← Quay lại trang sách

VỤ ÁM SÁT

Ngày hôm qua ông hội đồng Tomsa vui vẻ hưởng thụ bằng việc đeo đôi tai nghe đài và mỉm cười nghe đài phát các vũ khúc của Dvořak* - phải nói đây là âm nhạc tầm cỡ, ông tự nhủ thỏa mãn - nhưng bỗng nhiên bên ngoài có hai tiếng nổ, cửa sổ trên đầu ông bị vỡ và kính vỡ vụn rơi xuống; lúc đó ông ngồi ở phòng dưới tầng trệt. Khi ấy ông xử sự giống như mỗi chúng ta: đầu tiên ông đợi một lát xem có gì xảy ra không, sau đó ông bỏ tai nghe xuống và ông gần như nghiêm khắc nhìn quanh kiểm tra xem có gì xảy ra, sau đó thì ông giật mình, vì ông thấy rõ ràng là ai đó đã bắn vỡ cửa sổ cạnh chỗ ông ngồi; trên cửa đối diện có mảnh gỗ gãy bật ra và dưới nó là một viên đạn.

(*) Antonín Dvořák, nhà soạn nhạc nổi tiếng của Czech.

Cách phản ứng đầu tiên là chạy ra phố, tóm lấy cổ áo tên hỗn xược, nhưng khi người ta đã có tuổi thì người ta đã biết ứng xử đàng hoàng, bỏ qua cái phản ứng đầu tiên và quyết định theo cách phản ứng thứ hai, vì vậy ông Tomsa chạy đến điện thoại và gọi lên phòng cảnh sát: “A lô, các anh cử người nhanh nhanh đến đây; vừa có cuộc tấn công chết người nhằm vào tôi.”

“Ở đâu vậy?” một giọng buồn ngủ và lơ đễnh hỏi.

“Ở chỗ tôi,” ông Tomsa bực mình cứ như đấy là lỗi của cảnh sát. “Rõ là vụ scandal rồi! Ông ạ, vụ này phải điều tra! Sẽ phải làm thế, để...”

“Vâng,” cái giọng ngái ngủ ngắt lời ông. “Tôi sẽ cử người đến đấy.”

Ông hội đồng tức điên lên vì sốt ruột. Ông cảm thấy cứ như cả thế kỷ đã trôi qua rồi mới có người đến; nhưng trong thực tế chỉ sau hai mươi phút đã có một thanh tra cảnh sát chín chắn đến chỗ ông, chăm chú ngắm nghía cái cửa sổ bị bắn vỡ.

“Thưa ông, có ai đó bắn vào đây à?” ông ta hỏi.

“Biết rồi còn gì,” ông Tomsa quát lên. “Mà tôi vừa ngồi bên cửa sổ!”

“Đạn bảy milimét,” thanh tra nói và lấy dao cạy viên đạn ra khỏi cánh cửa. “Nó giống đạn từ súng lục cũ của quân đội. Ông xem này, tên này phải đứng bên hàng rào; nếu hắn đứng trên hè phố thì đạn bay cao hơn. Điều đó có nghĩa là hắn chĩa súng vào ông.”

“Lạ nhỉ,” ông Tomsa cay đắng nói, “tôi cứ nghĩ là hắn chỉ muốn bắn vào cửa thôi.”

“Ai có thể làm việc này?” người thanh tra hỏi, không để bất kỳ ai làm mình mất tập trung.

“Xin lỗi,” ông hội đồng nói, “vì tôi không cho ông địa chỉ của nó được; tôi không nhìn thấy người này và đâu có mời hắn ta vào nhà.”

“Khó nhỉ,” người thanh tra nói nhẹ nhàng. “Ông có nghi ngờ ai không?”

Ông Tomsa hết cả kiên nhẫn. “Nghi ngờ ai chứ?” ông nói giọng cáu kỉnh. “Trời ạ, rõ là tôi không nhìn thấy tên khốn ấy; nếu hắn có ý tốt đứng đợi thì tôi sẽ gửi cho hắn một nụ hôn và sẽ nhận ra hắn ngay trong bóng tối. Ông ạ, nếu tôi biết nó là ai thì tôi đã không phiền mời các ông, ông có nghĩ thế không?”

“Vâng,” thanh tra trả lời nhẹ nhàng. “Nhưng chả nhẽ ông không nhớ ra ai, ai có thể được lợi nếu ông chết, hay ai đó muốn báo thù... Ông xem nhé, đây không phải là vụ cướp; cướp không bắn, nếu không bắt buộc phải bắn. Hay có ai hận gì ông không? Cái này ông phải nói với chúng tôi để chúng tôi điều tra.”

Ông Tomsa sững lại: ông chưa nghĩ theo hướng này. “Tôi không nghĩ ra gì cả,” ông nói lưỡng lự và ngẫm lại cuộc sống êm ả của mình - một công chức nhà nước và một người có tuổi sống độc thân. “Ai mà có thể ghét tôi nhỉ?” ông băn khoăn. “Tôi thề, tôi không biết là tôi có thể có bất cứ một kẻ thù nào! Điều này không thể có,” ông nói và lắc đầu. “Tôi không thể có vấn đề gì với bất cứ ai; ông ạ, tôi sống một mình, không đi đâu, không dính vụ nào... Ai thù mình vì cái gì cơ chứ?”

Người thanh tra nhún vai. “Tôi không thể biết được, ông ạ; nhưng có thể ngày mai ông sẽ nhớ ra. Lúc này ông có thấy sợ không?”

“Tôi không sợ,” ông Tomsa nói và nghĩ ngợi. Lạ thật, ông bứt rứt tự nhủ, khi ông còn lại một mình, tại sao nhỉ, ừ, tại sao ai có thể bắn mình? Mình là người sống độc thân cơ mà, hết giờ làm việc ở tòa thị chính là mình về nhà, rõ là mình không làm gì ai. Thế thì tại sao ai đó muốn bắn mình? Ông băn khoăn với nỗi đắng cay càng lúc càng tăng trước cái việc tệ hại này; ông bắt đầu thấy thương mình. Mình làm việc quần quật như ngựa, ông tự nhủ, công việc mang cả về nhà, không tiêu pha, không hưởng lạc, sống như ốc sên trong vỏ ốc thế mà đùng một cái, ai đó đến bắn mình. Trời ạ, cái thời đại thật lạ kỳ, ông kinh ngạc và rầu rĩ. Mình làm gì ai nào? Tại sao ai đó lại căm ghét mình khủng khiếp và khùng điên như vậy?

Mình có thể nhầm chăng, ông tự trấn tĩnh lại. Ông ngồi trên giường tay cầm một cái giày mới tụt ra khỏi chân. Rõ ràng là nó nhầm người! Tên ấy nhầm mình với ai đó, ai mà hắn muốn khử nhỉ! Đúng rồi, ông tự nhủ nhẹ nhõm, đời nào lại có ai thù mình cơ chứ?

Cái giày bỗng rời khỏi tay ông. Ừ, đúng rồi, ông bỗng hơi ngượng ngùng nhớ lại, mình có làm một việc ngu xuẩn, việc này vuột khỏi tầm kiểm soát của mình, mình có nói chuyện với anh bạn Rouhal, nhưng lúc ấy mình không giữ mồm giữ miệng thành ra lại ám chỉ không hay đến vợ anh ta. Ai chả biết mụ ấy ngoại tình với khối người, anh ta biết nhưng không nói ra. Mình ngu như bò, mình nói ra, cực ngu ngốc... Ông hội đồng bỗng nhớ anh Roubal nuốt giận rồi cày móng tay lên bàn tay! Trời ạ, ông nói trong kinh hãi, anh ta đã bị xúc phạm đến thế nào? Anh ta yêu vợ như điên dại! Biết mà, sau đó mình muốn đấu dịu, nhưng anh ta thì cắn vào môi. Anh ta có cớ để thù mình, ông tự nhủ buồn bã. Mình biết là anh này không bắn mình; điều này có thể loại trừ được, nhưng mình không lạ nếu... Ông Tomsa thất thần nhìn xuống đất.

Hay là anh thợ may, ông nhớ lại, cảm thấy khó thở. Mười lăm năm mình may quần áo ở chỗ anh ta, sau đó có người bảo mình là anh ta bị lao. Ai chả sợ mặc quần áo bị người mắc bệnh lao ho vào thế là mình không may quần áo ở đấy nữa... Rồi anh ta đến đề nghị mình, nào là anh ta không có gì làm, nào là vợ anh ta bệnh, nào là anh ta cần cho bọn trẻ ra ngoài... để mình lại tin tưởng anh ta. Trời ơi, anh ta xanh xám, mồ hôi nhễ nhại bệnh tật! Anh Kolínský ạ, tôi bảo này, anh xem đây, không được đâu, tôi cần thợ may khá hơn; tôi đã từng không bằng lòng với anh mà. Tôi sẽ rất cố gắng, thưa ông, anh ta lắp bắp, mồ hôi vã ra, sợ hãi và lúng túng, chỉ còn thiếu việc khóc lên nữa thôi. Còn mình, ông hội đồng nhớ lại, mình đuổi anh ta với câu: “Để xem đã”, câu này thì những người nghèo khổ ấy biết chán ra rồi. Anh ta có thể thù mình, ông sợ hãi vì việc này kinh khủng quá, ai lại có thể đuổi người đến cầu xin mình một cách vô cảm như vậy! Nhưng mình biết làm gì với anh ta nhỉ? Mình biết anh ta sẽ không làm việc này, nhưng...

Ông hội đồng lại thấy nặng đầu. Chuyện này mới quê chứ, ông nhớ lại ông đã mắng ông giúp việc ở văn phòng. Mình không tìm ra một tệp giấy và mình gọi ông già giúp việc đến. Mình mắng ông ta như mắng cậu bé trước mặt mọi người! Mình chửi ông ta là đồ luộm thuộm, đồ ngu ơi, chỗ nào ông cũng biến thành ổ lợn, tôi phải đuổi việc ông thôi. Sau đó mình lại tìm thấy tệp giấy trong ngăn kéo! Ông lão ấy không nói câu nào, chỉ run run đứng nhìn. Ông hội đồng bỗng thấy người mình nóng đến khổ sở. Người ta ai lại đi xin lỗi cấp dưới, ông tự nhủ và lo lắng ngay cả khi đã làm hại họ một chút. Và những người cấp dưới ấy thế nào chả căm thù lãnh đạo của mình! Khoan, mình sẽ cho ông lão ấy ít quần áo cũ, nhưng đối với ông ta cái này lại có thể bị coi là bị làm nhục...

Ông hội đồng không nằm được nữa, cái chăn làm ông nghẹt thở. Ông ngồi trên giường ôm chân và nhìn vào bóng tối. Hay là chuyện với cậu Morávek ở ủy ban, mình đã làm cho cậu ấy mất mặt. Cậu ấy rõ ràng là còn trẻ và hay làm thơ. Cái lúc cậu ấy chuẩn bị hồ sơ cho mình không được chuẩn mình đã nói với cậu ấy: Anh làm lại đi, anh đồng nghiệp ạ, rồi mình còn muốn ném hồ sơ đó xuống bàn; nhưng không may nó lại rơi xuống chân, cậu ấy cúi xuống nhặt, đôi tai đỏ tía cả lên. Mình xứng đáng tự tát cho mình mấy cái, ông gầm lên. Thực ra mình quý cậu ấy, thế mà mình nhục mạ cậu ấy như vậy, rõ ràng là không hay...

Ông hội đồng đứng dậy nhưng bỗng nghĩ đến một khuôn mặt khác: khuôn mặt tai tái và tự mãn của anh đồng nghiệp Wankl. Cái anh Wankl tội nghiệp có lần nói anh ta muốn làm chủ tịch hội đồng thay mình; như vậy lương sẽ cao hơn được vài trăm, mà anh ta có những sáu đứa con - nghe nói anh ta muốn cho con gái lớn nhất đi dạy hát, nhưng nó không đủ khả năng; thế mà mình vượt lên trên anh ta vì anh ta nặng nề dù rất chăm chỉ. Vợ anh ta tệ, khô héo và ác độc vì suốt đời phải đi khám bệnh; bữa trưa chị ta chỉ nuốt mỗi cái bánh mì trắng đã để khô. Ông hội đồng buồn bã nghĩ ngợi. Tội nghiệp anh Wankl, chả biết anh ta phải sống thế nào, chứ anh ta thấy mình độc thân mà lương cao hơn anh ta... nhưng mình có lỗi gì đâu? Nhiều khi mình cũng phát phiền muộn, khi anh ta nhìn mình căng thẳng và trách móc...

Ông hội đồng lau mồ hôi muộn phiền trên trán. Đúng rồi, ông tự nhủ, lại còn cái thằng ở quầy bar gian lận của mình vài koruna, thế mà mình gọi chủ nhà hàng và ông ấy đã đuổi việc nó ngay lập tức. Đồ ăn cắp, ông ta đã chửi nó, tao sẽ làm cho không ai ở Praha nhận mày vào làm! Thằng này không nói một câu và bỏ đi... đít quần nó đã bạc màu dưới cái áo đuôi tôm…

Ông hội đồng không chịu được nằm trên giường nữa; ông lại chỗ cái đài rồi đeo tai nghe; nhưng đài không phát nữa; đêm lặng thinh, đây là giờ vắng lặng trong đêm; và ông hội đồng úp mặt vào hai bàn tay và nhớ những người ông đã gặp, nhớ đến những con người lạ lùng và nhỏ bé, những người mà ông thường không hiểu và hầu như không khi nào ông nghĩ đến họ.

Sáng dậy ông đến phòng cảnh sát; mặt ông tai tái và ông luống cuống.

“Thế nào rồi,” người thanh tra cảnh sát hỏi, “ông có nhớ ra ai có thể căm ghét ông không?”

Ông hội đồng lắc đầu. “Tôi không biết,” ông nói không rõ ràng. “Mà những người thù ghét tôi thì khối...” Ông phẩy tay bất lực. “Anh biết không, tôi cũng chẳng biết mình đã làm hại bao nhiêu người nữa. Anh biết đấy, tôi sẽ không ngồi bên cái cửa sổ ấy nữa. Tôi đến đề nghị anh bỏ qua vụ này.”