← Quay lại trang sách

NHỮNG DẤU CHÂN

Đêm ấy ông Rybka về nhà với tâm trạng vui vẻ. Thứ nhất là vì ông đã thắng một ván cờ (với nước chiếu tướng đẹp bằng quân mã đã làm ông vui suốt chặng đường) và thứ hai là vì tuyết mới rơi êm dịu lạo xạo dưới chân ông trong yên ả. Trời ơi, đẹp quá, ông Rybka nghĩ; thành phố dưới tuyết, thành phố bỗng trở nên nhỏ bé, một thành phố thế tục cổ kính, người ta gần như tin là ở đây có người canh phố và có xe ngựa đi lại; cái này thật đặc biệt, tuyết cứ như đã rơi ở chốn thôn quê từ thuở xưa.

Rộp, rộp, ông Rybka tìm lối đi ở chỗ chưa có vết chân, cốt để cho vui vì tiếng bước chân rộp rộp và vì ông sống ở phố nhà vườn nho nhỏ, ông càng đi thì số vết chân càng ít trên đường đi. Nhìn này, ở chỗ cổng vào có dấu giày nam và giày nữ; hẳn là hai vợ chồng - đôi này trẻ chăng? Ông Rybka tự nhủ nhẹ nhàng, cứ như ông muốn ban phước lành cho họ. Chỗ này có con mèo chạy qua để trên tuyết những dấu chân giống như những bông hoa; và chúc ngủ ngon nhé, mèo ơi, chân mày sẽ lạnh đấy. Và bây giờ chỉ còn một vệt dấu giày, dấu giày đàn ông, sâu, thẳng và rõ ràng như dây xích nối các bước chân của một người đàn ông cô đơn. Vị hàng xóm nào đi qua đây nhỉ? ông Rybka nói với sự quan tâm đến bè bạn; ở đây ít người đi lại lắm, ngay cả một vết trên tuyết cũng không có, chúng mình đang ở bên lề của cuộc sống; bao giờ mình về đến nhà thì phố sẽ được đắp bằng tấm chân trắng kín đến tận mũi và nó sẽ mơ rằng nó chỉ là đồ chơi cho trẻ em. Tiếc là sáng mai bà đưa báo sẽ giẫm lên và tạo ra những vết ngoằn ngoèo như vết chân thỏ...

Ông Rybka bỗng nhiên chững lại khi đang muốn bước qua đường phố trắng tinh về phía cổng nhà mình. Ông nhìn thấy trước mắt ông những dấu giày đổi hướng từ vỉa hè qua phố về phía cổng nhà ông. Ai có thể đến nhà mình nhỉ? Ông nói và ngạc nhiên mở to mắt nhìn vào những dấu chân rõ ràng. Tổng cộng là năm dấu chân, kết thúc giữa phố với dấu chân trái rất sâu, tiếp theo thì không có gì nữa, chỉ còn tuyết trắng ngần không hề bị giẫm lên và chưa hề bị động đến.

Mình điên à, ông Rybka nói, có thể người này quay trở lại vỉa hè! Nhưng khi ông nhìn kỹ thì vỉa hè được tuyết phủ kín một lớp mỏng không có lấy một dấu chân người. Quỷ thật, ông Rybka lạ lùng, hay là các dấu chân sẽ ở trên vỉa hè thứ hai! Ông đi vòng quanh cái hàng dấu chân không kết thúc nhưng trên vỉa hè thứ hai cũng không có lấy một dấu chân. Và cả phố sáng ánh lên với màu trắng mềm mại chưa bị động chạm đến mức người ta phải nín thở vì cái sạch ấy. Không có ai đi qua đây từ lúc ấy, lúc tuyết bắt đầu rơi. Lạ thật, ông Rybka ậm ừ, có thể người này lùi trở lại vỉa hè, giẫm vào vết chân cũ của mình nhưng như thế có nghĩa là người ấy phải đi lùi đến tận góc phố, vì trước mặt mình chỉ có một vệt dấu chân trên lối đi này và chỉ hướng tới đây... Nhưng tại sao người đàn ông ấy lại làm như vậy? ông Rybka ngạc nhiên. Mà làm sao người ấy có thể lùi chính xác vào vết chân của mình cơ chứ?

Ông lắc đầu, mở cổng và vào nhà mình. Mặc dù biết là vô nghĩa, nhưng ông cũng vẫn nhìn xem trong nhà mình có vết chân vương tuyết hay không. Tất nhiên là không, lấy đâu ra cơ chứ! Có lẽ mình chỉ tưởng thế thôi, ông Rybka ậm ừ không yên tâm và nghiêng mình ngó ra khỏi cửa sổ: trên phố dưới ánh đèn ông nhìn thấy rõ năm dấu chân rõ ràng, sâu, kết thúc ở giữa lối và tiếp theo không có gì nữa. Khỉ ạ, ông Rybka nghĩ, tay dụi mắt; có lần mình đọc một câu chuyện về một vết chân trên tuyết, còn ở đây thì cả hàng vết chân, sau đó không có gì, cái gã đàn ông ấy đã biến đi đâu?

Ông lắc đầu và bắt đầu cởi quần áo, nhưng ông bỗng nhiên dừng lại, đến chỗ máy điện thoại và gọi lên phòng cảnh sát với giọng bất an, “Alo, ông cảnh sát trưởng Bartošek đấy ạ? Ông ạ, ở đây có một việc lạ, lạ lắm... Ông cử ai đến được không? Ông đến là tốt nhất... Tốt ạ, tôi sẽ đợi ông ở góc phố. Tôi không biết đây là cái gì... Không, tôi nghĩ là không có mối nguy hiểm nào, chỉ có điều không để ai giẫm mất những dấu chân... Tôi không biết là dấu chân của ai! Tốt, tôi sẽ đợi ông.”

Ông Rybka mặc quần áo và ra ngoài; ông đi vòng quanh những dấu chân và chú ý cả trên vỉa hè để khỏi giẫm phải những dấu chân ấy. Ông run lên vì lạnh, bực mình và đứng đợi cảnh sát trưởng Bartošek ở góc phố. Tĩnh lặng, trái đất mà nhân loại đang sinh sống đang tỏa sáng dịu dàng vào vũ trụ.

“Ở đây im ắng thật,” cảnh sát trưởng Bartošek ầm ừ với giọng âu sầu. “Mà người ta vừa dẫn đến chỗ tôi một vụ đánh lộn và một tên say khướt. Tởm! Ở đây ông có gì vậy ông?”

“Ông xem những dấu chân này, ông cảnh sát trưởng ạ,” ông Rybka nói với giọng run run. “Chỉ vài bước từ chỗ này thôi.”

Cảnh sát trưởng bật đèn pin. “Đây là một người cao khoảng một mét tám mươi,” ông ta nói, “theo dấu giày và khoảng cách bước chân. Người này có giày tốt, tôi nghĩ thế, giày khâu tay. Người này không say rượu và bước chân rất chắc chắn. Tôi không hiểu ông thấy những dấu chân này có gì không ổn.”

“Cái này này,” ông Rybka nói gọn và chỉ vào hàng dấu chân kết thúc giữa phố.

“À thế,” cảnh sát trưởng Bartošek không lưỡng lự tiến về phía dấu chân cuối cùng, ông ngồi xổm và bật đèn. “Chả có gì đâu,” ông ta yên tâm nói, “cái này bình thường, dấu chân vững vàng. Trọng lượng đặt chủ yếu lên gót; nếu người này bước thêm một bước hay nhảy lên thì trọng lượng chuyển sang các ngón chân, ông hiểu chứ? Ở đây nhìn thấy rõ ràng mà.”

“Cái này có nghĩa là gì?” ông Rybka căng thẳng hỏi.

“Ừ,” cảnh sát trưởng bình tĩnh nói, “có nghĩa là người này không đi tiếp nữa.”

“Thế thì người ấy biến đi đâu?” ông Rybka nóng nảy buột miệng.

Cảnh sát trưởng nhún vai. “Tôi không biết. Ông có nghi ngờ gì không?”

“Nghi ngờ gì cơ?” ông Rybka sửng sốt. “Tôi chỉ muốn biết là người này biến đi đâu. Ông nhìn này, người này bước cái bước cuối cùng rồi thì đi đâu, trời ạ, bước tiếp theo đi đâu? Rõ ràng là không có bước tiếp theo!”

“Tôi hiểu,” người cảnh sát trưởng khô khan nói. “Nhưng ông quan tâm người này đi đâu để làm gì? Có phải ai đó trong nhà ông không? Ông có mất tích người nào không? Khỉ ạ, ông quan tâm làm gì đến cái việc người này biến đi đâu?”

“Nhưng cái này phải giải thích được chứ,” ông Rybka lắp bắp. “Ông không nghĩ rằng có thể người này đi ngược lại theo dấu chân mình à?”

“Vô nghĩa,” cảnh sát trưởng gầm lên. “Nếu người ta đi lùi thì bước chân sẽ ngắn hơn và chân sẽ nhấc cao lên để giữ thăng bằng; ngoài ra không thấy người này nhấc cao chân cho nên gót cắm sâu vào tuyết để lại cả dấu vết. Và chỉ có một lần giẫm chân thôi ông ạ, dấu chân rất rõ.”

“Nếu không quay trở lại,” ông Rybka ngoan cố hỏi thêm, “thì người này biến đi đâu?”

“Đấy là việc của người ta,” ông cảnh sát trưởng ậm ừ. “Ông xem nhé, khi người này không gây ra cái gì thì chúng ta không có quyền thò chân vào việc của người ấy. Chỉ khi có ai đó tố cáo thì chúng tôi mới có thể điều tra sơ bộ...”

“Nhưng nhỡ có khi ai đó đã mất tích giữa phố?” ông Rybka lo lắng nói.

“Thế thì ông phải đợi, ông ạ” ông cảnh sát trưởng bình tĩnh khuyên ông ta. “Nếu có ai mất tích thì sau ít ngày gia đình ông ấy hay ai đó sẽ báo cảnh sát, ừ phải, và chúng tôi sẽ tìm. Nếu không thiếu ai thì chúng tôi không thể làm gì. Không được.”

Trong lòng ông Rybka bỗng trào lên sự tức tối. “Xin lỗi ông chứ,” ông ta tuyên bố rắn rỏi, “nhưng tôi có thể nói rằng cảnh sát phải quan tâm đến việc một người đi bộ nào đó bỗng nhiên mất tích giữa phố chứ!”

“Nhưng không có gì xảy ra với người ấy,” ông Bartošek vỗ về ông ta. “Rõ ràng ở đây không có dấu vết đánh nhau gì... Nếu người này bị ai đó đánh hay bắt cóc thì ở đây phải có bao nhiêu vết chân... Tôi lấy làm tiếc ông ạ, nhưng tôi không có lý do vào cuộc ở đây.”

“Nhưng ông cảnh sát trưởng ạ,” ông Rybka phẩy mạnh tay, “thế ông thử giải thích xem... Cái này thật là bí ẩn...”

“Đúng,” ông Bartošek đồng ý và đăm chiêu. “Tôi không biết trên đời này có bao nhiêu bí ẩn. Mỗi ngôi nhà, mỗi gia đình là một bí ẩn. Lúc tôi đến đây thì ở trong ngôi nhà kia kìa có tiếng phụ nữ trẻ khóc nức nở. Ông ạ, những cái bí ẩn không phải là việc của chúng tôi. Chúng tôi được trả lương cho việc bảo vệ trật tự. Chả nhẽ ông nghĩ là chúng tôi điều tra một tên trộm nào đấy là vì chúng tôi tò mò à? Ông ạ, chúng tôi tóm hắn để đưa hắn vào tù. Phải có trật tự chứ.”

“Thế ông thấy đấy,” ông Rybka buột miệng. “Nhưng ông phải xác nhận là không bình thường khi ai đó giữa phố... thí dụ như bay bổng lên trời chứ?”

“Cái này phụ thuộc vào cách lý giải,” cảnh sát trưởng nói. “Theo quy định của cảnh sát, nếu có nguy cơ rơi từ độ cao tương đối thì người ta phải buộc dây. Về cái này việc đầu tiên của cảnh sát là nhắc nhở, sau đó là phạt. Nếu người này tự bay lên không trung thì cảnh sát phải nhắc nhở người này thắt dây an toàn; nhưng người cảnh sát lúc ấy không có mặt,” ông ta nói vẻ như xin lỗi. “Chỉ còn lại dấu chân của người này. Có thể là ông ta đi xa bằng cách khác, đúng không?”

“Nhưng cách nào chứ?” ông Rybka nói nhanh.

Cảnh sát trưởng Bartošek lắc đầu. “Khó mà biết. Có thể là tự bay lên trời hay dùng cái thang của Jacob*,” ông ta nói với giọng không chắc chắn. “Việc bay lên trời có thể coi như bị bắt cóc nếu xảy ra việc dùng vũ lực, nhưng tôi nghĩ rằng thường thì việc này xảy ra với sự đồng ý của người trong cuộc. Và có thể là người ấy biết bay. Đôi khi ông không có cảm giác là mình bay à? Lúc ấy người ta chỉ nhún chân một chút và bắt đầu bay lên... Có những người bay lên như quả cầu, nhưng tôi, khi tôi bay trong giấc mơ, tôi phải nhún chân một lát. Tôi nghĩ là do quần áo nặng và thanh kiếm. Có thể người này đã ngủ và bắt đầu bay, nhưng việc này không bị cấm ông ạ. Tất nhiên là ở trên phố đông người thì cảnh sát phải nhắc nhở người ấy. Hoặc là, khoan đã nào, có thể đây là giấc mộng bay, những người theo thuyết thông linh tin vào giấc mộng bay, nhưng thuyết thông linh cũng không bị cấm. Cái ông Baudyš nào đấy có nói với tôi là ông ta nhìn thấy có vật thể treo trên không trung. Ai mà biết được nó thế nào.”

(*) Trong kinh Cựu Ước có đề cập đến chuyện Jacob, ông tổ của người Do Thái, ngủ mơ thấy các thiên sứ bước lên các nấc thang và sau này những gì Jacob chiêm ngưỡng trong mộng đều đã thành hiện thực.

“Nhưng ông ạ,” ông Rybka nói giọng trách móc, “chả nhẽ ông tin cái chuyện ấy! Cái này là trái với các định luật tự nhiên...”

Ông Bartošek nhún vai nặng nề. “Ông ạ, tôi biết rằng con người vi phạm tất cả các luật lệ và các quy định; nếu ông là cảnh sát thì ông sẽ biết nhiều hơn...” Cảnh sát trưởng phẩy tay. “Tôi sẽ không lạ nếu họ vi phạm cả các định luật tự nhiên nữa. Nhân loại là bầy đàn mà, ông ạ. Vâng, chúc ngủ ngon. Lạnh quá.”

“Ông uống với tôi một ly trà... hay rượu slivovice* chứ?” ông Rybka mời.

(*) Một loại rượu brandy được chưng cất từ quả mận.

“Sao lại không nhỉ,” cảnh sát trưởng ậm ừ giọng đượm buồn. “Ông biết không, người ta không thể vào quán khi mặc đồng phục. Cho nên cảnh sát họ uống ít.”

“Kỳ lạ,” ông ta tiếp tục khi ngồi trên ghế bành, suy tư và nhìn tuyết đang tan trên giày. “Chín mươi chín người có thể đi theo các dấu chân ấy nhưng không ai để ý thấy cái gì cả. Còn ông thì cũng không để ý thấy chín mươi chín việc rất bí ẩn. Chúng ta có biết cái quái gì đâu. Chỉ có ít cái là không bí ẩn thôi. Trật tự xã hội không bí ẩn. Tư pháp không bí ẩn. Cảnh sát cũng không bí ẩn. Nhưng mỗi người đi trên phố thì bí ẩn vì chúng tôi không thể chịu trách nhiệm thay họ ông ạ. Nếu người ấy ăn trộm, người ấy sẽ hết bí ẩn vì chúng tôi sẽ bắt họ và thế đấy vì ít ra chúng tôi biết người ấy làm gì và chúng tôi có thể đến xem người ấy qua cái cửa sổ nhòm trên cánh cửa bất cứ lúc nào, ông biết chứ? Ông ạ, bọn nhà báo viết ‘Tìm được một xác chết bí ẩn!’ Cái gì bí ẩn trên xác chết nào? Khi chúng tôi có nó, chúng tôi sẽ đo, chụp ảnh và mổ xẻ, chúng tôi biết từng sợi chỉ, trên nó có cái gì, chúng tôi biết bữa cuối cùng nó ăn gì, tại sao nó lại chết và những gì gì nữa; ngoài ra chúng tôi còn biết rằng ai đó đã giết nó hẳn là vì tiền. Tất cả sẽ rõ ràng và mạch lạc... Ông ạ, ông có thể rót thêm cho tôi chè đen đặc hơn không? Tất cả mọi tội ác đều rõ ràng ông ạ, ở đó ít ra chúng ta nhìn thấy các động cơ và tất cả những cái liên quan. Nhưng cái bí ẩn thí dụ như con mèo của ông nghĩ gì, cô giúp việc nhà ông mơ thấy gì và tại sao vợ ông lại suy tư nhìn ra ngoài từ cửa sổ. Ông ạ, tất cả đều bí ẩn trừ các vụ hình sự. Một vụ hình sự là một chút thực tế đã được xác định mà chúng ta đã làm cho nó sáng tỏ. Ông xem nhé, nếu tôi mà tìm tôi sẽ biết về ông khối cái, nhưng tôi nhìn vào mũi giày của tôi vì tôi không có trách nhiệm quan tâm đến ông; không có ai tố cáo ông với chúng tôi cả,” ông ta nói thêm và thổi nước chè nóng.

“Đây là một kiểu hình dung lạ,” ông ta bắt đầu sau một lát, “cảnh sát và nhất là cảnh sát mật quan tâm đến những việc bí ẩn. Chúng tôi thèm vào những cái ấy, chúng tôi chỉ quan tâm những cái khác thường. Ông ạ, chúng tôi không quan tâm tội ác vì nó bí ẩn và vì nó bị cấm. Chúng tôi không truy lùng tên đốn đời nào đó chỉ vì mối quan tâm liên quan đến trí tuệ mà cốt để chúng tôi bắt tên này nhân danh pháp luật. Ông nghe nhé, những người quét đường họ không cầm chổi chạy trên phố để tìm dấu chân người trên lớp bụi mà là để quét và dọn dẹp những cái bẩn thỉu mà cuộc sống bày ra. Trật tự không phải là cái gì bí ẩn ngay cả một chút. Bảo vệ trật tự là cả một công việc khó khăn, ông ạ; và ai muốn sạch sẽ thì phải thò tay vào từng cái phi trật tự. Và xin thưa ông là có ai đó phải làm việc này,” ông ta âu sầu nói, “cũng như ai đó phải giết con bê. Nhưng nếu giết con bê vì tò mò thì thật là tàn bạo; việc này phải làm theo nghề. Khi người ta có trách nhiệm phải làm cái gì đó thì người ta biết rằng người ta có quyền làm. Ông xem nhé, tư pháp phải chuẩn như phép nhân. Tôi không biết ông có thể chứng minh là vụ trộm nào cũng xấu xa hay không; nhưng tôi có thể chứng minh cho ông trộm cắp là việc bị cấm và trong bất cứ trường hợp nào tôi cũng bắt ông. Nếu ông rắc ngọc lên đường phố thì người cảnh sát sẽ nhắc ông về việc làm bẩn đường phố. Nhưng nếu ông làm những điều phi thường thì chúng tôi không thể ngăn cản, trừ phi là làm mất trật tự công cộng hay tụ tập trái phép. Phải có cái gì đó không ổn thì chúng tôi mới có thể vào cuộc.”

“Nhưng ông ạ,” ông Rybka lắc đầu cự lại với vẻ không yên tâm, “thế cái này không đủ hay sao? Ở đây là... một việc lạ lùng... cái gì đó bí ẩn... còn các ông…”

Ông Bartošek nhún vai. “Tôi để mặc nó thôi. Ông ạ, nếu ông muốn thì tôi sẽ cho dọn những dấu chân ấy đi để nó khỏi làm ông mất yên tâm vào ban đêm. Tôi không làm được nhiều hơn đâu. Ông không nghe thấy gì à? Không có tiếng bước chân nào ư? Cảnh sát của chúng tôi đang đi tuần đấy; hai giờ bảy phút rồi. Chúc ông ngủ ngon nhé.”

Ông Rybka tiễn ông cảnh sát trưởng ra cổng; giữa phố vẫn còn hàng dấu chân không kết thúc và khó hiểu. Một cảnh sát đang tiến lại trên vỉa hè thứ hai.

“Mimra à,” cảnh sát trưởng gọi, “anh có gì mới không?”

Người cảnh sát tên Mimra chào ông ta. “Nói chung không có gì, thưa ngài cảnh sát trưởng,” anh ta báo cáo. “Ở số mười bảy đằng kia có con mèo kêu, tôi phải bấm chuông để họ mở cửa cho nó vào nhà. Ở số chín họ quên đóng cổng. Ở góc phố họ cuốc đường mà không đặt đèn đỏ, chỗ quầy tạp hóa Marsik một bên bảng treo bị lỏng, sáng mai họ sẽ phải hạ xuống để nó không rơi vào đầu người ta.”

“Tất cả chứ?”

“Vâng, tất cả là như vậy,” cảnh sát Mimra nói. “Sáng mai họ sẽ phải rắc đá dăm lên các vỉa hè* để không ai bị gãy chân, họ phải bấm chuông mọi nhà vào sáu giờ sáng...”

(*) Ở châu Âu sau mỗi đêm tuyết rơi người ta rải đá dăm lên lối đi để khỏi trượt ngã.

“Thế thì tốt,” ông cảnh sát trưởng Bartošek nói. “Chúc ngủ ngon!”

Ông Rybka một lần nữa nhìn các dấu chân không dẫn đi đâu. Nhưng ở chỗ dấu chân cuối cùng đã hằn lên dấu giày của cảnh sát Mimra, từ chỗ ấy những dấu giày đều đặn và rõ ràng xếp thành hàng đi tiếp.

“Nhờ trời,” ông Rybka thở hắt ra và đi ngủ.