũ của triều đình”. Đây chắc chắn là động cơ khiến ông đi tìm những nhân vật có thanh thế của Đảng Whig, như Grafton (người mà ông đã tiếp cận thông qua một nhân vật trung gian vào ngày 14/12) và Camden, để nhận vào Bộ mới. Gần một năm sau, ông vẫn tiếp tục tìm những người theo Đảng Whig và bổ nhiệm họ vào Nội các mang hình thái của Đảng Whig, bởi chính sự tham gia của họ sẽ làm nên cục diện đó.

Những hy vọng về khả năng Pitt có thể lợi dụng các sự kiện đã giải thích tại sao không có một sự chuẩn bị nhân sự nào hay không có một kế hoạch nào được vạch ra cho tương lai khi Bộ của Liên minh bị giải tán, lý giải việc Pitt quá lúng túng khi không thể khai thác các sự kiện theo cách của mình. Điều này chính là vì Liên minh đã không bị giải tán. Trong ngày Dự luật Ấn Độ bị bác bỏ ở Viện Quý tộc, Liên minh cũng bảo đảm được tỷ lệ phiếu ủng hộ là 2/1 ở Viện Bình dân cho cuộc vận động đấu tranh chống lại việc sử dụng uy tín của Vua Anh và chống lại những người có ý định sử dụng uy tín này ở Viện Quý tộc. Ngày 18, khi lãnh đạo của Liên minh vẫn chưa từ chức, Vua Anh đã sốt sắng phái sứ giả đến chỗ Portland, Fox và North ngay trong đêm khuya để yêu cầu họ giao nộp lại con dấu. Ngày hôm sau, Pitt được bổ nhiệm làm Thủ tướng Anh, đồng thời Temple được bổ nhiệm làm Ngoại trưởng và Gower là Chủ tịch ủy ban Viện Quý tộc.

Pitt nghĩ rằng sau khi tác giả của Dự luật Ấn Độ bị sa thải, những người kế nhiệm họ phải lựa chọn hoặc từ chức hoặc bỏ trốn khỏi Liên minh. Tuy nhiên, sự việc lại không như mong muốn, bởi chỉ trong vài ngày, 55 bộ trưởng và lãnh đạo các ban ngành lần lượt từ chức để thể hiện sự trung thành với nhà lãnh đạo của họ. Ngày 21, Pitt đề nghị thương lượng lần cuối với Fox thông qua Bá tước Spencer, người bạn cũ cùng học với Pitt tại trường Cambridge nay đang ủng hộ Fox, nhưng Fox đã từ chối. Pitt tuyên bố ông sẵn sàng làm những gì có thể để đảm bảo một cuộc hòa giải, nhưng ông sẽ không ngồi cùng Nội các với North hoặc chấp nhận Dự luật Ấn Độ trong phạm vi đề nghị. Fox đã tham khảo ý kiến một số người bạn, nhưng tuyên bố rằng việc ngồi cùng Nội các với North sẽ không bao giờ xảy ra.

Kelly đã chỉ trích Pitt ngờ nghệch lạc quan khi hy vọng tất cả sẽ diễn ra tốt đẹp, nhưng Pitt có lý do hợp lý cho những hy vọng của ông. Ấn tượng về sự hợp tác trước đây vẫn còn in đậm trong ông, rất nhiều người thuộc phe đối lập của North đều từng có chung quan điểm mong muốn cải tổ hoặc có các mối liên hệ cá nhân, như Spencer hoặc Tom − anh trai của Temple, người có mối quan hệ với cả hai phe. Mọi nỗ lực được cả hai phe thực hiện nhằm khôi phục mối quan hệ hợp tác: Pitt thực hiện vào tháng 2 (và sự trở ngại sau đó − Shelburne bị cách chức) và Fox thực hiện vào tháng 11. Chỉ sau ngày 21/12, sự chia rẽ vĩnh viễn mới thật sự hình thành.

Pitt sẽ gặp nguy hiểm nếu mối bất hòa giữa ông v?