CÁI CHÂN BỊ MẤT
“Khó mà ai tin,” ông Tymich nói, “con người đôi khi chịu đựng được đến mức nào. Khoan đã, chuyện này xảy ra vào thời Chiến tranh*, khi tôi phục vụ ở Ba mươi nhăm*; ở đấy chúng tôi có một người lính trẻ, tên là gì nhỉ, hình như Dynda hay Otahal hay Peterka, nhưng chúng tôi gọi cậu ấy là Pepek; nói khác đi là một người rất hiền, nhưng ngây ngô, tới mức mà các anh có thể khóc được vì thương cậu ấy. Ừ, khi họ bắt chúng tôi đi huấn luyện thì cậu ấy làm tất cả những gì có thể, cậu ấy chịu đựng như một con cừu, nhưng khi họ đưa chúng tôi ra mặt trận, lúc bấy giờ ở gần Krakov, họ chọn cho chúng tôi một vị trí không tốt, chỗ đó bị pháo binh Nga bắn trúng. Pepek không bị sao, chỉ đứng đó nhìn thôi, nhưng khi cậu ấy đến chỗ một con ngựa bị rách bụng, con ngựa vẫn còn thở và muốn đứng dậy, thì cậu ấy tái mét, ném mũ xuống đất và phạm tội làm nhục Hoàng đế*, cậu ấy để súng và ba lô xuống đất rồi chạy về phía sau.
(*) Thời Đại Chiến Thế giới thứ nhất, Tiệp Khắc cũ bấy giờ thuộc về Đế quốc Áo (Áo-Hung).
(*) Một đơn vị quân đội Hoàng gia Áo.
(*) Hoàng đế Áo.
“Tôi thề là tôi không thể tưởng tượng ra bằng cách nào cậu ta đi năm trăm kilômét về đến nhà, nhưng một đêm cậu ta gõ cửa nhà mình và nói với vợ. Mẹ nó ơi, anh đây, anh đã về và sẽ không đi đâu nữa; nhưng nếu họ tìm thấy anh thì xong đời; anh trốn nghĩa vụ quân sự. Khi hai người đã khóc đủ với nhau rồi thì cô vợ nói: Pepek ạ, em không nộp anh đâu, em sẽ giấu anh trong chuồng phân, ở đấy không ai tìm ra anh. Thế là cô ta đào chuồng phân, đậy các tấm ván và Pepek ngồi ở trong cái hang ấy năm tháng trời; trời ạ, cái này thì đến cả những người tử vì đạo cũng không chịu nổi. Sau này vì chuyện con gà mái mà bà hàng xóm tố cáo cậu ta, cảnh sát đến lôi Pepek từ trong phân ra; các ông nghe nhé, họ phải mua thêm mười mét thừng để khỏi phải ngửi cậu ta khi họ giải cậu ta ra thành phố.
“Khi Pepek đã bớt mùi thì họ xử cậu ta trước tòa án binh. Lúc bấy giờ có một thẩm phán tòa án*, một ông Dillinger; có người nói ông ta là chó săn, có người bảo ông ta là tay chơi, nhưng ông này biết chửi rủa. Các ông nghe nhé, cái này thì phải giữ gìn: thời Đế quốc Áo người ta biết chửi lắm! Ở đây ta nhìn thấy truyền thống thời trước. Ngày nay không mấy ai biết chửi thành thật, nhưng làm nhục thì họ biết. Thế là thẩm phán Dillinger đặt Pepek ở giữa sân và xử cậu ta từ trên cửa sổ vì không muốn cậu ta đứng gần mình. Các ông biết đấy, vụ của Pepek rất tệ, bỏ chạy khỏi chiến trường, xứng tội tử hình bằng xử bắn và có trời cứu. Và cái ông Dillinger cũng không mất công lưỡng lự với bất kỳ ai, ông ta rõ ràng là chó săn mà. Nhưng đến lúc phải quyết định về bản án, tay Dillinger quát lớn từ cửa sổ: Này Pepek, khi anh bị chôn trong phân, có đêm nào anh chui vào nhà ngủ với vợ không?
(*) Tòa án binh của Đế quốc Áo.
“Pepek bồn chồn cựa quậy, sau đó đỏ mặt lên và buột miệng: Xin phép thưa ngài thẩm phán, đôi khi, không thì không xong.
“Lúc ấy thẩm phán đóng cửa sổ lại và nói: Trời ạ! Sau đó ông ta lắc đầu và chạy quanh phòng, lúc đã bình tĩnh lại ông ta nói: Họ có thể đuổi tôi về hưu chứ tôi không xử tử hình tên này, nhất là vì mụ đàn bà ấy; tởm lợm, đây là tình yêu vợ chồng! Và sau đó ông ta thỏa thuận được việc phạt tù bị can ba năm trong căn cứ quân sự.
“Trong cái căn cứ ấy Pepek, người tù, có nhiệm vụ coi vườn của người chỉ huy. Chỉ huy lúc bấy giờ là đại tá Babka. Ông Babka sau này có nói là chưa bao giờ vườn của ông có rau đẹp và tốt như khi được Pepek vun trồng. Có quỷ biết, ông chỉ huy nói, rau nó tốt là do cái gì.”
“Thời chiến tranh,” ông Kral nói, “có những việc đặc biệt xảy ra; và nếu tập hợp tất cả những cái mà người ta làm để khỏi phải đi chiến đấu cho nước Áo thì còn nhiều trang viết hơn cả tuyển tập Acta sanctorum , tuyển tập mà các cha đạo Bollandist đã xuất bản. Tôi có đứa cháu họ, tên là Lojzíkí*, nó nói với tôi: Chú ạ, cháu bảo chú nhé, họ không đưa cháu ra chiến trường được đâu, cháu thà chịu chặt chân còn hơn là đi giúp bọn chuột Đức. Thằng Lojzík là một cậu bé thông minh. Khi đám lính mới tập trên thao trường thì nó rất năng nổ nên các cấp trên nhìn thấy ở nó một anh hùng trong tương lai, thậm chí một viên hạ sĩ, nhưng khi gió đã nổi lên, chỉ sau mấy ngày người ta chở chúng nó ra mặt trận thì nó bị sốt, nó ôm chặt nửa bụng bên phải và kêu ca thật đáng thương. Thế là họ mang nó vào bệnh viện và cắt ruột thừa cho nó và Lojzík đã làm cho vết thương của nó chậm lành. Nhưng sau sáu tuần thì vết mổ vẫn tạm lành dù nó có làm thế nào chăng nữa và chiến tranh thì vẫn chưa kết thúc. Lần đó tôi đến thăm nó trong bệnh viện. Lojzík nói, chú ạ, bây giờ thì có thánh cũng không cứu nổi cháu nữa, cháu chờ họ chở mình đi bất cứ lúc nào.
(*) Lojzík/Lojza là tên gọi thân mật của Alois.
“Lúc bấy giờ Tổng trưởng Quân y bên mình* là lão Oberhuber nổi tiếng. Sau này mới biết rằng lão này hoàn toàn bị điên, nhưng các ông biết đấy, chiến tranh là chiến tranh và nếu các ông mặc sơ mi cổ dát vàng cho lợn rừng thì con vật ấy vẫn cứ là chỉ huy. Tất nhiên là trước mặt lão Oberhuber tất cả đều bị xáo trộn; lão này đến các bệnh viện và quát nạt tất cả mọi người: Hành quân ra trận ngay! Ngay cả khi người ta bị lao nặng hay bị bắn thủng tủy sống, không ai được phép cự lại lão. Lão không thèm nhìn xem người bệnh có bệnh gì được ghi trên bảng ở đầu giường bệnh, lão chỉ nhìn từ xa và quát: Frontdiensttauglich! Sofort einrücken! * Sau đó thì các vị thánh cũng chẳng giúp gì được anh nữa. Thế rồi lão Oberhuber đến thanh tra bệnh viện, nơi Lojzík đang chờ đợi số phận của mình. Khi người ta nghe thấy tiếng ồn ào ở cửa bên dưới, tất cả mọi bệnh nhân chỉ trừ những người đã chết, phải đứng nghiêm bên cạnh giường mình để đón chào quan lớn theo thông lệ. Vì chờ đợi hơi lâu nên để đỡ mỏi Lojzík co một chân lên, tì đầu gối vào giường và đứng trên một chân. Lúc ấy lão Oberhuber xông vào, mặt đỏ tía tai vì tức giận và quát ngay khi vào cửa: Ra mặt trận! Người này được! Tauglich *! Sau đó lão nhìn vào Lojzík đang đứng trên một chân, lão đỏ mặt hơn. Einbeinig *, lão quát. Sofort *, gửi ngay về nhà! Trời, tại sao các vị giữ ở đây thằng một chân? Đây là chuồng cho bọn què à? Tống cổ nó đi ngay! Đồ láo, vì việc này tao sẽ tống hết chúng mày ra mặt trận! Các đại diện tái mặt vì sợ hãi, họ lắp bắp rằng tất cả mọi việc sẽ được xử lý ngay, nhưng lúc đó Oberhuber đã hét bên giường bên, rằng người lính vừa mổ hôm qua phải ra ngay mặt trận.
(*) Quân y của Đế quốc Áo.
(*) Tiếng Đức: Đủ sức ra mặt trận, cho đi ngay!
(*) Tiếng Đức: Phù hợp.
(*) Tiếng Đức: Một chân.
(*) Tiếng Đức: Ngay lập tức.
“Giờ phút đó Lojzík, với chữ ký của chính tay lão Oberhuber, được thả về như là người thương binh một chân. Vì Lojzík là một thanh niên khôn lỏi nên nó lập tức nộp đơn để nó, một thương binh nặng, năm nào cũng được gạch tên khỏi danh sách nam giới có nghĩa vụ quân sự và được hưởng phụ cấp thương binh. Nhưng làm nghề thợ bánh mì thì nó phải có cả hai chân, dù là chân cong như người ta nói về thợ bánh mì, cho nên khi ai đã có giấy chứng nhận là chỉ có một chân thì người đó không thể được làm nghề của mình. Với những thủ tục hành chính phức tạp cần thiết nó được chứng nhận là thương binh bốn mươi nhăm phần trăm, trên cơ sở đó nó được nhận ngần nấy tiền trợ cấp thương binh hằng tháng. Được, thế là trang sử về cái chân bị mất bắt đầu từ đó.
“Từ khi ấy Lojzík nhận trợ cấp thương binh, nó giúp bố nó trong lò bánh mì và sau đó cưới vợ, nhưng đôi khi nó quan sát và thấy rằng cái chân của nó mà lão Oberhuber không công nhận hơi bị khập khiễng và trông hơi lạ; nhưng nó cũng mừng, rằng trông hơi giống như đi chân giả. Chiến tranh kết thúc và nước Cộng hòa* ra đời, nhưng Lojzík nhờ sự quy củ và nhân đạo của chế độ vẫn tiếp tục được nhận trợ cấp thương binh.
(*) Nước Cộng Hòa Tiệp Khắc cũ tách ra từ Đế quốc Áo vào năm 1918.
“Có lần nó đến gặp tôi và tôi thấy ngay là nó có điều gì lo lắng. Chú ạ, nó buột miệng sau một lát, cháu có cảm giác rằng cái chân cháu nó ngắn lại hay khô đét đi. Và nó rút chân ra khỏi ống quần cho tôi xem; cái chân đã nhỏ như cái que. Cháu sợ quá chú ạ, Lojzík nói, có khi cái chân này teo mất.
“Thì cháu đi khám bác sĩ đi, ngốc ạ, tôi khuyên nó. Chú ạ, Lojzík than thở, cháu nghĩ đây không phải là bệnh mà do cháu không được phép có chân. Rõ ràng trên giấy tờ cháu đã mất chân phải đến tận đầu gối, chú có nghĩ là do đó chân cháu teo đi không?
“Sau một thời gian nó lại đến thăm tôi, lần này nó phải chống nạng. Chú ạ, nó nói đầy đau xót, cháu là thương binh thật rồi. Cháu không thể đứng với cái chân này nữa. Bác sĩ nói rằng đây là bệnh teo cơ, chắc là do thần kinh. Ông ấy gửi cháu đi suối khoáng điều trị, nhưng cháu có cảm giác là chính ông ấy cũng không tin điều này. Chú ạ, chú sờ mà xem, chân cháu lạnh ngắt, cứ như là nó chết. Bác sĩ bảo là do máu lưu thông kém, chú có nghĩ là cái chân này sẽ thối rữa không?
“Lojza à, cháu nghe này, tôi bảo nó, chú chỉ cho cháu một lời khuyên: cháu hãy đăng ký hành chính cho cái chân này đi và yêu cầu họ gạch cái từ một chân ra khỏi tên cháu. Chú nghĩ rằng sau đó cái chân sẽ khỏi.
“Nhưng chú ạ, Lozík cự lại, họ sẽ bảo rằng cháu nhận trợ cấp thương binh phi pháp và cháu đã gian lận của nhà nước nhiều tiền. Và rồi cháu phải trả lại tiền cho họ!
“Thế thì cháu cứ giữ tiền, đồ nướng bánh hà tiện ạ, tôi nói, nhưng cháu sẽ mất chân. Và đừng có đến kêu với chú nữa.
“Sau một tuần nó lại đến. Chú ạ, nó than thở ngay khi đến cửa, ủy ban không muốn thừa nhận cái chân này; họ bảo chân đã teo rồi và không cần nữa, cháu phải làm gì đây?
“Các ông không thể tin nổi Lojzík phải chạy bao nhiêu lần để được công nhận về hành chính, rằng nó có hai chân. Nhưng tất nhiên là sau đó Lojzík gặp rắc rối vì gian lận tiền trợ cấp của nhà nước, thậm chí có thể bị xử vì việc trốn trách nhiệm nghĩa vụ quân sự. Tội nghiệp Lojzík, nó phải chạy hết từ phòng này đến phòng nọ, nhưng chân nó bắt đầu khỏe ra. Có thể chân nó khỏe ra là vì nó phải chạy ngần nấy, nhưng tôi nghĩ là do người ta đã chính thức công nhận chân nó; cái giấy chứng nhận hành chính thực sự có sức mạnh to lớn. Hay là tôi nghĩ rằng chân nó bị teo là do nó có chân không hợp pháp; việc như thế không ổn và phản lại con người. Tôi xin nói với các ông rằng giữ lương tâm trong sáng là môn vệ sinh tốt nhất và nếu người ta ngay thẳng thì có lẽ người ta sẽ không phải chết.”