Chương 3 Thủ tướng Pitt
MỘT BỘ TRƯỞNG CÓ THẾ LỰC TRONG NỘI CÁC LIÊN MINH
Năm 1803, trong một tuyên bố được coi như định nghĩa đầu tiên về cương vị Thủ tướng, Pitt khẳng định:
Trong bốn sự kiện của tháng 2/1784, tháng 3/1791, tháng 8/1792 và tháng 3/1803 (thời điểm lời tuyên bố ở trên đưa ra), Pitt đều từ chối những gợi ý ông phụng sự ngang hàng với đối thủ, dưới danh nghĩa một thủ tướng bù nhìn. Năm 1804, Bá tước Richmond viết: “Tôi sợ tham vọng của ông sẽ không bao giờ cho phép ông tham gia ngang hàng và đặt mình ngang hàng với bất kỳ ai. Ông hoặc trở thành Hoàng đế hoặc là vô danh tiểu tốt”. Pitt phải nỗ lực tìm kiếm một vị trí xuất sắc, bởi vị trí đó không dễ dàng được chấp nhận.
Nhiều người coi Bộ trong những năm 1783-1801 là một bộ hợp nhất. Vua Anh đã mời Richmond, Gower, Thurlow và Pitt thành lập nên bộ này. Một đặc phái viên có kinh nghiệm tin rằng Pitt, Thurlow và Shelburne sẽ chi phối những vấn đề trong nước (gồm cả Shelburne vì Pitt từng là học trò của Shelburne và có hai bộ trưởng theo phe Shelburne). Shelburne nhanh chóng bị loại khỏi danh sách những người có ảnh hưởng đến các vấn đề của dân tộc và nhận địa vị tước hầu, còn Pitt lại gặp nhiều khó khăn hơn trong việc khẳng định uy quyền tối cao của mình tại Nội các. Ít nhất trong hai trường hợp gần đây, các đồng sự đã thắng phiếu trong những vấn đề mà ông rất tâm huyết: vấn đề cải tổ Nghị viện vào tháng 3/1784 và những đề xuất về Ireland của ông tháng 7/1785.
Trong khi những đối thủ của Liên minh Fox-North nhận thấy họ không thể thành lập chính phủ nếu thiếu Pitt thì vẫn chưa có một sự xác định rõ ràng phạm vi quyền hạn của ông trước các đồng sự. Trên thực tế, khi Thurlow giữ chức Chủ tịch Viện Quý tộc, Pitt vẫn là một Bộ trưởng có thế lực chứ chưa hẳn là Thủ tướng, bởi Chủ tịch Viện Quý tộc Thurlow được Vua Anh tin tưởng tuyệt đối. Bá tước Richmond cho rằng Vua Anh thiên vị Thurlow “nhiều và có tính quyết định” đến nỗi “không một bộ nào mà bộ trưởng không cùng phe với Thurlow lại có thể chiếm được niềm tin của Vua Anh”, và những người ủng hộ Pitt sợ rằng nếu Thurlow “có thể hành động mà không cần Pitt thì ông ta cũng không ngần ngại gì mà không bán rẻ Pitt”. Ngay cả Grenville, đồng minh của Pitt, cũng phải thừa nhận Thurlow uyên thâm, sắc sảo, có tài chỉ huy và có vốn kiến thức sâu rộng được thể hiện qua tài hùng biện sôi nổi và gây ấn tượng mạnh mẽ. Wraxall và đặc phái viên vùng Sardinian xác nhận ưu thế vượt trội của Thurlow trước Viện Quý tộc. Năm 1789, Vua Anh mong muốn Thurlow và Pitt hòa thuận bởi “cả hai người đều cần thiết đối với ngài, một người cần ở Viện Quý tộc, còn một người ở Viện Bình dân”.
Thurlow cũng có một số thành kiến giống Vua Anh đối với việc cải tổ mà Pitt đưa ra. Giữa Thurlow và Pitt có những điểm đối nghịch nhau: Pitt thận trọng và lạnh lùng trong phần lớn các mối quan hệ cá nhân nhưng sôi nổi, nhiệt tình và kiên trì xúc tiến công việc vốn đã chiếm hết tâm huyết của ông, trong khi đó, Thurlow cởi mở, nhạy cảm khi tiếp xúc với mọi người nhưng lại chậm chạp và khó khăn trong công việc. Pitt và bạn bè của ông đồng ý với North rằng “trong Nội các, Thurlow không phản đối, không đề nghị và không quyết định điều gì”. Thậm chí Vua Anh đã phản ứng trước những lời phàn nàn của Pitt rằng “vị Chủ tịch Nghị viện đó (Thurlow) khá nổi tiếng vì thích trì hoãn”. Thay vì xử sự khoan dung với Thurlow như lời thuyết phục của Vua Anh, Pitt đã bỏ qua Thurlow mỗi khi có thể trong những vấn đề liên quan công việc, khiến vị Chủ tịch Nghị viện phải phàn nàn rằng ông ít được tham khảo ý kiến. Lỗi là ở cả hai người. Nếu Pitt coi thường sự chậm trễ và phớt lờ những quan điểm phản đối cải tổ của Thurlow thì Thurlow lại có thái độ khinh thị cải tổ mà vị Thủ tướng tự cho mình là “liêm chính” dung thứ cho sự lợi dụng chức vụ của các cố vấn riêng, thậm chí còn hợp pháp hóa một số điều về quyền bổ nhiệm và quyết định cấp lương hưu. Sau một thời gian hợp tác, mối quan hệ giữa hai người ngày càng tồi tệ và trở thành thù địch từ năm 1788.
Pitt có thể hy vọng sự ủng hộ hiếm hoi từ những người còn lại trong Nội các để chống lại vị Chủ tịch Viện Quý tộc uy quyền và gây nhiều trở ngại như Thurlow. Bộ trưởng Hải quân Howe thì coi vị trí của mình hoàn toàn là vì công việc và tránh đưa ra các quan điểm chính trị. Khi Howe từ chức vào năm 1788, Grenville khẳng định rằng Bộ của Howe chưa bao giờ liên kết với các bộ khác trong chính quyền “dù ở cấp độ nhỏ nhất”. Bá tước Gower, Chủ tịch Viện Cơ mật, lại là bạn cũ của Thurlow. Các quan chức hành pháp quan trọng của chính phủ, hai ngoại trưởng là Sydney và Carmarthen cũng được Grenville miêu tả là “không đảm đương được nhiệm vụ bình thường nhất ở cương vị của họ”. Mặc dù họ là những kẻ tình nguyện bất đắc dĩ vào tháng 12/1783, nhưng Pitt vẫn cảm thấy phải chịu ơn họ vì họ đã kìm nén những quan điểm bất đồng với Pitt. Sydney cũng có cùng tư tưởng thù địch như Thurlow đối với việc cải tổ Nghị viện và bãi bỏ buôn bán nô lệ, nhưng là cha vợ của anh trai Pitt, Sydney phải thận trọng trong cách cư xử. Pitt đặc biệt thất vọng đối với Bá tước Richmond, một nhà quản lý năng lực và có kinh nghiệm cả về quân sự lẫn ngoại giao. Sau khi Rutland đến Ireland vào tháng 3/1784, Richmond là thành viên duy nhất trong Nội các nhất trí hoàn toàn những quan điểm cải tổ của Pitt. Trong năm năm đầu tiên của Bộ, Pitt thân với Richmond hơn bất kỳ thành viên nào trong Nội các. Ông thường xuyên hỏi ý kiến Richmond. Nhưng thật đáng tiếc, Richmond lại tự bộc lộ mình là người không đáng tin cậy. Grenville cho rằng ý kiến của Richmond “đồng bóng và hão huyền, thường dao động với những ấn tượng nhất thời”, thể hiện bộc trực.
Do vậy, Pitt phải sớm thực hiện mọi nỗ lực để kiến tạo một chính quyền mới có hiệu lực hơn, một chính quyền hy vọng dựa vào những người theo Đảng Whig nhiều hơn nhằm đối phó với sự ảnh hưởng quá mức của Hoàng gia, đồng thời quan tâm chặt chẽ tới tài nguyên đất, một yếu tố rất quan trọng giúp dân chúng chấp nhận một Nội các của thế kỷ XVIII. Pitt đã không thành công khi thuyết phục Richmond thay Sydney làm Bộ trưởng Nội vụ, sau này Richmond chuyển sang làm Bộ trưởng Không bộ cao cấp (vị trí mà Rutland đã xin thôi). Sau đó, Pitt cố lôi kéo Grafton vào Nội các thay vị trí của Sydney, và khi Grafton từ chối Bộ Nội vụ, Pitt đã cố gắng chuyển ông sang Bộ Ngoại giao, nhưng lại thấy Carmarthen không muốn rời chức vị khi mà những sáng kiến về chính sách ngoại giao của ông ta chưa được thực hiện. Thành công duy nhất của Pitt là đưa Chủ tịch Viện Quý tộc dưới thời cha ông, ngài Camden, lên làm Viện trưởng Viện Cơ mật vào cuối năm 1784, Gower chuyển sang làm Bộ trưởng không bộ cao cấp (Camden đã được phong Bá tước, còn Gower được đưa phong làm Hầu tước Stafford năm 1786). Không thể phủ nhận Camden là một người theo Đảng Whig và là người bạn trung thành của gia đình Chatham, nhưng tuổi tác và sức khỏe ốm yếu đã ảnh hưởng đến uy tín của ông cũng như sự ủng hộ mạnh mẽ của ông đối với Pitt.
Do vậy, Pitt đành phải giữ nguyên một Nội các yếu kém và thiếu quyết đoán. Năm 1784, Richmond than vãn: “Nội các luôn thiếu thông tin đáng tin cậy, và… ở một số ban ngành, hành động còn lề mề”. Năm 1785, từ Ireland, Rutland đã viết thư bày tỏ tán thành quan điểm với Richmond: “Tôi đã làm việc trong Nội các của anh một thời gian đủ để quen với sự cãi lộn và cố chấp từ một vài đồng sự của anh” − điều này thường được nói đến sau các cuộc họp Nội các, nơi “có quá nhiều cãi lộn và những điểm bất đồng không có hồi kết về những chuyện lặt vặt, không có vấn đề gì được quyết định trước khi mọi người có mặt ở Nghị viện”. Bản tường trình khá quan trọng về cuộc họp Nội các bàn về chính sách ngoại giao được tổ chức vào tháng 5/1787 cho thấy Pitt còn lâu mới có thể chiếm ưu thế hơn. Trên thực tế, Thurlow và Richmond là những người trình bày chính. Trong những năm đầu tiên này, chính phủ là sự thống nhất của các bộ ngành độc lập.
Giữa những năm 1780, Pitt đã phải vật lộn trong Viện Bình dân một vài lần nhằm bảo vệ phương sách của các bộ trưởng khác về những vấn đề mà ông không thể kiểm soát. Về Dự luật Cảnh sát London năm 1785 của Bộ Nội vụ, một dự luật vốn gây nhiều tranh cãi, “ông tuyên bố không hiểu sâu sắc về vấn đề này, do vậy không thể phán xét là điều khoản được đưa ra sẽ áp dụng tới mức nào”. Chương trình củng cố các căn cứ hải quân của Richmond gây nhiều tranh cãi năm 1786, sự đề bạt trong lực lượng hải quân của Howe năm 1787 là một số trường hợp khiến Pitt khó xử. Những điều này cũng bộc lộ sự thối nát ở các bộ ngành: Bộ Hải quân phản đối chương trình củng cố các căn cứ và Howe cho phép các thành viên của Bộ này cùng người thân của họ bỏ phiếu phản đối dự án của Richmond; để trả đũa, ngay sau đó các thành viên của Bộ Quân nhu bỏ phiếu chống lại sự điều chỉnh trong Bộ Hải quân, đồng thời phản đối việc đề bạt chức vụ của Howe.
Tháng 10/1785, một cựu Bộ trưởng Tài chính than vãn rằng ông có ấn tượng ngày càng mạnh mẽ về việc “Pitt muốn được ủng hộ và trợ giúp, và nhiều vị trí quan trọng của chính phủ không được bổ nhiệm cho những người vì công việc, chu đáo hoặc có khả năng tương xứng với vị trí đó”. Hơn nữa, việc Pitt xử trí thiếu tự tin trước những người nằm ngoài danh sách bạn bè thân thiết đã cản trở cơ hội chiến thắng của ông. Sau này Carmarthen nhớ lại:
Những nỗ lực cải tổ của Pitt càng làm tăng bất đồng trong Nội các. Khi Thurlow và Sydney ngăn chặn Dự luật Cải tổ bầu cử ở các hạt tại Viện Quý tộc năm 1785, Pitt gây áp lực buộc Sydney phải cho phép thông qua dự luật này vào năm sau trong khi Chủ tịch Viện Quý tộc vắng mặt vì bị ốm, việc làm này đã khiêu khích sự bất bình cũng như tức giận trong một số người. Năm 1786, Pitt tham gia phe đối lập để lên án Warren Hastings, cựu Thống đốc bang Ấn Độ, một người chuyên quyền nhưng có năng lực, từng ủng hộ Thurlow (và cả Vua Anh). Năm 1788, khi Thurlow và Sydney cản trở dự luật của Dolben nhằm cải thiện các điều kiện của việc buôn bán nô lệ, Pitt đã rút ngắn chuyến thăm Cambridge và vội vã trở về London, ông xác định nếu bị Viện Quý tộc phản đối, từ Viện Bình dân, một lần nữa ông sẽ gửi dự luật này lên Viện Quý tộc. Ông nói với Grenville: “Nếu vẫn thất bại, những người phản đối dự luật và tôi sẽ không thể tiếp tục cùng là thành viên của một chính phủ, và tôi có ý định tuyên bố rõ ràng tại Nội các trước khi cuộc họp Nội các bắt đầu vào ngày mai”. Các đồng sự của Pitt lại một lần nữa từ chối bản dự thảo luật, nhưng họ bực tức thoái lui khi Pitt tiếp tục gửi từ Viện Bình dân bản dự thảo đã được chỉnh sửa.
THOÁT KHỎI SỰ KIỀM CHẾ CỦA NỘI CÁC
Để giải quyết những vấn đề cơ bản trong Nội các, Pitt đã hướng sang một nhóm nhỏ gồm người thân và các chuyên gia để tham khảo ý kiến và xin tư vấn. Khả năng của những người này, thông tin và điều kiện xúc tiến công việc mà họ cung cấp cho Pitt chắc chắn sẽ củng cố vị trí của ông. Tuy nhiên, nó cũng làm tăng thêm những khó khăn trong Nội các, bởi các bộ trưởng phẫn nộ và cảm thấy họ nằm ngoài “vòng bí mật”, và bởi Pitt và những cố vấn của ông bắt đầu can thiệp vào lĩnh vực mà họ đảm trách.
Thành viên đầu tiên của vòng nội bộ này là Henry Dundas. Những kỹ năng chính trị của Dundas trong Viện Bình dân rất cần thiết đối với Pitt, người mà Dundas luôn ủng hộ trong các cuộc thảo luận. Trong suốt các phiên họp Nghị viện, Dundas là người duy nhất hàng ngày có thể gặp Pitt. Dundas đã nhanh chóng chiếm được niềm tin của Pitt bằng chính khả năng và kinh nghiệm làm việc của mình. Một người bạn Scotland, ngài John Sinclair, đã viết về Dundas như sau: “Tôi chưa bao giờ gặp một người nào có thể thực hiện một khối lượng công việc lớn trong một thời gian ngắn hoặc sự phán xét của người đó lại có tính quyết định trong những trường hợp đặc biệt khẩn cấp như Dundas”. Thậm chí người bạn khó tính của Pitt, Wilberforce, cũng phải thừa nhận Dundas là “một con người tuyệt vời của công việc… Sự cần cù của anh ta làm tôi cảm thấy xấu hổ!”
Mối quan tâm đặc biệt của Dundas về Ấn Độ đã sớm giúp ông có tầm ảnh hưởng lớn đối với Ban Kiểm soát Ấn Độ mới, mà nhà lãnh đạo trên danh nghĩa của ban này muốn trao lại quyền quản lý cho Dundas. Dundas không chỉ giúp ích cho Pitt trong việc giải quyết các vấn đề ở Viện Bình dân, các vấn đề về Scotland và Ấn Độ, mà nếu có một việc không mấy hay ho buộc phải làm, Dundas cũng không nề hà. Ông là “dấu ấn” chính trị của Pitt. Pitt dường như bị những khả năng tiềm tàng của con người tham công tiếc việc và hiểu biết rộng rãi này cuốn hút. Cả Pitt và Dundas đều nghiện rượu, cùng yêu thích vùng thôn quê và họ thường tận hưởng thú vui này ở biệt thự Wimbledon của Dundas. Chẳng bao lâu, các bộ trưởng đều thể hiện sự ghen ghét đối với sức ảnh hưởng của Dundas. Tháng 11/1784, trong chuyến thăm London, Bộ trưởng Ireland phát hiện ra “những dấu vết của lòng ghen tỵ liên quan tới Dundas, người luôn bị cho là đã chiếm cảm tình của Bộ trưởng Pitt và tùy ý chỉ đạo ông”. Thậm chí năm 1789, một người trung thành như Camden cũng phàn nàn là Pitt đã bị ảnh hưởng quá mức từ Dundas. Bá tước Bute, Bộ trưởng Scotland, cũng nhận định rằng việc nâng cao phẩm giá của Dundas là một vấn đề nhạy cảm, đặc biệt khi ông đã lợi dụng tầm ảnh hưởng của mình để thăng chức cho một người bạn người Scotland, và một số người cảm thấy Dundas không đủ địa vị xã hội để đứng vào hàng ngũ Nội các. Mối liên kết thân mật giữa Dundas và Pitt càng thể hiện rõ nét khi Pitt bổ nhiệm Dundas làm Bộ trưởng Nội vụ tháng 6/1791. Đấu tranh để Dundas phụ trách chỉ đạo cuộc chiến tranh năm 1794, Pitt nhấn mạnh: “Đó là nhờ khả năng giải quyết công việc trôi chảy của Dundas, và tất cả mọi hành động của Dundas đều hợp ý tôi”.
Charles Jenkinson là “con người của công việc” thứ hai của Pitt, một người mà đáng ra Pitt phải tránh, bởi Jenkinson có tiếng là một cận thần tinh quái của Vua Anh, người đã phục vụ hầu như trong tất cả các bộ kể từ năm 1762. Tuy nhiên, vị Thủ tướng trẻ Pitt sớm nhận thấy mình cần sự tinh thông của Jenkinson trong vấn đề thương mại và tài chính. Được bổ nhiệm vào Ủy ban Thương mại năm 1784, Jenkinson đã gây được ảnh hưởng lớn và có những đóng góp quan trọng đối với các đề xuất thương mại ở Ireland của Pitt cũng như những đàm phán thương mại với Pháp và một số nước khác. Tháng 7/1786, Jenkinson tự cho mình là người “chiếm được phần lớn niềm tin của Pitt, bởi ngài Pitt mang tất cả các vấn đề có thể tới Hội đồng Ủy ban và họp mỗi tuần hai lần dưới sự chủ trì của tôi”. Pitt đã bổ nhiệm Jenkinson làm Chủ tịch Ủy ban Thương mại năm 1786, phong cho ông là Huân tước Hawkesbury và địa vị ngồi mát ăn bát vàng là Đại pháp quan, Công tước xứ Lancaster. Pitt đã giải thích với mẹ: “Con nghĩ điều này có vẻ có gì đấy không bình thường trong thời điểm hiện nay và liên quan tới quan điểm của những người đi trước, nhưng anh ta đã đạt được tước vị đó chính đáng và giành được nó trong quyền kiểm soát của con”. Tuy nhiên, giữa họ chỉ có mối quan hệ công việc, bởi Hawkesbury − một kẻ quan liêu đến lạnh lùng, không bao giờ trở thành người nằm trong nhóm thành viên thân mật của Pitt.
Mặc dù ông ta không còn hoạt động như một cố vấn và một người cung cấp tin tức cho Vua Anh, Pitt vẫn hết sức cảnh giác. Năm 1789, Hawkesbury phàn nàn: “Ngài Pitt vẫn tiếp tục đắc thắng và không chia sẻ với Công tước Leeds (Carmarthen) hoặc tôi hay bất cứ ai có quan hệ với tôi”. Mãi đến năm 1791, Pitt mới để Hawkesbury ngồi vào ghế Nội các, phong cho ông chức Bá tước Liverpool năm 1796, nhưng Pitt vẫn rất thận trọng, ông bổ nhiệm những người thân với mình (Grenville, sau đó là Ryder) làm Phó Chủ tịch Ủy ban Thương mại. Do vậy, thế lực của Liverpool gần như chỉ về thương mại, và những người nhiệt tình theo chính sách để mặc tư nhân kinh doanh như Grenville cũng thấy Liverpool như một cánh tay kiềm chế Thủ tướng. Ông chịu trách nhiệm đối với việc soạn lại Dự luật Hàng hải vào năm 1786, tăng cường bảo vệ cho các tàu thuyền của Anh, trong khi đó, trong suốt cuộc khủng hoảng lương thực năm 1800, Grenville phản đối ý kiến của Pitt về kiểm soát thị trường: “Sự thật là chúng ta đã hình thành những quan điểm khác nhau về cùng một vấn đề, tôi không tin nhiều vào tính đúng đắn của lý thuyết kinh tế chính trị của Adam Smith như anh cho đến khi Huân tước Liverpool quyến rũ được anh khỏi tay chúng tôi để vào mê cung của hệ thống cũ”.
Cuối năm 1783, Robinson đã mô tả những người tùy tùng của Pitt là “những cậu bé, những nhà lý thuyết và những người thành kiến”. Điều này cho thấy sự yếu kém của Pitt trên con đường tiến tới quyền lực. Kinh nghiệm trong công việc chưa nhiều, Pitt lại thiếu những cố vấn riêng có kinh nghiệm đáng tin cậy dẫn dắt và ủng hộ. Người anh họ Temple và anh rể Mahon của Pitt đã sớm bộc lộ sự không kiên định và thất thường, do vậy, ông buộc phải chuyển hướng sang những người như Dundas và Jenkinson đến từ Bộ của North cho tới khi những thành viên thân cận của Pitt có đủ kinh nghiệm và chứng minh được năng lực làm việc của họ. Người đầu tiên làm được điều đó, đạt được tầm ảnh hưởng mà chỉ Dundas mới sánh được, chính là anh trai của Temple, William Grenville. Mối quan hệ họ hàng đã giúp Grenville gia nhập đội ngũ những người nắm quyền năm 1784, nhưng ông chỉ được bổ nhiệm đến làm ở Ban Kiểm soát Ấn Độ và Ủy ban Thương mại. Pitt sớm nhận thấy giá trị của Grenville và giới thiệu ông với Rutland để làm Bộ trưởng ở Ireland năm 1785, bởi “xét về tính cách và khuynh hướng thì Grenville có những điểm trái ngược với em trai mình, sự nhạy cảm và những thói quen trong công việc của ông ta rất phù hợp với vị trí đó”. Tuy nhiên, Pitt nhanh chóng nhận thấy ông có thể dùng những khả năng của người anh họ, bổ nhiệm Grenville làm Chủ tịch Ủy ban Viện Bình dân phụ trách việc kiểm tra tài chính công để chuẩn bị cho Quỹ chìm và làm việc bên cạnh ông để chỉ đạo các cuộc đàm phán thương mại với Pháp những năm 1785-1786.
Về sau, khi có công việc khó khăn cần phải thực hiện, Pitt hoàn toàn trông cậy vào Grenville. Pitt đã cử Grenville tới Hà Lan và Pháp với tư cách là đặc phái viên riêng của mình trong suốt cuộc khủng hoảng Hà Lan năm 1787, bổ nhiệm ông làm phát ngôn viên của Viện Bình dân khi người giữ chức vụ này bị chết trong thời gian Khủng hoảng chế độ nhiếp chính, cử ông lãnh đạo các nghị sĩ để chế ngự Thurlow năm 1790. Sự chuyên tâm của Grenville với công việc, sự thấu hiểu từng chi tiết và tính quyết đoán của ông là tài sản lớn đối với Pitt, mặc dù ngài Thủ tướng cũng nhận thấy đó là con dao hai lưỡi. Cũng giống như Pitt, Grenville say mê đọc các tác phẩm kinh điển, yêu phong cảnh miền quê và thích đọc thuyết kinh tế hiện đại (họ cùng đọc Adam Smith và được Dundas giới thiệu với nhiều người uy tín trong cộng đồng người Hinđu). Dundas và Grenville trở thành những người bạn và đồng sự thân cận nhất của Pitt. Mặc dù có những điểm khác nhau về vấn đề cải tổ Nghị viện và về Hastings, Grenville vẫn có cùng ác cảm sâu sắc như Pitt đối với việc buôn bán nô lệ. Nỗi kinh sợ của Buckingham về chi phí tái bầu cử ở các tỉnh của Pitt và mong muốn trấn an nhẹ nhàng Sydney của Pitt đã ngăn cản ông bổ nhiệm Grenville làm Bộ trưởng Nội vụ trước tháng 6/1789. Khi Grenville chuyển sang Bộ Ngoại giao năm 1791, một vị Thứ trưởng đã mô tả hai người như “hai người bạn… đến nỗi mối quan hệ của họ không thể tách rời được, giữa họ được gắn kết bởi tình cảm”, còn nhà ngoại giao Auckland ghi nhận “những gì được viết về Pitt cũng là những gì có thể viết về Grenville”.
Tiếp tục duy trì mối quan hệ liên minh bên ngoài Nội các mãi đến cuối những năm 1780, Dundas và Grenville trên thực tế là “những kẻ đâm thuê chém mướn” cho Pitt. Pitt đã mở rộng ảnh hưởng của mình sang các lĩnh vực quản lý ngoài Bộ Tài chính. Quyền bổ nhiệm ở Scotland và Ấn Độ cũng được chuyển từ Sydney sang Dundas. Việc kiểm soát của Bộ trưởng Nội vụ cũng bị Pitt qua mặt khi ông trao đổi thư từ trực tiếp với Quan đại diện nhà vua ở quận và là bạn của Pitt, ngài Rutland. Sau khi Rutland chết năm 1787, Grenville lại tiếp tục trao đổi thư từ với người kế nhiệm Rutland, ngài Buckingham. Năm 1786, Orde nhận thấy Sydney “ít được hỏi ý kiến và ít được coi trọng trong Bộ của ông ta, và tôi có lý do để tin tưởng Sydney rất căm phẫn vì sự qua mặt này”.
Trong năm đó, cả Sydney và Carmarthen đều chờ xin thôi việc do cách đối xử lỗ mãng của Pitt, nhưng Bộ trưởng đầu tiên trong Nội các từ chức lại là Howe − sau khi Pitt thiết lập mối quan hệ hợp tác thân mật với Trưởng ban quản lý lực lượng Hải quân, Charles Middleton. Pitt ép Howe để Middleton thay vào vị trí của Howe, khác với tiền lệ, Middleton được bổ nhiệm làm đô đốc năm 1787. Howe giận sôi lên vì bị mất mặt trong lực lượng hải quân suốt gần một năm trước khi ra đi vào tháng 7/1788. Ngay sau đó, Pitt giành được cơ hội mở rộng quyền kiểm soát chính quyền bằng cách tiến cử anh trai mình là Bá tước Chatham với Vua Anh. Wilberforce đã nói: “Tôi cảm thấy sự sắp xếp này có thể gây ác cảm đối với một số người, nhưng tôi rất hài lòng vì những phản đối đó không đáng gì so với cái lợi là thiết lập được một sự phối hợp hoàn hảo với một bộ quan trọng và loại bỏ được sự hiện hữu của lợi ích cá nhân”.
Pitt mở rộng hơn nữa tầm ảnh hưởng của mình trong Nội các, khi một năm sau đó Grenville thay Sydney và hai năm sau, Dundas được bổ sung vào Nội các. Sự nắm giữ quyền lực này đã khiến các bộ trưởng nằm ngoài vòng thân mật của Pitt phẫn nộ. Richmond giận dữ khi việc trao cấp bậc quý tộc và quyền lãnh đạo Viện Quý tộc cho Grenville tháng 7/1790 lại không tham khảo ý kiến của ông, đồng thời cảnh báo: “Nước Anh sẽ không thỏa mãn đứng nhìn ngài (Pitt) để hai người anh của mình lãnh đạo lưỡng viện cũng như cách ngài điều hành đất nước”. Thật vô lý khi “những đồng sự của ngài trong Nội các không bao giờ biết trước việc gì cho tới khi nó đã được thực hiện xong, những việc mà trước đây những người có mối quan hệ chính trị cũng như bạn bè thường chú ý quan tâm thông báo trước với tôi”. Richmond còn lên án Pitt: “Khuynh hướng của ngài không mang lại hiệu quả gì, ngài quá thờ ơ trong việc nuôi dưỡng tình bạn với những người có gắn bó mật thiết với ngài nhất, khiến ngài bộc lộ những phán xét của mình theo quan điểm của một phạm vi hẹp những người mà ngài cho là thân thiết với mình”.
Từ đó, Richmond ngày càng vắng mặt nhiều hơn trong các cuộc họp Nội các. Thurlow càu nhàu rằng mong muốn có được niềm tin giữa các thành viên có cùng cách quản lý “không chỉ gây khó chịu cho nhiều cá nhân mà còn tổn hại đến lợi ích chung của chính phủ”. Tương tự như vậy, Carmarthen (từ năm 1789 là Công tước Leeds) cảm thấy trong thời gian đó, Pitt đã không thật sự tin ông, bởi Pitt ngày càng can thiệp sâu vào công việc của ông. Và khi Pitt rút tối hậu thư mà ông gửi cho Nga, Leeds đã từ chức vào tháng 4/1791.
GIỮ VỮNG ĐƯỢC CHỨC THỦ TƯỚNG: PITT ĐỐI MẶT VỚI THURLOW
Giữa những năm 1788-1791, Pitt đã rất cố gắng để giành được quyền kiểm soát Nội các, nhưng chừng nào Thurlow còn đương chức thì những nỗ lực của Pitt vẫn chưa mang lại hiệu quả. Được Vua Anh và những luật sư giỏi nhất lúc bấy giờ, đặc biệt là Lloyd Kenyon (Chánh án Tòa thượng thẩm, năm 1784) và John Scott (cố vấn pháp luật của chính phủ, năm 1788) hậu thuẫn, Pitt được đánh giá là người hoàn hảo. Thật ra vấn đề khó khăn lớn đối với Pitt là không có ai thay thế Thurlow, trừ một luật sư nổi tiếng của phe đối lập là Loughborough. Ưu thế của Thurlow ở Viện Quý tộc, với quan điểm pháp luật quan trọng về các dự luật và các hiệp ước quốc tế, cũng như nhu cầu cần phê chuẩn trong các vấn đề bổ nhiệm đã đem lại cho Thurlow nhiều cơ hội cản trở Pitt. Mãi đến năm 1792, vấn đề lớn nhất của Pitt ở trong nước không phải là việc Vua Anh đang nỗ lực áp dụng những chính sách của ngài như lúc đầu Pitt lo sợ, mà là Thurlow vẫn đương chức trong Bộ, Vua Anh đã hạn chế được khả năng của Pitt để thực hiện những chính sách của ngài.
Từ năm 1788, Thurlow và Pitt bắt đầu khẩu chiến. Mối bất hòa bắt nguồn từ những khiêu khích có thể nhận thấy ở cả hai phía. Pitt tức giận bởi Thurlow đã lãnh đạo phe chống đối trong Viện Quý tộc chống lại Dự luật Cấm buôn bán nô lệ của Dolben. Thurlow lại giận sôi lên vì Pitt đã có hai quyết định bổ nhiệm đơn phương xâm phạm tới quyền hạn của mình. Khi Kenyon trở thành người cầm đầu Pháp viện Anh, Pitt đã giành được cơ hội bổ nhiệm bạn mình là Pepper Arden làm Chánh án Tòa thượng thẩm. Trước đó, Thurlow đã không bằng lòng về việc thăng chức cho Arden và bây giờ lại trì hoãn sự bổ nhiệm này. Pitt đã lường trước điều này, ông hùng hổ nói với Arden: “Tôi có thể sẽ bất đồng với ông ta về vấn đề này và về tất cả các vấn đề khác nữa”. Pitt buộc phải thể hiện quan điểm của mình trong một cuộc phỏng vấn mà “mặc dù không được hoàn toàn như ý” nhưng ít nhất nó cũng đã gỡ bỏ được những rào cản. Tuy nhiên, cú đau thật sự của Thurlow trong cuộc chạy đua này lại là Pitt đã tiến cử thành công Bộ trưởng Tài chính, George Rose, vào vị trí Thư ký Viện Quý tộc. Rose muốn bổ sung vào bộ sưu tập các chức vị của mình và cũng muốn có được quyền thừa kế hợp pháp cho con trai. Thurlow nghĩ rằng vị trí đó phải là một người năng động, và mặc dù không ngăn cản được Pitt bổ nhiệm cho người phụ tá Rose ở Bộ Tài chính, Thurlow vẫn không thông qua quyền thừa kế cho ông này.
Kết quả của mối bất hòa này đã sớm được thể hiện qua cách quản lý độc lập của Thurlow trong suốt thời kỳ Khủng hoảng chế độ nhiếp chính. Vị trí Chủ tịch Viện Quý tộc cho phép ông ta trực tiếp gặp gỡ với Thái tử Wales, và có thể, ông ta cũng gây ảnh hưởng đáng kể đằng sau những đòi hỏi của Thái tử đối với chế độ nhiếp chính đang nắm quyền nhằm củng cố vị trí. Pitt hiểu rằng Thurlow đang bắt tay với phe đối lập và theo Wilberforce, ngay thời điểm mà Thurlow phát biểu trước Viện Quý tộc, Pitt cũng không biết là ông nên ủng hộ hay phản đối. Tuy nhiên, phe đối lập lại chọn lựa người của họ là Chủ tịch Viện Quý tộc và lời tuyên bố nổi tiếng của Thurlow: “Tôi mà quên Vua Anh thì Thượng đế sẽ quên tôi” đã bảo vệ được cả dự luật của Pitt và củng cố uy tín của Thurlow trước công chúng.
Khi Vua Anh phục hồi sức khỏe, ngài thể hiện mong muốn Pitt và Thurlow có một mối quan hệ hòa hợp, nhưng một cuộc xung đột mới lại bùng nổ vào năm 1789 khi Pitt sa thải Francis Hargrave, luật sư của Bộ Tài chính và cũng là bạn của Thurlow, do cuốn sách mà ông này viết không thừa nhận các điều khoản trong Dự luật Nhiếp chính. Thurlow trả đũa bằng cách nghi ngờ tính hợp lệ của khoản tiền trợ cấp mà Pitt dự định ban cho Auckland. Lại một lần nữa, Vua Anh phải đứng ra hòa giải. Ngài cử Kenyon, người mà cả Pitt và Thurlow đều tin tưởng, giải quyết vấn đề liên quan đến tiền trợ cấp (Kenyon đã khẳng định ý kiến của Thurlow đúng). Xung đột giữa hai người tạm thời được giải quyết, mặc dù theo Camden, nó chỉ là một sự ngừng bắn không thành thật, chứ chưa phải là hòa bình bởi cả hai người đều nghi ngờ lẫn nhau. Điều đó được chứng minh khi Thurlow cản trở việc thông qua Dự luật Thuế thuốc lá do Pitt đưa ra trước Viện Quý tộc. Nhiều người cho rằng Chủ tịch Viện Quý tộc thường xuyên mời các vị thẩm phán đến dùng bữa tối để thuyết phục họ đứng về phía mình, và tháng 10-11/1790, sự thù địch giữa hai người lại tiếp tục khi Dundas thắng Thurlow trong vấn đề bổ nhiệm ở Scotland. Thurlow dọa sẽ đình chỉ tất cả các mối quan hệ hợp tác trong Viện Quý tộc. Vua Anh kêu gọi hai người bớt căng thẳng, Dundas đến gặp Thurlow để xóa tan bầu không khí đó nhưng ông này vẫn cảnh báo chừng nào vấn đề của Rose còn thì không thể có sự thân mật giữa Thurlow và Pitt.
Được tiếp thêm sức mạnh nhờ kết quả của cuộc tổng tuyển cử và thắng lợi trong chính sách ngoại giao với Tây Ban Nha năm 1790, Pitt ép các vấn đề phải đi đến hồi kết. Grenville được cử đến đảm nhiệm cương vị lãnh đạo Viện Quý tộc để đối phó với những ảnh hưởng chi phối của Thurlow. Công tước Grafton một lần nữa được mời tham gia Nội các để củng cố thêm lực lượng của những người theo Đảng Whig. Pitt nghiên cứu phát triển các mối quan hệ với phe đối lập, bảo vệ quyền của Viện Bình dân nhằm tiếp tục bôi nhọ Hastings, làm dịu phát ngôn viên của họ là Burke. Tháng 3/1791, Grenville thăm dò ý kiến Tom, anh trai của Fox, về khả năng những người theo Đảng Whig tham gia chính phủ với ba vị trí trong Nội các (những vị trí đó sẽ là Leeds, Stafford và Camden). Ý định này gần như là chắc chắn bảo toàn vị trí mạnh nhất có thể, từ đó đi đến cuộc quyết đấu cuối cùng để hòa giải với Chủ tịch Viện Quý tộc Thurlow. Tuy nhiên, ý định táo bạo này bị thất bại do phe đối lập một mực đòi Pitt phải từ bỏ cương vị lãnh đạo Bộ Tài chính; hơn thế nữa, họ phản đối kịch liệt vấn đề Vũ khí Nga do Pitt khởi xướng mà Grafton cũng tham gia và lần này, phe đối lập tìm thấy cơ hội có thể lật đổ Bộ.
Do vậy, việc cải tổ nhân sự trong Nội các hiện thời bị hạn chế hơn. Pitt củng cố vị trí bằng cách đưa thêm hai cố vấn của mình là Dundas và Hawkesbury vào Nội các (sau này họ cũng trở thành những người thân cận với Thurlow). Lúc đó, Thurlow tin rằng Pitt có ý định đẩy mình ra nếu tìm được người kế nhiệm và lại tiếp tục phàn nàn không được tham khảo ý kiến, đồng thời cáo buộc Pitt triệu tập các cuộc họp Nội các trong những thời điểm mà Tòa đại pháp đang họp. Thurlow cũng chỉ mới biết Grenville được chuyển sang làm Ngoại trưởng thông qua thư phúc đáp của các đặc phái viên ngoại giao đối với thông tư của chính phủ. Những nỗ lực hòa giải của Grenville gặp phải thất bại thảm hại khi Thurlow phát hiện giấy kết hôn của Công tước York với Công chúa nước Phổ được cấp mà không tham khảo ý kiến ông (tất cả mọi người đều nghĩ Vua Anh đã thông báo điều này cho Thurlow biết). Ở Viện Quý tộc, Thurlow cản trở những dự luật do Pitt đưa ra nhằm giảm bớt những hạn chế đối với Công giáo Anh và để Ban bồi thẩm, chứ không phải các quan tòa, quyết định các vấn đề mang tính phỉ báng, lăng mạ Grenville vì đã đưa ra “những lý do ngu xuẩn nhất để tiếp tục những dự luật ngớ ngẩn nhất”. Đến cuối năm 1791, Grenville từ bỏ hy vọng kiềm chế Thurlow và để sự việc diễn ra tự nhiên.
Tuy nhiên, Pitt và anh họ của mình không đứng ở vị trí có thể chiếm được sự thiên vị thật sự của Vua Anh. Dự luật Vũ khí Nga thất bại khiến Pitt do dự khi đưa ra những vấn đề tế nhị và Grenville bị chỉ trích là đã nhận một địa vị ngồi mát ăn bát vàng ở thời điểm đó (Thurlow cũng không thừa nhận tính hợp lệ của việc Pitt ban địa vị đó cho Grenville để đảm bảo cuộc sống). Pitt vẫn không có sự thay thế thỏa mãn cho chức Chủ tịch Viện Quý tộc. Do vậy, Pitt ra sức tranh thủ sự ủng hộ của một bộ phận những người thuộc phe đối lập, trong đó có Loughborough − một người có ảnh hưởng lớn – khi ông bất đồng với Fox về cuộc Cách mạng Pháp và những yêu cầu về cải tổ trong nước ngày càng gia tăng. Pitt từ chối việc hủy bỏ bằng chứng về các cuộc tiếp xúc của phe đối lập với Hoàng hậu Nga khi cuộc thảo luận về khủng hoảng ở Nga được nối lại vào tháng 4/1792. Ngày 1/5, Pitt ủy nhiệm Auckland mời đồng sự cũ là Loughborough cùng phối hợp hành động để giải quyết những bất ổn trong nước. Thurlow đã đoán trước được ý đồ này vào tháng 5. Cản trở thành công Dự luật Bãi bỏ buôn bán nô lệ mà Pitt đã trình bày trong một bài diễn văn ấn tượng trước Viện Quý tộc, Thurlow lại tấn công các điều khoản trong Quỹ chìm của Dự luật Nợ quốc gia mà Pitt rất tâm đắc và vận động đủ số người ủng hộ để bỏ phiếu bất tín nhiệm Pitt. Nhưng lần này, Thurlow đã đi quá xa. Ông ta đã tấn công trực tiếp vào cách giải quyết trong Bộ của Pitt. Bây giờ Pitt đã có đủ lý lẽ buộc Vua Anh phải chấp nhận vấn đề và phớt lờ lời đề nghị khẩn thiết của Hoàng gia mong muốn Pitt và Thurlow hòa hợp. Pitt một mực khẳng định hoặc ông hoặc Thurlow phải ra đi. Bị dồn vào thế bí, Vua Anh rất tuyệt vọng, nhưng cuối cùng cũng phải nhượng bộ. Điều này khiến “ngài phải ớn lạnh”, tuy nhiên “chính sự sắc sảo của Thurlow giúp ông ta nhận thức rằng dù ta có ủng hộ ông ta mạnh mẽ đến đâu đi nữa thì ta cũng không thể cách chức Pitt”. Thurlow ngạc nhiên vì Vua Anh để mình ra đi dễ dàng đến thế, nhưng ông ta vẫn nói thêm: “Cũng như bất kỳ người nào khác, Pitt đã hành động đối với tôi giống như những gì mà đáng ra tôi phải làm đối với ông ta nếu tôi có thể”.
Rutland, bạn của Pitt, từng cảnh báo chỉ có ba điều có thể hạ bệ được Pitt, đó là: cái chết của Vua Anh, cuộc chiến tranh thất bại hoặc mối bất hòa với Thurlow. Pitt đã hành động rất nhanh để ngăn ngừa hậu quả tai hại này. Ông xem xét những người quan trọng theo phe của Thurlow như Kenyon và Scott để biện minh cho mục đích cuối cùng của mình. Thurlow được Vua Anh làm nguôi lòng bằng việc trao quyền thừa kế tước vị quý tộc cho các cháu nội. Ông ta hào hiệp khuyên những người bạn của mình kiên định giữ vững vị trí cho đến khi chức Chủ tịch Viện Quý tộc có ứng cử viên. Điều này vẫn là điểm yếu nhất của Pitt và là điểm mạnh nhất của Thurlow. Dundas hối thúc bạn mình là Scott và đồng sự cũ là Loughborough đoàn kết hiệp đồng, đề nghị bốn vị trí trong Nội các (Chủ tịch Viện Quý tộc, Bộ trưởng Nội vụ, Chủ tịch Viện Cơ mật, Bộ trưởng Không bộ cao cấp), hai hoặc ba ủy viên hội đồng cơ mật và quan đại diện nhà vua ở Ireland, và cuối cùng cũng can thiệp vào quyền đối với Ấn Độ.
Tuy nhiên, Fox vẫn có thể đưa ra mối nghi ngờ của phe đối lập rằng Pitt sẽ không bao giờ chấp nhận ông ta trong Nội các ở vị trí ngang hàng cần thiết để thỏa mãn danh dự và niềm tự hào của lực lượng chống đối. Thậm chí, ông ta còn đưa ra phương án thành lập một chính quyền mới thay thế mà ở đó Pitt có thể bị loại ra khỏi hàng ngũ lãnh đạo. Trên thực tế, vì quá lo lắng đến việc đạt được mục đích của mình, Pitt đã vượt quá xa sự cho phép của Vua Anh. Khi Pitt và Dundas gặp Loughborough vào giữa tháng 6/1792, Pitt phải thừa nhận đường lối của ông không theo lệnh của Vua Anh, mặc dù ông phải bảo đảm được cả Vua Anh và Hoàng hậu tán thành. Khi buộc phải chấp nhận cả Fox, Pitt thú nhận ông từng nghĩ sự chia rẽ trong phe đối lập sẽ không còn nữa. Ông không đưa ra một sự phản đối nào, nhưng sợ rằng việc Vua Anh có thái độ thù địch với đường lối chỉ đạo ủng hộ Pháp của Fox sẽ ngăn cản ông nhanh chóng đạt được vị trí trong Bộ Ngoại giao. Đáng ra Pitt phải hiểu rằng vị trí đó còn quá xa vời. Khi Pitt và Fox gặp lại nhau, Pitt tự bào chữa bằng cách khẳng định sự thù địch trong hàng ghế các bộ trưởng đã ngăn cản Fox có mặt khi đó. Điều này đã chấm dứt hiệu quả các cuộc thảo luận, mặc dù vào tháng 7, Pitt lại cố gắng nối lại chúng với một đề nghị phong tặng huy hiệu cấp tước Ga-tơ cho lãnh đạo của phe đối lập, Công tước Portland.
Tuy nhiên, phe đối lập lại tinh quái hơn Pitt tưởng. Họ trực tiếp đề đạt với Vua Anh thông qua cựu Ngoại trưởng, Công tước Leeds, người có thể lãnh đạo chính phủ liên minh trên cơ sở bình đẳng giữa Pitt (người sẽ từ chức ở Bộ Tài chính để chuyển sang Bộ Ngoại giao) và chính họ. Vua Anh vô cùng sửng sốt khi biết những gì đang xảy ra sau lưng ngài, và Pitt (vừa được Vua Anh giao cho chức Quản lý Cụm cảng Cinque) thật sự bối rối và buộc phải từ chối rằng bất kỳ “một sự sắp xếp mới nào, hoặc là thay đổi hoặc là liên minh, cũng đều nằm trong dự định”. Trong tháng 10, Vua Anh trút hết giận dữ vào Dundas bằng cách từ chối bổ nhiệm ông làm Thống đốc Charterhouse với lý do là không đủ địa vị xã hội, nhưng vai trò của Dundas trong việc hối thúc các cuộc đàm phán thì ai cũng biết. Hoàng gia từ chối dứt khoát đã khiến Pitt phải chấp nhận thất bại và thú nhận với người đồng sự rằng “thật bất khả kháng, hoặc anh hoặc tôi ở vào hoàn cảnh của chúng ta đều cảm thấy bất bình”. Dundas đã hạ thấp mình khi viết một bức thư thuyết phục Vua Anh dịu lại. Tình trạng bất ổn này chỉ được giải quyết khi xảy ra cuộc khủng hoảng trong nước và ngoài nước vào tháng 11, mà sau này là cuộc Cách mạng Pháp, khiến Vua Anh rất cần đến sự hỗ trợ của Pitt. Nó cũng khiến Loughborough có lý do rời bỏ phe đối lập và trở thành Chủ tịch Viện Quý tộc mà Vua Anh miễn cưỡng phải chấp nhận vào tháng 1/1793. Chỉ sau đó, Pitt mới có thể đảm bảo chắc chắn thắng lợi của mình trước Thurlow.
LIÊN MINH VÀ CHÍNH SÁCH NGĂN CHẶN CỦA ĐẢNG WHIG DO PORTLAND LÃNH ĐẠO
Những vấn đề trong Nội các của Thủ tướng vẫn còn nan giải. Cuộc chiến tranh bùng nổ vào tháng 2/1793 đã bộc lộ nhiều yếu kém của Nội các. Pitt đã đưa ngài Amherst, một cựu chiến binh, vào Nội các với vị trí Tổng tư lệnh quân đội, chức vụ mà Amherst đã giữ trong suốt cuộc Chiến tranh Hoa Kỳ. Tuy nhiên, kinh nghiệm và tầm nhìn của Amherst cũng mất dần theo tuổi tác, điều này được chứng minh trong cách quản lý của ông. Dundas vẫn chỉ đạo quân sự cho cuộc chiến với sự tư vấn của Pitt, nhưng Richmond về cơ bản không nhất trí với chiến lược của hai người. Richmond dưới thời Ordnance và Chatham ở Bộ Hải quân từng bị nhiều người chỉ trích vì thất bại trong đợt tấn công Dunkirk vào tháng 9, và sau đó khi Richmond gây khó khăn cho việc chuẩn bị cho cuộc viễn chinh miền Tây Ấn Độ, Pitt nhận thấy cần phải đưa ông ta vào hàng ngũ của mình với lời cảnh báo sắt đá rằng “khi mà lòng chân thành và những báo cáo là quá cần thiết trong mối giao hữu giữa các bộ trong chính phủ, thì các ban ngành phục vụ của Vua Anh, trong đó có cả Ban Quân nhu, sẽ không còn tiếp tục kiếm lợi như hiện nay”. Pitt giờ đã có ưu thế trong Bộ và rất ít khi phải chịu sức ép của các bộ khác về những vấn đề trong chính phủ.
Tuy nhiên, về cơ bản, Nội các của Pitt thật sự cần phải bổ sung. Stafford và Camden đã có tuổi, và đến tháng 4/1794, Camden mất. Vòng nội bộ của Pitt (gồm những vị trí có quyền lực cao trong Nội các) thiếu địa vị xã hội để tự duy trì Bộ. Richmond đặt vấn đề liệu đất nước có thể duy trì một chính phủ gồm toàn những thế hệ trẻ tuổi như vậy được bao lâu, ông cho rằng một người có “địa vị xã hội cao sang, giàu có và nhân cách hơn” sẽ lãnh đạo Nghị viện. Trong khi đó, năm 1792, Chesterfield, một người ủng hộ chính phủ, lo sợ “chúng ta sẽ không thể tiếp tục lãnh đạo tốt nếu không có thêm một vài hecta đất bổ sung”. Chỉ có Richmond, người thường xuyên vắng mặt trong Nội các và Stafford đã cao tuổi là có nhiều đất. Carmarthen cũng có nhiều đất, nhưng đã từ chức năm 1791. Camden và Chatham thì có một diện tích đất rất nhỏ, Hawkesbury thậm chí còn có ít hơn. Pitt, Grenville và Dundas vẫn là những thành viên trẻ tuổi so với thế hệ trước. Pitt dành dụm đủ tiền mua một ngôi biệt thự ở vùng nông thôn Kent năm 1785, nhưng ông còn rất nhiều khó khăn về tài chính và phần nào giảm được gánh nặng khi ông chấp nhận làm Quản lý Cụm cảng Cinque. Việc Grenville bằng mọi giá bảo vệ các phương thức duy trì địa vị quý tộc mới của mình và cố cưới con gái của Camelford làm vợ đã khiến ông cảm thấy ngượng với Pitt vì cố tìm một địa vị ngồi mát ăn bát vàng mãi cho tới khi ông ta nhận được một vị trí béo bở là kiểm toán viên của Bộ Tài chính năm 1794. Vua Anh cũng nghi ngờ về địa vị xã hội của Dundas khi ông này còn là Thống đốc của Charterhouse. Dân chúng hy vọng chính phủ sẽ gồm những nhân vật mà họ đặt trọn niềm tin.
Những mối lo ngại này cũng như mong muốn thành lập một chính phủ đoàn kết yêu nước để tiếp tục cuộc chiến đã khiến Pitt nỗ lực kêu gọi sự hợp tác của các cá nhân thuộc phe đối lập năm 1793 và năm 1794 tái thiết lập các cuộc đàm phán để thành lập một liên minh với cánh bảo thủ thuộc phe đối lập của Portland, cánh này hiện cắt đứt quan hệ hoàn toàn với Fox. Thời gian này, Pitt không sử dụng những người trung gian mà đàm phán trực tiếp với Portland. Cuộc gặp gỡ giữa hai người đàn ông cùng có bản tính dè dặt này vào tháng 5/1794 được coi như một thành công. Họ đã tìm được quan điểm chung là cần phải xóa bỏ tư tưởng Gia-cô-banh (thời Cách mạng Pháp 1789). Do vậy, để có được điểm chung này, Pitt phải đề nghị 3 vị trí trong Nội các, vị trí quan đại diện nhà vua ở Ireland và hứa sẽ lấp đầy 5 chỗ còn khuyết trong Nội các ngay lập tức, chuyển vị trí quan đại diện nhà vua ở Ireland ngay khi có thể. Pitt cũng phải hy sinh ước muốn của bản thân là bổ nhiệm Hawkesbury làm Chủ tịch Viện Cơ mật và về cơ bản chấp nhận ý muốn của phe Portland − coi việc khôi phục chế độ quân chủ Pháp là mục đích của cuộc chiến. Tuy nhiên, Pitt vẫn bảo đảm ông, Dundas và Grenville duy trì việc kiểm soát hầu hết các vị trí hoạt động cơ bản của nhà nước, đặc biệt là việc quản lý cuộc chiến. Ông đã đề nghị chức Bộ trưởng Ngoại giao cho Portland để chia trách nhiệm lãnh đạo Bộ Nội vụ cho Bộ trưởng Nội vụ phụ trách các vấn đề trong nước và Ireland (mục đích cuối cùng là làm hài lòng Portland và những người theo phe ông ta) và Bộ trưởng Ngoại giao phụ trách chiến tranh (Dundas). Ban đầu Dundas từ chối nhận vị trí mà ông cho là thừa vì Pitt với tư cách là Bộ trưởng Tài chính cũng là Bộ trưởng Chiến tranh. Pitt đã ra sức thuyết phục Dundas chấp nhận, cuối cùng Vua Anh phải yêu cầu Dundas chấp nhận vị trí này và đích thân ngài gửi thư tới Wimbledon, mặc dù điều này trái với những mong muốn của ngài. Cuối cùng Dundas đã đồng ý.
Ngày 11/7/1794, các vị trí đã được sắp xếp. Portland làm Bộ trưởng Nội vụ; Bá tước Fitzwilliam làm Chủ tịch Viện Cơ mật, hứa hẹn sẽ là quan đại diện nhà vua ở Ireland; Bá tước Spencer làm Bộ trưởng Không bộ cao cấp; William Windham làm Bộ trưởng Chiến tranh; Bá tước Mansfield làm Bộ trưởng Không bộ, cùng rất nhiều tước vị cao cho những người theo họ. Cuối cùng, Pitt cũng thiết lập được một Bộ “mang cục diện của Đảng Whig” như ông hằng mong muốn. Những người ủng hộ Pitt đều muốn biết liệu ông có ban phát quá nhiều địa vị khi ông còn nắm quyền và họ có quyền hy vọng một địa vị cho mình hay không. Hiện có sáu thành viên của phe đối lập trước đây có mặt trong Nội các mới, bao gồm cả Loughborough. Khi Addington hỏi liệu Pitt có sợ bị người khác thắng phiếu trong chính Nội các của mình không, Pitt đáp lại rằng “ông không bao giờ phải nghĩ đến điều đó, vì ông đặt nhiều niềm tin vào những đồng sự mới cũng như tin tưởng bản thân”.
Sự lạc quan của Pitt đã sớm được kiểm chứng. Những người theo Đảng Whig của Portland đã lấy chính phủ Ireland là điều kiện cần thiết cho sự liên minh giữa họ với Pitt. Họ lập kế hoạch về những thay đổi chủ yếu trong giới quan chức nhằm làm suy yếu tầm ảnh hưởng của phe đảng đang điều hành Ireland theo ý Pitt. Quan đại diện nhà vua ở Ireland theo đề xuất của họ, ông Fitzwilliam, thường nghi ngờ Pitt là người có cách cư xử hai mặt. Ông ta không thể kiên nhẫn thêm nữa khi đến cuối năm đó (1794) đã kín đáo theo dõi Pitt và phát hiện vị trí quan đại diện nhà vua ở Ireland của ông đã có Westmorland thay thế. Đến tháng 10, những đồng minh mới của Pitt bất ngờ đưa ra một tối hậu thư đe dọa sẽ từ chức tập thể nếu Fitzwilliam không được bổ nhiệm ngay lập tức.
Dundas hối thúc Pitt không nên chùn bước, hãy quan tâm đến các sự kiện hồi tháng 7 và “cố gắng mềm mỏng khi ngài lo lắng về một vấn đề nào đó”, nhưng Pitt nhận thấy nhất thiết phải đưa ra thách thức. Trong khi sẵn sàng lấp đầy các vị trí bằng người của mình, ông khăng khăng Fitzwilliam không thể được bổ nhiệm trước khi tìm được một người khác thích hợp thay thế Westmorland, rằng công việc ở Ireland vẫn phải chịu sự phê chuẩn của toàn Nội các, không nên có một hệ thống mới ở Ireland và không có sự đại bại của những người ủng hộ ông ở đó. Thực tế, chẳng có bên nào muốn bất hòa xảy ra, do vậy, một sự thỏa hiệp đã được sắp xếp trong các cuộc đàm phán giữa Pitt và Fitzwilliam ngày 11/11, điển hình nhất là cuộc gặp ngày 15 giữa Pitt và Grenville với Fitzwilliam, Portland, Spencer và Windham. Một vị trí ở tòa án được sắp xếp cho Westmorland, tạo điều kiện để Fitzwilliam nhậm chức Quan đại điện nhà vua. Đáp lại, Fitzwilliam từ bỏ ý định cách chức Đại pháp quan của Ireland như mọi người đồn đại và đồng ý rằng bất kỳ sự thay đổi nhân sự nào đều phải được thực hiện từng bước một. Họ cũng nhất trí không áp dụng thêm bất kỳ biện pháp nào giải phóng Công giáo mà chính phủ đề xuất.
Tinh thần hợp tác này khiến Pitt có nguy cơ phải hy sinh thêm ba vị bộ trưởng của mình để quản lý cuộc chiến tốt hơn. Những đồng minh mới của ông ngấm ngầm thể hiện sự bất bình với cách quản lý của Chatham ở Bộ Hải quân và sự vắng mặt của Richmond ở Nội các, bởi những người này thường được Pitt coi là cùng ông chia sẻ trách nhiệm. Tháng 12, chính Pitt đã cứng rắn hơn khi yêu cầu anh trai mình trao đổi vị trí với Bộ trưởng Không bộ cao cấp − Bá tước Spencer và đề nghị Vua Anh thuyết phục Chatham chấp nhận. Pitt lảng tránh đề nghị của Richmond rằng để Chatham tiếp tục vị trí đó. Khi chuyên gia quân sự Cornwallis được thuyết phục thay thế, ông đề nghị Chatham từ chức vào cuối tháng 1/1795. Cùng thời điểm đó, Amherst bị buộc phải từ chức, nhường vị trí Tổng tư lệnh cho York, một người bên ngoài Nội các.
Tuy nhiên, ngay cả khi Pitt đã hoàn tất việc cải tổ nhân sự thì cuộc khủng hoảng vẫn nổ ra ở Ireland. Fitzwilliam nhanh chóng nhận thức được tính nghiêm trọng của tình hình Ireland. Được các đồng minh ở đó thuyết phục rằng sẽ không thể thực hiện được điều gì nếu không có những thay đổi lớn, ông đã đột ngột cách chức năm quan chức lãnh đạo, gồm cả một lãnh đạo ngành hải quan có ảnh hưởng lớn là Beresford. Fitzwilliam cũng bổ nhiệm một đồng minh của mình trực tiếp làm trợ lý tư pháp thứ nhất của Bộ trưởng Tư pháp, bất chấp thỏa thuận của ngày 15/11 (là phải thay đổi nhân sự từng bước một).
Bận bịu với các vấn đề thay đổi Nội các, Pitt phản ứng rất chậm trước sự sụp đổ bất ngờ của Hà Lan khi chịu đòn tấn công của Pháp và chậm mở các phiên họp Nghị viện mới. Chính Grenville là người phản ứng trước vào ngày 28/1 bằng việc nhắc nhở Fitzwilliam nhớ lại những lời hứa trước đây của ông ta. Grenville cũng thể hiện mối quan tâm với Portland. Ngày hôm sau, Vua Anh đã bày tỏ với Pitt về mối quan tâm của ngài trước việc thay đổi hệ thống và mối quan tâm này nhanh chóng chuyển sang lo sợ khi quan đại diện nhà vua đề nghị cho phép thông qua Dự luật Giải phóng Công giáo tư nhân trước Nghị viện Ireland. Bản ghi nhớ chung khá dài của Hoàng gia tuyên bố sự giải phóng Công giáo là:
Vua Anh chấp nhận việc thay đổi chính quyền mới ở Ireland còn hơn nhìn thấy nó sụp đổ. Câu trả lời của Pitt cho thấy những công việc trước mắt khiến ông lơ là với những gì đang xảy ra ở Ireland, ông nài nỉ để được đệ trình với Vua Anh về “những gì có thể nảy ra trong đầu ông về vấn đề này còn thấu đáo hơn những gì ông có thể nói ra được lúc này”. Mãi tới ngày 9/2, Pitt mới nói với Fitzwilliam rằng những thay đổi về nhân sự của ông ta là không thể chấp nhận được, bởi nó đã vượt quá xa những thỏa thuận ban đầu. Fitzwilliam phản ứng lại bằng một bức thư khẳng định không thể làm khác được. Ông ta yêu cầu được nói riêng với Pitt về ý định sa thải Beresford, đồng thời đề nghị Pitt chấp nhận rằng chính phủ có thể buộc phải chấp nhận Dự luật Giải phóng Công giáo do yêu cầu của đông đảo dân chúng. Fitzwilliam cũng tuyên bố là không thể ngừng những gì mà theo ông ta là đang tiến triển tốt đẹp.
May thay, Pitt đã thoát khỏi cuộc khủng hoảng với Vua Anh hay mối bất hòa với các đồng minh mới nhờ những hành động của Portland, vị lãnh đạo của các đồng minh mới này. Portland nhận thấy Fitzwilliam đã đi quá xa và quá nhanh. Ngày 21/2, trước Nội các, ông đề nghị thải hồi Fitzwilliam. Thật bất ngờ, cuộc khủng hoảng lại gắn kết những đồng minh mới vào Bộ. Thay vì hành động như một nhóm ủng hộ cho đồng sự của mình (Pitt) như hồi tháng 10 thì trong Nội các, những người này lại ủng hộ Portland chống lại Fitzwilliam. Fitzwilliam phản ứng giận dữ, cho rằng họ phản bội và coi Pitt là kẻ mánh khóe, lôi kéo mọi người về phe mình. Pitt cố gắng làm vơi bớt sự đau lòng của Portland do mối bất hòa này bằng việc cho phép Fitzwilliam tiếp tục giữ một ghế trong Nội các, nhưng ông ta đã từ chối. Fitzwilliam là người căm thù Pitt nhất và cũng là người nhiệt tâm nhất ủng hộ các thành viên của phe đối lập trước đây tiếp tục hợp nhất thành một đảng, do vậy, sự rút lui của ông ta khỏi Nội các lại là điều kiện thuận lợi để phát triển mối quan hệ thân mật trong liên minh mới.
Những tình tiết xung quanh sự kiện Fitzwilliam đã thể hiện cả điểm mạnh và điểm yếu trong phương thức lãnh đạo của Pitt. Những gì mà Fitzwilliam tin là ông ta đã tuân thủ theo thỏa thuận hồi tháng 11 cho thấy mối nguy hiểm của phương pháp tiến hành công việc của Pitt. Fitzwilliam đã ghi chép sơ bộ cuộc gặp ngày 15/11, sau đó ông ta cho Pitt xem, Grenville cũng khẩn trương làm thành một bản ghi chép tóm tắt dễ hiểu phục vụ các đồng sự vào tháng 3 năm sau, nhưng Pitt lại thiếu các văn bản đó. Fitzwilliam tin rằng ông được phép thẳng tiến (không cần phải xin ý kiến), trong khi đó những người ở London cảm thấy cần phải có sự tham khảo ý kiến. Pitt có thể nhận ra là họ không đề cập đến Bereford. Những lời lẽ mà Pitt khẳng định về giải phóng Công giáo có vẻ như đúng, mặc dù chắn chắc ông đã suy nghĩ rất nhiều, bởi ông đồng ý với Portland là hoãn xem xét vấn đề này đến khi kết thúc chiến tranh. Pitt còn có điều đáng lưu tâm khác là ông không thể đoán biết được cuộc khủng hoảng sẽ xảy ra, cả trong tháng 10 hay tháng 1 năm sau, nhưng ông đã có Grenville − một người ủng hộ trung thành – làm thay việc đó. Hơn nữa, Pitt cũng rất may mắn bởi các sự kiện xảy ra lại quá thuận lợi cho ông và những liên minh mới của ông đã tự tách khỏi Fitzwilliam.
Giữa những năm 1788-1795, thành phần Nội các đã thay đổi hoàn toàn. Thurlow bị mất chức năm 1792, Pitt có được ưu thế vượt trội nhưng vẫn chưa có cơ sở lâu bền. Để đảm bảo ưu thế vững chắc, Pitt sẵn lòng mất đi ưu thế độc quyền bằng việc liên minh với những người theo Đảng Whig của Portland. Đây là việc làm liều lĩnh “được ăn cả ngã về không”, tuy nhiên nguy cơ đó đã lắng xuống bởi tính hấp tấp của Fitzwilliam đã phá vỡ mối đoàn kết của họ. Sau đó, chỉ có một lần họ l