Phần Thứ Hai - Cầu Chơn
Mưa liên tiếp trút nước trong ba ngày đêm. Đường sá lụt lội, sình lầy trơn trợt. Có chỗ nước dồn lại từ các dốc mà đổ xuống, thành những con suối sâu và rộng chảy như cắt. Đã tám giờ rồi, mà ánh sáng mặt trời chưa xé mây nổi mà bắn được tia nào. Mây đen và dày nghịt báo hiệu rằng sẽ còn những cơn mưa dữ dội nữa.
Đại úy Đặng Võ Cầu Chơn dẫn hai đại đội, phân làm sáu toán mà len vào sáu con đường mòn của khu rừng nầy. Chàng luôn luôn để ý nghe trong máy viễn thông, những tin tức do các phân đội báo cáo lại, và mỗi phút báo cáo tình hình chung cho cấp chỉ huy. Trí chăm chú như thế, mà không ngăn được những hình ảnh chớp nhoáng mau lẹ xẹt vào lòng chàng.
Mười hai năm trước, chàng đỗ tú tài, được bác sĩ Bái cho tiền sang Pháp học. Và chàng học toán, tính để dự bị thi vào các trường lớn, hầu trở nên kỹ sư. Nhưng chàng lại đổi ý, ghi tên học khoa học, để tìm cách lập một lý thuyết, để giải thích lắm hiện tượng mà khoa học bây giờ chưa giải quyết nổi. Rồi năm ấy, hai nhà bác học Trung Hoa, dựa vào quan niệm âm dương mà đưa ra một phát kiến mới về cơ cấu của vật chất, nên được giải thưởng Nobel. Chàng suy tư để tìm ra do đâu mà cổ nhân quan niệm được thuyết âm dương nầy, và dân tộc nào đã phát kiến trước nhứt cái quan niệm ấy. Chàng thị kiến, thấy hình như dân tộc Việt là thỉ tổ của thuyết nầy. Rồng là Lạc Long Quân, là dương. Tiên là Âu Cơ, là âm. Sự kết hợp của dương và âm, Rồng và Tiên sinh sinh hóa hóa. Chàng viết thơ về nhờ cha tìm tài liệu để cho chàng nghiên cứu về Kinh Dịch, thì cha chàng khuyên chàng nên về mà học với một bực thâm nho, vì theo vị nầy, có lắm chỗ nên biết, mà ở trong sách không có chép.
Cầu Chơn vâng lời cha về xứ. Mỗi tuần chàng dạy học ít giờ để sống, còn từ sớm đến khuya chàng nghiên cứu với vị thâm nho. Nhờ cha chàng vừa tìm được một ông đồ vừa phát minh một phương pháp đặc biệt để dạy chữ Hán, người thông minh và có một trình độ học thuật rộng, chỉ mất ba bốn tháng thì đọc sách được, nên chàng đã học ngay được Kinh Dịch. Ông đồ nho dạy chàng cũng là bạn với cha chàng, thấy chàng thông minh, nên thương tình mà gả con gái cho. Lúc chàng cưới vợ, thì vợ chàng sắp sửa làm dược sư.
Vợ chàng giữ được truyền thống của nhà nho, hễ con gái thì phải lo đảm đang chẳng những lo việc tề gia nội trợ, mà còn phải xoay xở cách nào cho có tiền nuôi chồng ở không ăn học. Là một nhà trí thức tân thời, nàng Phuơng Lan, vợ chàng, hiểu rằng khi xưa, nếu các bà đồ buôn tảo bán tần, để nuôi các ông đồ ăn học, để rồi "lều chõng" hầu đoạt công danh, thì ngày nay công danh của một nhà trí thức tân thời không phải là đổ đạt để làm quan nữa. Công danh ngày nay là làm nhà bác học, làm nhà tư tưởng đem những viên đá khối to mà lấp cái hố của dốt nát, hầu loài người xây đắp lần lần con đường tiến tới của văn hóa. Vợ chồng đang xây mộng đẹp, thì loạn ly nổi lên. Cầu Chơn bị động viên, ngót năm năm, chàng bị thương ba lần, tham chiến vài trăm trận, lần lượt đến chức đại úy.
Tham chiến vài trăm trận, chàng chưa hề nao lòng lần nào. Nhưng lần nầy, chàng thấy lòng se lại. Không phải vì chàng dẫn có hai đại đội, còn đối phương là cả sư đoàn khét tiếng, từ miền Bắc mới do đường rừng mà kéo vào, với những quân thiện chiến, với võ khí tối tân do các nước Cộng sản vừa gởi đến viện trợ. Không có cấp chỉ huy nào cắt nghĩa cho chàng rõ. Song trí thông minh của chàng đã đoán biết. Vai trò của hai đại đội của chàng là vai trò của miếng mồi để nhử cho cọp rời hang đá mà ra vồ thịt. Nói theo binh pháp cổ truyền, ấy là điệu hổ ly sơn. Chàng biết trước rằng khi quân của chàng đâm phủng vào trận tuyến của đối phương, cả sư đoàn 325 ùa ra nghinh chiến, thì một lệnh sẽ lập tức truyền cho chàng giả thua, kéo quân rút lui chậm chậm. Để cho quân địch đuổi theo đến gần bờ biển... Rồi lúc ấy, phi cơ từ các hàng không mẫu hạm sẽ nối nhau mà bay lên vù vù, cứ nhắm sau lưng sư đoàn 325 mà dội bom, để lùa sư đoàn ra càng gần mé biển. Chừng đó, từ các chiến hạm, súng đại bác sẽ nhả đạn. Và trong lúc đạn của đại bác và bom nhả xuống, vàng thau khôn phân, ngọc đá lẫn lộn, có thể hai đại đội của chàng và cả chàng, cũng chia mà hứng lấy...
Nhưng không phải vì vậy mà lòng chàng se lại.
Lòng chàng se lại, bởi vì vị chánh ủy của sư đoàn 325, có quyền tối hậu quyết định, thì, theo sự báo cáo của nhân viên tình báo, là trung tướng Phi Hùng, một danh tướng của Việt Cộng. Nhưng không phải bởi chàng chỉ là một đại úy mà phải đụng độ với một danh tướng, nên chàng nao núng. Chàng nao núng, bởi vì từ năm 1953, nhờ chị chàng là Cầu Trang thuật lại, Phi Hùng là anh cả của chàng, tên thiệt là Đặng Võ Cầu Minh. Và số phận oái oăm, trong cuộc chiến tranh nầy, hai anh em ruột lại mỗi người đứng một bên mặt trận.
Một hai tiếng nổ báo hiệu rằng cánh quân của chàng vừa gặp dân quân du kích. Họ bắn một hai phát rồi rút lui, dụ chàng sấn vào sào huyệt. Chàng đoán biết rằng sẽ lọt vào sào huyệt. Nhưng chàng đã lãnh lịnh là cứ việc sấn vào, cho đến khi nào được lịnh rút lui. Chàng ra lịnh cho quân cứ tiến, mà lòng băn khoăn, không hiểu Phi Hùng phản ứng bằng cách nào.
2Trong một hang đá, ánh sáng chập chờn như trời nhá nhem tối. Mây vừa xé, rót một vài tia vàng chói xuống cụm rừng, thì trong hang hơi sáng lên, để cho nhận rõ hai người đang nói chuyện. Một người tuổi gần sáu mươi, một người dưới tuổi năm mươi, nói chuyện nhau bằng tiếng Tàu, giọng nói Bắc Kinh. Người trẻ nói:
- Theo tin tức vừa bắt được thì có ba toán quân, mỗi toán hai đại đội, một toán từ phía Bắc kéo xuống, một toán từ phía Nam kéo lên và toán thứ ba từ mé biển kéo vào, cả thảy đều hướng vào khu nầy. Như vậy là chúng đã biết rõ tổng hành dinh của sư đoàn ta đóng tại đây. Chúng biết ta có cả sư đoàn, mà chúng chỉ đưa có sáu đại đội, tôi nghĩ là quỉ kế. Đồng chí cố vấn nghĩ sao?
Người già hơn đáp:
- Không nghĩ sao cả! Đồng chí Phi Hùng há quên mạng lịnh sao? Dầu chúng nó có sáu đại đội, dầu chúng nó có sáu tiểu đoàn, đường lối duy nhất của ta là dùng chiến thuật biển người mà tận diệt.
- Nếu chúng chỉ đưa ít quân xông trận như vậy, tôi e chúng dùng đó làm miếng mồi để nhử cho ta ra khỏi đám rừng nầy. Ở trong rừng, quân ta núp sau gốc cây, ta thấy địch, địch chẳng thấy ta. Ấy ta có cái thế bách nhị của quân Tần thuở trước. Dầu cho chúng có đem hai ba sư đoàn đến giao chiến với ta, ta cũng không sợ. Hơn nữa, quân ta ẩn dưới tàng cây, máy bay địch không thấy để dội bom.
- Đồng chí Phi Hùng lầm! Ta phải đem quân ta bày ra chỗ trống cho phi cơ địch thấy. Chúng thấy, chúng bu lại oanh tạc. Từ dưới, súng phòng không của quân đội Trung Hoa vừa sáng chế có trang bị bằng ra-đa, sẽ bắn rơi vài chục chiếc. Ấy là chiến thuật "thả gà con dụ diều hâu, để bắn chúng". Sợ gì phi cơ của họ? Súng phòng không của ta bắn bách phát bách trúng, như Tiết Đinh San xạ nhạn!
- Nếu chúng ta biết thả gà con bắt diều hâu tụ lại mà bắn chúng, thì cũng nên đề phòng địch cũng biết thả dê mà điệu hổ ly sơn. Hổ rời khỏi núi, xuống đồng bằng, chúng thả bầy chó săn ra vây, cũng khó lòng cho hổ. Đồng chí Lâm Đường khá đề phòng.
Lâm Đường cười khắc khắc đáp:
- Ta đã từng tham chiến với chúng. Chúng không có mưu kế gì đâu. Có gì thắc mắc, chúng bấm nút máy tính điện tử mà nhờ máy trả lời giùm. Năm 1950, ở Triều Tiên, võ khí chúng ta còn kém cỏi thô sơ, trên chiến trường chưa phân thắng bại. Chỉ vì ta mới vừa có chánh quyền ở lục địa, mà trình độ kinh tế không cho phép ta kéo dài một cuộc chiến tranh trường kỳ. Vì vậy mà lúc ấy chúng ta chấp thuận một cuộc ngưng chiến. Bây giờ khác hẳn...
Phi Hùng suy nghĩ rất lâu rồi chậm chậm nói:
- Tình thế bây giờ khác hẳn với tình thế năm 1950, tôi cũng đồng ý như vậy. Mười lăm năm trước đây Nga và Hoa thành một khối thống nhứt. Còn bây giờ mặt trận cộng sản rạn nứt khắp nơi.
Lâm Đường tỏ vẻ căm tức, vỗ vế chửơi thề!
- Tỉu na má! Bọn Nga nầy thật là "bành xạch"!
Phi Hùng can gián:
- Đồng chí Lâm Đường quá giận mà mất trầm tĩnh, quên dùng tiếng phổ thông lại văng tục bằng thổ ngữ Quảng Đông! Phạm kỷ luật của quân đội rồi đó?
- Không giận sao được! Cuộc làm ăn sắp thành công, sắp chia hùn đến nơi mà bọn Nga xé rào, toan bắt tay với đế quốc, chủ trương xét lại chủ nghĩa Mác Lê, lấy cớ là gọt rửa chủ nghĩa Staline. Chúng quên rằng không có Staline dẫn dắt từ năm 1923, đến năm 1953, nếu trong ba mươi năm ấy mà ở nước Nga, Trotsky lãnh đạo, thì đã tự sát trong một cuộc phiêu lưu, còn nếu bị Boukharine cầm đầu, thì đã hóa ra một quốc gia tư bổn.
Phi Hùng không đáp, nghĩ rằng, nếu năm 1923 chánh quyền không vào tay Staline mà vào tay Trotsky, thì lịch sử ở nước Tàu đã đi theo chiều hướng khác, thì phong trào ở Đức chưa ắt đưa Hitler lên cầm quyền, thì chưa ắt có thế chiến thứ hai, và ngày nay, mình là trung tướng chánh ủy của một sư đoàn, bề ngoài có tiếng là tối hậu quyết định, mà thực sự, nhứt cử nhứt động đều do vị cố vấn Tàu ra lệnh cả. Đến như những cảm nghĩ mình, chàng cũng chẳng dám nói ra, sợ lộ tông tích là trước kia, chàng có nuôi chút ít cảm tình với nhóm Đệ tứ ở Sài Gòn. Chàng nhớ lại, vợ con chàng thảy ở trong bàn tay của chánh phủ Hà Nội, gia đình của em chàng, Cầu Nghiêm, mắc kẹt ở Bắc Hàn, và ngay bản thân chàng, mặc dầu là chánh ủy của sư đoàn, nếu chàng thố lộ ý gì, thì trong hàng đội viên, tức khắc có người nhảy ra bắn cho chàng vài viên đạn. Vì vậy mà chàng không đáp.
Chàng đang ở trong thắc mắc ấy, thì trong máy truyền thông, đã có tiếng báo cáo:
- Toán thứ nhất, hai đại đội do đại úy Đặng Võ Cầu Chơn chỉ huy, đã tiến gần sát bản doanh, chỉ còn cách một cây số.
Nghe tên Đặng Võ Cầu Chơn, Phi Hùng biến sắc. May là ở trong âm u của hang đá, nên Lâm Đường không nhận thấy mặt của vị trung tướng đã lăn lóc gần hai mươi năm ở chiến trường nầy, lần thứ nhất đổi màu.
3Chiếc xe jeep ngừng ngay trước nhà thuốc Phuơng Lan. Một thiếu úy rời khỏi xe, bước vào, đến đứng trước quày. Cô bán hàng hỏi:
- Thưa thiếu úy, thiếu úy muốn dùng thứ chi?
- Tôi không mua thuốc. Tôi cần gặp bà chủ. Xin cô báo cho biết có thiếu úy Tùng từ Đà Nẵng mới về, muốn gặp bà Đặng Võ Cầu Chơn.
Trong một phòng thí nghiệm, tường cẩn gạch kiểu láng bóng trên một cái bục lát bằng gạch, ba cái bình thủy tinh đặt trên lò điện, trong bình nước sôi sục sục. Ở góc có một máy tính điện tử, mấy kệ sách bằng thép sơn, chứa những sách dày cộm. Trên bàn viết, một cái kiếng hiển vi to tướng đặt kề một quyển sách đã giở ra. Cả một bức tường bị một tấm bảng đen gắn dính vào, trên bảng, có những phương trình toán học, những công thức hóa học. Phuơng Lan, mặc blouse trắng, dáng rất suy nghĩ, bước chậm chậm trong phòng, thì cô bán hàng gõ cửa bước vào thưa:
- Thưa bà, có thiếu úy Tùng từ Đà Nẵng về, muốn gặp bà.
- Em mời ông vào đây...
Tùng bước vào. Phương Lan chào và mời ngồi nơi ghế bành đặt trước bàn viết của nàng. Tùng móc túi lấy ra một bao thơ dày cộm, đứng dậy cầm hai tay mà dâng cho Phương Lan và nói:
- Thầy Cầu Chơn có thơ nầy gởi cho thím.
Phương Lan tiếp lấy, lấy cái rọc bao thơ mà mở thơ ra, vừa nói:
- Khác nhau chỉ có mấy tuổi, em đừng gọi như vậy.
- Cháu vốn là nhờ thầy dạy dỗ cho, thì người vợ của thầy, tất nhiên cháu phải gọi bằng thím.
Phương Lan bận đọc thư chồng, không cãi về lối xưng hô nữa. Đọc xong, nàng hỏi:
- Anh Cầu Chơn có dặn miệng điều chi không?
- Thưa không. Nhưng cháu có một cái tin xin báo cho thím. Thím nên bình tĩnh mà nghe báo cáo nốt...
Phương Lan nghi là tin chẳng lành, mặt tái đi. Hai bàn tay run run, mặc dầu đặt vững trên bàn viết. Nàng nghe khô cả lưỡi, cả môi, mặc dầu nàng ớn lạnh cả người. Thấy nàng vậy, Tùng nói:
- Xin thím yên tâm. Cháu về đây để trấn tĩnh lòng thím. Có thể thím sẽ được tin gọi là "chẳng lành". Song thím còn nhiều hy vọng. Thím hay tin cháu đi.
Tùng móc túi lấy một tấm giấy nhỏ, trình cho Phương Lan và nói:
- Đây là tuồng chữ của thầy. Thím xem lấy mà làm bằng.
Phương Lan tiếp lấy đọc. Miếng giấy chỉ có mấy chữ: "Anh còn sống. CC của Phương Lan". Nàng đọc đi đọc lại, nhìn kỹ từng nét, coi có phải là chữ của chồng chăng. Nàng lật đi lật lại mảnh giấy, thấy dấu xếp bàu nhàu, dấu mồ hôi dính lộn với những cái lem luốt... Tùng kể:
- Thầy Cầu Chơn lãnh lịnh kéo quân dụ địch ùa ra gần mé biển, để cho máy bay từ các hàng không mẫu hạm, cất lên một lượt dội bom vào chỗ xô xát, và để cho các đại bác từ các chiến hạm nhả đạn xuống. Số người chết của hai bên rất nhiều. Nhiều cái xác không nhìn được là của ai. Vì nó đã nát như thịt đã quết nem. Và sau khi kiểm điểm lại, thì thầy Cầu Chơn mất tích. Đã chết rồi chăng? Ban tham mưu nghĩ như vậy. Vì nếu thầy còn sống sót, mà đi lạc, thì mấy ngày sau đã về được rồi. Bởi chỗ dội bom gần sát mé biển lắm. Thầy đã bị địch bắt rồi chăng? Ít có thể xảy ra việc ấy. Vì các máy bay dọ thám chẳng thấy dấu một người nào chạy thoát về phía rừng núi. Chạy về phía đó thì bị bắn chết hết. Chỉ có chạy ra phía ngoài biển thì mới sống sót. Nhưng lại bị lượm bắt không sót một người. Chắc có lẽ thím sẽ được giấy tờ cho hay rằng thầy Cầu Chơn mất tích. Nhưng mà ba ngày sau, có một đứa nhỏ xách một con vịt vừa mặt áo lá, đến Đà Nẵng mà hỏi thăm thiếu úy Tùng. Gặp cháu, nó đứa con vịt và nói:
- Ông thiếu úy kiếm chỗ kín đáo mà mổ con vịt. Trong có cái thơ của đại úy Cầu Chơn gởi cho bà.
Tôi nhận lấy con vịt, cho nó một ngàn đồng bạc, nhưng nó không lấy, lập tức biến đi. Tôi đem mổ con vịt, trong ruột có cái ống đựng có mảnh giấy mà thím cầm trong tay mà thôi.
Nghe xong Phương Lan thở phì, nhẹ nhõm...
4Nghe Phương Lan thuật xong, Cầu Lệ nói:
- Như vậy thì thằng Chơn còn sống và hiện đang làm tù binh của Việt Cộng. Làm tù binh mà có thể gởi một bức thư lậu từ chiến khu cộng sản đến tay một thiếu úy quốc gia, hẳn không phải là dễ!
- Thưa chị năm, tuy là không dễ, nhưng hãy có thể tưởng tượng được. Trong bức thơ của ba con Phương Huệ gởi về cho em, trước khi anh ra trận, anh có nói rằng nghe đâu vị chánh ủy của sư đoàn 325 là trung tướng Phi Hùng. Mà Phi Hùng, theo lời của chị tư Cầu Trang, lại là anh hai của mình, tức là anh Cầu Minh đó.
Cầu Lệ cắn móng tay, suy nghĩ lung lắm, rồi nói:
- Sang Âu Châu chị đã đọc rất nhiều sách nói về tâm địa và chánh sách của bè lũ Staline. Mà phái Mao Trạch Đông lại là phái Staline chánh cống. Không khéo đây, anh hai vì tình huynh đệ mà che chở cho thằng Chơn, rồi bị tình nghi, mà liên lụy cả hai anh em. Không biết chừng nào anh ba Cầu Nghiêm cũng bị nghi kỵ luôn.
Phương Lan cắn móng tay có vẻ nghiền ngẫm. Cầu Lệ nhìn nàng, cố ý đoán xem nàng nghĩ gì. Một chập Phương Lan nói:
- Chị làm ơn quản lý hộ viện bào chế và hiệu thuốc cho em, săn sóc cho cháu Phương Huệ, thay em mà làm mẹ nó. Kinh doanh của em, em thuê một đồng nghiệp đứng tên. Còn cho nó chạy, tất nhiên phải có người nhà.
- Còn mợ đi đâu?
- Em sẽ sang Hồng Kông, do con đường Cảu Lùng mà vào lục địa của Trung Hoa Cộng sản.
- Krawchenko rời chủ nghĩa mà tìm tự do. Mợ lại đi tìm độc tài à.
- Không đâu chị, em đi tìm chồng. Con người tự do, dầu sống dưới ách nô lệ, vẫn là tự do. Kẻ nô lệ, ngất ngưởng trên ngai vàng, vẫn là nô lệ. Hiện nay, trong cái thế giới cộng sản, Tàu là nước mà độc tài khắc khe hơn tất cả. Trong lúc mà Nga và các nước Trung Âu, tiến theo lối xã hội chủ nghĩa đa phương, thì Tàu gò bó trong đường lối độc tôn, độc khối. Bên kia cởi mở lần lần, bên nầy càng ngày càng siết chặt. Tánh anh Cầu Chơn thẳng thắng, cứng rắn, uốn cong không được. Phải có em ở bên cạnh, dịu mềm, điều khiển thì mới thắng họ được. Thầy em luôn luôn dẫn Kinh Dịch mà dạy em từ thuở bé: dĩ nhu thắng cương.
- Thằng Cầu Chơn mất tích ở Bình Định. Mợ sang Cảu Lùng làm sao mà gặp nó?
- Khi mà Cơ Đốc giáo ngự trị thế giới, người ta đã nhận thấy rằng tất cả đường lối đều dẫn đến La Mã. Ngày nay, ắt trong vùng Cộng sản gò bó, tất cả đường lối đều dẫn đến Bắc Kinh. Em sang Cảu Lùng, rồi do đường bộ lên Bắc Kinh. Đến Bắc Kinh, em sẽ gặp ba Phương Huệ, rồi cả anh hai và anh ba nữa.
- Bi đát! Bi đát! Gia đình Đặng Võ ta vốn chống với chánh sách Staline, mà số mạng ruổi dong, lại mắc vào lưới của dư đảng của Staline. Dân tộc Việt vốn là kẻ thù vạn kiếp của đế quốc Tàu, thì lịch sử ruổi dong xô dân Việt ra làm tay sai cho Tàu thao túng trên bàn cờ thế giới. Con và dâu họ Đặng Võ thảy đều sẽ vào nanh vuốt của Tàu Cộng. Chỉ còn hai gái, chị Cầu Trang và chị đây mà thôi.
- Nữ sanh ngoại tộc. Vì vậy mà em gởi Phương Huệ cho chị tư và chị nuôi. Phỏng nó là trai, có lẽ số mạng cùng xô nốt nó trong họng của sư tử.
5Từ khi Phương Lan có chồng, ngoài công việc riêng của nàng, công việc của một dược sư, nàng đã cố gắng để làm thơ ký đặc biệt của chồng, kiêm cả vị mê-xen cung cấp tất cả phương tiện cho chồng làm việc. Nghe chồng trầm trồ cái máy tính điện tử, giúp cho cả nhà toán học giải quyết trong vài giây những phương trình vi tích mà các nhà toán học đại tài phải nhiều ngày mới hy vọng tìm ra, thì nàng dành dụm, mà sắm cho chồng một máy tính tối tân.
Nhờ máy ấy mà, mặc dầu toán học nàng đơn sơ, nàng dõi theo chương trình của Cầu Chơn không đến đổi khó lắm. Và khi Cầu Chơn bị động viên nhập ngũ, thì nàng tiếp tục giúp chồng để Cầu Chơn có thể luôn luôn bằng thơ mà cộng tác với vợ để đeo đuổi sự nghiên cứu.
Hai vợ chồng nghiên cứu gì? Đề tài đầu tiên thuộc về một vấn đề lý thuyết. Nếu đem trình bày ra, sợ e lý thuyết quá khó khăn, làm chán độc giả. Nhưng nếu không van lơn độc giả chịu khó mà nuốt cho trôi liều thuốc đắng là đoạn lý thuyết khó khăn nầy, thì không hiểu làm sao mà một nhà giỏi toán, chuộng khoa học như Cầu Chơn lại quay về nghiên cứu Kinh Dịch. Vậy xin nói phớt qua phần lý thuyết đầu tiên nầy. Nhưng, đối với các độc giả khó tánh, người chép chuyện xin mách trước rằng quý vị nên bỏ đoạn năm của chương nầy, miễn là quý vị hiểu ngầm cho rằng bởi vì Cầu Chơn hé thấy rằng thuyết âm dương, nguyên tắc căn bản trên ấy xây dựng Kinh Dịch, lại cũng có gì phảng phất với nguyên tắc căn bản của máy tính điện tử.
Lúc Cầu Chơn tùng học ở Paris, học xong hai năm toán học đặc biệt tại Lycée St-Louis và đỗ rất cao trong cuộc thi vào trường Bách Kỹ, chàng sang Thụy Sĩ mà nghỉ hè. Nơi núi cao chớn chở, hùng vĩ và nguy nga, nơi một làng hẻo lánh ở cao chót vót, vào mùa hè mà thỉnh thoảng có rơi tuyết như vào dịp Cha Noël viếng trẻ em và biếu quà cho chúng, chàng thông cảm với vũ trụ bao la, và tìm cái nguyên tắc nào mà tất cả có thể gom vào một mối được. Nhơn một tối ngồi bên lò sưởi mà đọc tạp chí, ngẫu nhiên chàng đọc được một bài báo nói về những máy tính điện tử tối tân, trong nháy mắt đã giải quyết những phương trình vi tích mà nhà toán học đại tài để hàng tháng mới tìm ra manh mối. Chàng thấy nói máy tính ấy là cả một hệ thống chằng chịt về những "duyên" mà vai trò của mỗi duyên là giải đáp bằng một cách đơn giản: có hay không.
Mùa hè năm ấy, Cầu Chơn chui đầu vào phòng để viết một luận án mà chàng đặt nhan đề là: "Nguyên tắc mâu thuẫn của Aristote và máy tính điện tử". Viết xong luận án, chàng xét lòng, thấy lúc trước mê kỹ thuật bao nhiêu, thì bây giờ chàng mê lý thuyết khoa học bấy nhiêu. Khi hết mùa hè sắp sửa về Paris để khởi năm học mới, chàng viết thơ cho trường Bách Kỹ rằng chàng rút lui mà không vào trường nầy. Chàng lại ghi tên học toán ở Viện Toán Học Henri Poincarré và luôn ở Collège de France.
Trọn năm ấy, hễ cắm đầu vào sách để dõi theo chương trình dạy dỗ của hai trường nầy xong, thì chàng lại đến vườn Luxembourg mà ngắm cảnh. Khi tuyết rơi, khi hoa đua nở, biến thửa vườn nầy thành bức tranh khổng lồ màu sặc sỡ, chàng lại nghĩ đến những nguyên tắc đang chi phối vạn vật. Chàng lại thấy cái nguyên tắc mâu thuẫn của Aristote khó khăn hẹp hòi và nghèo nàn. Tất nhiên, nó chỉ nói đến một phần nhỏ của sự thật. Rồi chàng giải quyết được tất cả vấn đề tương phản giữa cái luân lý hình thức của Aristote và cái luân lý biến chứng của Hégel mà chàng thấy rằng cả hai chỉ là những cạnh khía của một cái thực thể bao quát hơn. Cái nầy là cái thuyết âm dương của phương Đông.
Và cuối năm, chàng lại xin thông hành mà đi nghỉ hè ở Na Uy, đến một làng hẻo lánh, sống với dân la bông mà nhìn "mặt trời không khi nào lặn", tập quen nếp sống một năm chỉ có "một ngày", sáu tháng tối trong âm u của ban đêm, sáu tháng rực rỡ của ban ngày. Ở đây, một ngày là một năm. Cái nhìn của chàng bị nhơn lên đến 365 lần. Vũ trụ quan của chàng khoáng trương theo tỷ số đó. Chàng không thấy cái vũ trụ của chàng còn bị bó hẹp trong cái không thời gian của Einstein nữa. Chàng lấy một tập giấy mà viết những trầm tư của mình chung quanh vấn đề thuyết "âm dương, luân lý hình thức và luân lý biến chứng". Và chàng cũng bắt đầu muốn học Kinh Dịch. Rồi chàng nhờ Kinh Dịch mai mối mà chàng được vợ là Phương Lan, một gái gương mẫu của Việt Nam, gồm tất cả những đức tánh quí hóa của người đàn bà đảm đang xốc vác gánh tất cả gánh nặng gia đình để gầy dựng sự nghiệp cho chồng. Mà chồng nàng xây mộng lập lý thuyết khoa học, thì Phương Lan biến thành một nàng nghiên cứu khoa học nốt... để phụng sự cho chồng.
Tư thái nầy làm cho Cầu Chơn cảm động lắm. Khi ở nhà thì chàng cắm đầu ở phòng làm việc mà nghiên cứu, bên cạnh cái máy tính điện tử mà Phương Lan chắt mót để mua cho. Bây giờ tùng quân, chàng không nghỉ suy tư. Nghĩ được cái gì, thì lập tức ghi vào giấy má gởi về cho vợ lắp vào hồ sơ. Gặp phương trình nào khó, chàng gởi về cho vợ để nhờ máy tính giải quyết cho. Càng đi sâu vào sự suy tư chàng càng thấy rằng Kinh Dịch đã đặt những nguyên tắc đầu tiên cho tất cả sự suy luận của thời nguyên tử. Những câu, thái cực sanh lưỡng nghi, lưỡng nghi sanh tứ tượng, tứ tượng sanh bát quái, ấy là những phương trình dầu có thể thể hiện trong máy tính điện tử bằng ba cái duyên đầu. Đáng lẽ duyên càng tăng lên, thì sự sanh sanh hóa hóa sẽ đến chỗ vô cùng, song người xưa chỉ thấy tám lập phương, thành ra 64 quẻ của Kinh Dịch. Và bởi họ chưa biết toán học cao cấp, nên chưa thấy rõ rằng số 6, là số hào của một quẻ, chỉ là biểu của 64 diễn ra bằng hình thức 26. Và đáng lẽ trong 64 quẻ của Kinh Dịch, phải có 64 cái động cho mỗi quẻ và do đó mà sanh ra 2r2 biến, người xưa chỉ đếm được 384 biến mà thôi, bởi nghĩ rằng trong mỗi quẻ có 6 hào, thì 64 quẻ nhơn cho 6, chỉ sanh ra 384 biến...
Những phát kiến của những nhà bác học Tàu được giải NOBEL chứng minh lý thuyết của chàng. Rồi phi hành gia Nga, rồi Hoa Kỳ, bước ngoài phi thuyền để đi chân đạp vào không gian lại chứng minh thêm cho lý thuyết chàng nữa. Và những tài liệu mà Cầu Chơn vừa thảo xong và nhờ thiếu úy Tùng mang về cho vợ vừa đặt công thức cho sự phát mình không tiền khoáng hậu trong khoa học. Và chính là sau khi nghe chồng vướng vào lưới Việt Cộng mà nàng nghĩ rằng nàng có thể mang phát minh ấy mà trình cho Mao Trạch Đông. Đó là phương pháp duy nhất để cho Phương Lan sống bên cạnh chồng thân yêu. Không vậy, chồng ở bên thế giới bên kia, vợ ở thế giới bên nầy, năm năm chẳng có chim ô thước đội cầu, Ngưu Lang của thế kỷ XX đâu có hy vọng nào để gặp nàng Chức Nữ của thời đại nguyên tử?
Đó là luận điệu mà nàng đã trình bày cho chị chồng là Cầu Lệ. Cầu Lệ còn vướng đôi chút ngần ngại, thì nàng thuyết thêm rằng:
- Tính nhà của em là như vậy. Mà đứng về nghĩa chung cho nhân loại, có thể ba con Phương Huệ cùng em có thể thuyết phục cho Mao Trạch Đông tạm trở về thuyết cộng tồn của năm 1954, bằng lòng tạm đình chỉ chiến cuộc ở Việt Nam, với hy vọng rằng nhờ phát minh của ba con Phương Huệ, mà nước Tàu sẽ làm chủ địa cầu và vũ trụ... chẳng tốn viên đạn. Nếu được vậy, miễn cho bao nhiêu người đàn bà Việt Nam bớt khóc chồng sinh ly hay tử biệt, bởi cuộc chiến tranh thường trực.
Lời kết luận ấy làm cho Cầu Lệ xiêu lòng.
6Phương Lan đã nộp đơn để xin thông hành đi Hồng Kông. Ngoài chị chồng là Cầu Lệ ra, nàng dấu không cho ai biết mưu định của nàng. Nhưng đối với Cầu Lệ, chẳng những nàng chẳng dấu, mà luôn luôn nàng hỏi kinh nghiệm và ý kiến. Một hôm nàng nói:
- Chị năm à! Em chỉ học dược, nhờ dõi theo chồng mà làm quen chút ít với phương pháp suy tư của khoa học lý thuyết. Nên em không phải là triết gia. Tuy vậy, em cũng không thể xao lãng với những băn khoăn của triết học. Chị có đọc nhiều sách triết không, chị?
- Chị đọc một mớ tiểu thuyết hiện sinh, một vài cuốn triết lý hiện sinh... Em hỏi chi vậy?
- Em muốn hỏi chị có ý kiến chi về sự phân tranh giữa duy tâm và duy vật?
Cầu Lệ chau mày khá lâu, đáp:
- Mỗi cái có phần đúng của nó, có phần sai của nó.
- Có phải là chị thấy rằng phần sai của duy vật chính là chỗ đúng của duy tâm; còn phần sai của duy tâm lại là chỗ đúng của duy vật chăng?
Cầu Lệ suy nghĩ, rồi chậm chạp đáp:
- Mẹ con Phương Huệ tế nhận chỗ ấy, có lý lắm.
- Xin phép chị cho em đưa lập luận của em. Không thể nào duy vật hoàn toàn đúng được. Và cũng không thể nào duy tâm hoàn toàn đúng được. Em lại đi xa hơn nữa. Duy vật không thể nào tách rời duy tâm, mà đứng cô đơn một mình. Cả hai, duy tâm và duy vật, không phải là thực thể. Vì lẽ đó mà có thể vì chúng nó như hai cái mặt của chung một mề đay. Câu nói đó là một hình dung thô sơ mà thôi. Thật ra, tâm và vật có thể quy về thuyết âm dương, một bên là âm một bên là dương. Ba con Phương Huệ thường cắt nghĩa. Âm dương là hai quan niệm, mới có khi mà ngôn ngữ loài người tiến đến mức có thể rèn ra tiếng trừu tượng được. Song ở trong văn hóa Việt Nam cũ xua, chưa có tiếng trừu tượng để dùng, thì tổ tiên mình lại hình dung bằng hai hình ảnh Rồng và Tiên.
- Thằng Chơn cắt nghĩa cho mợ làm sao về điểm nầy?
- Ảnh dạy em rằng Rồng là nguyên tắc của đàn ông là dương nên tượng trưng cho Lạc Long Quân. Nó cũng là sức mạnh, là hành động. Còn Tiên là nguyên tắc của người đàn bà là âm, nên tượng trưng cho bà Âu Cơ. Nó cũng là tế nhị, là lý thuyết. Hai cái đó phải đi cặp với nhau, mới có sự sống được. Còn nói theo danh từ triết học bây giờ, Rồng là duy vật, Tiên là duy tâm đó.
- Có phải là hai vợ chồng em chủ trương dung hòa duy tâm và duy vật chăng?
Phương Lan lắc đầu mà nói:
- Không phải là dung hòa. Tâm và vật có thể ví như trai và gái. Mới sơ sanh, đứa trẻ nào ý thức được rằng nó là trai hay gái đâu? Khi được mấy tuổi rồi, trẻ con mới ý thức cái tính của nó. Gái ý thức trước hơn trai, cũng như thuyết duy tâm xuất hiện trước duy vật. Rồi trải một lúc, trai và gái không chơi với nhau, kỵ nhau, ghét nhau. Đó là giai đoạn mà duy tâm và duy vật chống đối nhau, tử thù nhau...
Nhưng một ngày kia cả hai đứa thảy trưởng thành, rồi hấp dẫn nhau, mê nhau, thiếu nhau thì sống không nổi. Đến mức phải lấy nhau mà sinh con đẻ cháu. Vợ chồng em không phải chỉ chủ trương cho Tâm và Vật phải dung hòa nhau. Còn hơn nữa kìa! Tâm và Vật phải yêu nhau, phải lấy nhau, sanh con đẻ cháu, thì sự sống mới miên trường. Chớ cả hai Duy Tâm và Duy Vật kích bác nhau, chống đối nhau, đó chỉ là hình thức thiếu nhi của nhân loại nói chung và cả triết học nói riêng...
Chuông điện thoại reo. Phương Lan lật đật lấy kê vào tai nghe và nói:
- Bác sĩ Trần Tuấn Kiệt à? Chào bác sĩ... Tôi sẽ đi ngay và cho chị năm tôi cùng đi nữa... Ra khỏi thành phố ít lắm là mười lăm phút. Từ đầu xa lộ, đến Dưỡng trí viện tôi sẽ đi với hết tốc độ. Tôi sẽ đến trước mười giờ! Chào bác sĩ!
Phương Lan vội vã thoát blouse, mặc áo dài rồi cùng Cầu Lệ ra xe, tự mình lái lấy. Nàng vừa lái vừa tiếp tục nói chuyện:
- Vấn đề Tâm Vật mà tôi đặt ra cho chị lúc nãy, có một tầm quan trọng đặc biệt. Những kẻ thuần túy duy tâm, tôi kể cả những người vỗ ngực xưng mình duy vật mà hành động thật là duy tâm, tưởng rằng chỉ cái biến tư tưởng của Mao Trạch Động và bè đảng, là xong xuôi cả. Vì vậy mà họ viết báo để thuyết phục, gởi du thuyết đến gặp để dụ. Họ tin rằng tư tưởng của Mao Trạch Đông chi phối cho cả đường lối của Trung Hoa Cộng sản rằng ý thức hệ của Mao là đấng tạo hóa của vũ trụ. Trái lại những kẻ duy vật thuần túy, tôi kể cả những người vỗ ngực xưng mình là duy tâm mà hành động thật là duy vật, tưởng rằng đối phó với Trung Hoa Cộng Sản, chỉ có thể dùng áp lực quân sự kinh tế, kỹ thuật để cải biến hoàn cảnh của nước Tàu. Họ bao vây kinh tế, họ chuẩn bị chiến tranh để thay đổi điều kiện vật chất của Tàu.
Phương Lan mê mãi trong tràng lý thuyết, suýt tí nữa là thắng không kịp, mà cán một đứa nhỏ vừa mới vọt ra. Cầu Lệ can thiệp:
- Em ra xa lộ sẽ nói tiếp! Rủi mà có tai nạn, ai sống sót mà đi Cảu Lùng để cứu thằng Chơn.
- Em không chết đâu! Mà rủi em có chết thì chắc chắn là chị phải sang Bắc Kinh mà áp dụng cái quan niệm của em về Triết học nầy.
Xe vừa thoát khỏi cậu Phan Thanh Giản, Phương Lan nhấn ga cho nó chạy bon bon trên xa lộ. Tiếng gió chạy ngược nghe ù ù. Nàng phải nói lớn lên để Cầu Lệ nghe cho rõ.
- Theo em, phải cùng một lượt cải biến cả tư tưởng và hoàn cảnh. Nói theo danh từ triết học, cần phải áp đúng cả duy tâm và duy vật. Vì quan niệm nầy, mà em đến viếng bác sĩ Trần Tuấn Kiệt.
- Chi vậy?
- Em nghe nói bác sĩ Kiệt có tìm ra được một thứ thuốc, hễ uống vào thì máu bớt hăng, lòng căm thù bớt, dạ ích kỷ nhụt, mà người hóa hiền lành, khoan hồng, vị tha.
- Điều ấy có thể được không em?
- Có thể lắm! Nhưng kết quả một phần nào thôi. Như khi thuốc đã đi rồi, thì cái tự nhiên mau mau trở lại. Chính là lúc thuốc đang có công hiệu, thì ta dùng tư tưởng, biện luận, mà cải biến đường lối của họ đi...
- Thiệt không?
- Thiệt chứ! Chị đọc tiểu thuyết thấy nói ở Nga có thứ thuốc, hễ uống vào, thì đương sự nói cả sự thực, bí mật gì cũng khai ráo. Mấy chục ngàn năm nay, người ta đã biết uống rượu. Rượu há không phải là một thứ thuốc ảnh hưởng nhiều đến tâm lý của người uống sao?
7Ngọ Thu lái chiếc xe Mercédès chạy với tốc độ vừa vừa trên xa lộ. Ông Ulrich ngồi bên cạnh, trong túi có cái máy ghi âm chỉ to hơn gói thuốc một chút, mà cái micro lại làm giống như đồng hồ đeo tay. Ông thường dùng cái máy mini phơn để ghi tất cả lời qua lại, mỗi lượt phỏng vấn người nào. Rồi cuộn dây thép đã ghi chép lời, được Ngọ Thu cho đọc lại chậm chậm, để cho nàng đánh mày thành nháp, hầu Ulrich sửa chữa, thêm tả cảnh khi cần. Giữa nàng gái Huế và nhà văn Đức lớn tuổi, sự cộng tác đã dệt một cảm tình nồng hậu gần như thân yêu của cha con. Ngọ Thu đã bỏ luôn dự định thi vào sư phạm để làm giáo sư. Nàng cũng nghĩ đến việc tiếp tục học trường dược để đoạt cho được một cái bằng dược sĩ. Với cái bằng ấy, một đứa con gái nghèo như nàng sẽ làm gì? Lập một hiệu thuốc tây ư? Muốn có một hiệu thuốc nhỏ, ở một phố có qua lại, đừng quá tệ như một tiệm tạp phô các chú, nàng sẽ cần một số vốn khá rộng để sang một căn phố, đóng tủ kệ, mua chứa hàng hóa: tính nhón nhón, hơn hai triệu bạc. Nếu nàng có hai triệu bạc, thì nàng chẳng lập hiệu thuốc để làm gì. Nàng sẽ cho xuất bản quyển Thái Hòa Kinh bằng tiếng Đức, như Hồ đã khuyên nàng. Mà làm sao nàng có được hai triệu bạc để lập tiệm thuốc tây? Có bằng dược sư chỉ có thể cho thuê mảnh bằng ấy cho một nhà tư bản khai thác. Nàng sẽ không ở nhà ngửa tay lãnh một tháng hai chục ngàn. Còn ở không mà ngứa ngáy chịu không nổi thì đi ngồi lê đôi mách, đến thơ viện đọc tiểu thuyết, hết kiếm hiệp thì hiện sinh. Đọc chán quá thì viết chơi, rồi để bản thảo nằm vào đáy rương đợi khi chết rồi, hậu thế tìm thấy mà khai thác. Chớ ở xứ Việt Nam nầy sách vở không bán ngoài các thành phố lớn được, sách hay và dễ đọc, bán chạy một ngàn quyển phải mất cả năm. Còn loại sách tư tưởng như của nàng viết, trong mười năm, họa may bán được một trăm quyển. Nhưng không phải cái viễn đồ bán sách bằng tiếng Việt không chạy làm cho nàng bỏ cái nếp sống mà nàng đã nghĩ hai năm trước. Nàng thấy rằng cuối thế kỷ thứ XX, bởi ý thức hệ tư bản và cộng sản chơi nhau, mà cả nhân loại mắc vào vòng, loạn ly, thì tiếng gọi "thái hòa" của nàng phải được mọi dân tộc cùng nghe. Chớ tiếng thốt ra bằng tiếng Việt chẳng thâm nhập vào đại chúng, len lỏi vào tâm hồn của những người cầm tay lái của thế giới, thì tiếng nói ấy làm sao mà biến thành lực lượng có chút khả năng mà biến chiều của lịch sử?
Càng gần Ulrich, càng rèn luyện thêm tiếng Đức, càng trau dồi ngôn ngữ của Goethe và Nietzche, và nhứt là càng thực tập trông nom công việc viết lách và sáng tạo của một nhà văn lão luyện là Ulrich nàng bỏ cái mộng dịch Thái Hòa Kinh từ tiếng Việt sang tiếng Đức, mà nàng lại xây cái mộng khác, là đem những suy tư cũ mà mặc cho một lớp áo mới tức là viết lại hoàn toàn. Nàng không khởi Thái Hòa Kinh bằng "Chuyện Con Thằn Lằn Chọn Nghiệp" mượn ở một tác giả khác. Mà nàng lại sáng tác một cốt chuyện huyền thoại khác để nhập đề. Cốt chuyện nầy năng đặt tên là "Lời Nhắn của Bà Âu".
8Ngày xưa,
Người ta nói là cách bốn ngàn năm nay. Song thời xưa, thiên văn học còn quá ấu trĩ, cách làm lịch có thể chưa xuất hiện, thì cái quan niệm "năm" không giống như bây giờ. Vì vậy mà có những huyền thoại như ông Bàn Cổ sống tám trăm năm, nhưng vua Phục Hy, Thần Nông trị vì quá lâu, quá mức tưởng tượng. Nhưng ta chớ bận lòng về sự đo lường thời gian ấy, mà chỉ nghĩ nhớ rằng là lâu, lâu, lâu lắm mà thôi. Ta chỉ nhớ rằng việc xảy ra vào thời xưa, xưa lắm lắm.
Thuở ấy, từ vùng mà nay gọi là Động Đình Hồ, đến chỗ mà nay gọi là đèo Ngang, sớm xuất hiện một cái văn minh, khác hơn tất cả những cái văn minh đồng thời khác. Như ở phía trên Động Đình Hồ, loài người sống bằng sự săn thú, giết thú mà ăn thịt, bắt thú con nhốt nuôi đề phòng những khi thời tiết xấu mà săn chẳng có gì; rồi sau dạy dỗ những loại dễ uốn nắn làm gia súc. Còn phía dưới đèo Ngang thì loài người lại sống về cách bắt cá. Nơi vùng mà văn minh nầy xuất hiện là một nơi khí hậu ôn đới, đất phì nhiêu, cỏ cây thịnh vượng mà không đến đỗi bị đại thọ choán hết. Nhờ vậy mà có nhiều loại cây có trái ăn ngon, thêm bổ dưỡng. Người nầy thử, nếm, dạy cho người kia, nên họ chú trọng hái trái mà ăn, ít nguy hiểm hơn là việc săn thú mà họ phải đương đầu với loại dữ và ít nguy hiểm hơn là mò cá mà họ phải gặp rắn, thuồng luồng, sấu giết hại họ trở tay không kịp. Cái văn minh sớm hiện nay, bây giờ ta tạm gọi là văn mình ăn trái (để phân biệt với cái văn minh ăn thịt, thịt của thú hay thịt của cá). Và nơi vách các động đá là nơi trú ẩn đầu tiên, khi họ chưa biết cất nhà, họa sĩ của họ thường vẽ hình trái cây, khác nơi ở động đá do người săn thú, bắt cá mà hình vẽ là hình thú và hình cá. Hình trái cây thường được vẽ là một hình trái tròn, xẻ ngang giữa, bày dấu của tám cái hột nhỏ, phía trên ló một cái lá, dưới có dính cái cuống còn mang hai lá. Chính là cái hình này lần lần biến đi, đến nay thành chữ Việt. Và những bộ lạc sống ở vùng này, tham gia vào cái văn minh này, được gọi là Bách Việt.
Người cầm đầu cho những bộ lạc Bách Việt này, huyền thoại gọi là Lạc Long Quân. Một huyền thoại khác cho người ấy là Rồng. Vợ là bà, huyền thoại gọi là Âu Cơ, vì bà đẹp đẽ lắm. Một huyền thoại khác bằng vào sự đẹp ấy, cho bà là Tiên. Và huyền thoại lại nói hai vợ chồng bất hòa, chia trăm đứa con làm hai, vợ dắt năm mươi lên núi, chồng dắt năm mươi xuống biển. Nhưng huyền thoại không nói rõ dòng giống, của kẻ lên núi bây giờ ở đâu, còn dòng giống của kẻ xuống biển bây giờ ở đâu. Đó là một điểm mà các sử gia, bằng vào huyền thoại không để ý đáp lại để làm thỏa tò mò của người nghe huyền thoại và độc sử Việt...
Bốn ngàn năm đã qua. Trong bốn ngàn năm ấy, loài người tập cái thói, hễ điều chi óc mình không quan niệm nổi, trí mình không giải thích nổi, thì loài người không cố gắng tìm hiểu rồi tìm thế mà thực hiện cho được. Trí óc lười biếng của họ làm cho họ sáng tạo ra đấng thiêng liêng nầy nó, có phép mầu, có quyền vạn năng. Loài người không chịu tìm cho bằng, hay hơn các thiêng liêng do trí họ sản xuất ra, mà vẽ hình dựng tượng lập bàn thờ để chiêm bái ban ơn cho mình. Thái độ đó làm cho người muốn đem sức sáng tạo của người làm chủ tể cho hành động đành thúc thủ vô sách. Đó là cái "hiện sinh" căn bản, bao trùm tất cả, chi phối tất cả "hiện sinh" khác của loài người. Hiện sinh nầy đã tượng trưng bằng sự rút lui về núi của bà Âu Cơ, hình ảnh của trí. Còn ông chồng là Lạc Long Quân lại xuống biển. Ấy là hình ảnh hành động bị trầm luân trong cái thái độ người chối cái vạn năng của tinh thần sáng tạo của mình, lại để cho hành động bị chi phối không phải bởi trí tuệ, mà bởi quyền lợi, bản năng, hận thù...
Nếu Nietzche nghiên cứu ý nghĩa của thần thoại Hy Lạp, của bi kịch Hy Lạp, của tu từ Hy Lạp mà lập thuyết của mình, thì Ngọ Thu lại nghiên cứu ý nghĩa của các thần thoại thuần túy Việt Nam, mà xây dựng lý thuyết của Thái Hòa Kinh; mà nàng đặt thêm cho một nhan đề phụ là "Lời Nhắn của bà Âu".
9Bà Âu là Tiên, là mẹ sanh của cái văn minh đầu tiên của loài người mà xuất hiện ở vùng ôn đới của Cực Á Đông. Bà là Đẹp Đẽ, ấy là gồm cái Mỹ. Bà là Tiên, ấy là gồm cả Thiện, cả Chân, cả Trí Tuệ và sản phẩm của Trí Tuệ là lý thuyết.
Chồng bà là Rồng, là cha đẻ của cái văn minh ấy. Mặc dầu thiên biến vạn hóa, khi ẩn, khi hiện, khi núp nơi đầm mà thu mình vào con cù, khi cỡi mây lướt sóng, Rồng cũng chỉ là thú, chưa đạt đến trình độ người, lựa là đến bực siêu nhân là Tiên. Rồng tượng trưng cho sức mạnh, cho hành động. Mà hành động lại bị bản năng, tình cảm, ưa, ghét, hận thù chi phối...
Rồng và Tiên lấy nhau mà sanh ra cái văn minh. Vì ăn quả là tượng trưng của sự thành công của Trí Tuệ. Trí Tuệ đã biết nếm trái nào ăn ngon và bổ dưỡng, biết ươn trồng, gieo cái nhân để ngày kia hái quả. Mà kẻ trồng cây phải đem công phu, phân bón, vun quén, tưới nước và nhẫn nại đợi chờ. Nghề trồng cây cũng là một nghề luôn luôn cần phải cải tiến, canh tân. Nào đem giống mới về mà gieo ở vườn nhà cho vườn thêm tân kỳ, thạnh mầu. Nào khai khẩn đất mới và tốt. Nào dùng đủ thuật chọn giống, chấp cây để cho trái càng thêm quý. Nó là một quá trình thường xuyên để cố gắng làm cho cao quý đẹp đẽ hơn. Ý nghĩa ấy làm cho người phương Tây mượn chữ culture là một chữ rút ở nghề trồng trọt, có nghĩa là trồng trọt để gọi cái văn hóa.
Cái văn hóa không mượn tiếng của nghề săn mà gọi mình. Săn có nghĩa gì là cải tiến canh tân đâu? Săn là giết, để lấy thịt mà ăn. Săn là bắt thú mà nhốt lại để dành bữa khác mà làm thịt. Có cải tiến canh tân ấy là cải tiến võ khí. Anh thợ rừng, tìm được chất thuốc độc để tẩm tên mình, hễ bắn trúng con thịt, thì nó chết tức khắc, chỉ làm cho kỹ thuật giết chóc tiến đến tuyệt đỉnh. Thì mấy ngàn năm trước, Phục Hy là thần tượng cho cái nghề săn thú bắt thú, nào phải tượng trưng cho Văn hóa? Tượng trưng cho văn hóa, là Thần Nông là kẻ sáng lập ra nghề trồng trọt để tìm cái ăn mà nuôi người, là kẻ nếm trăm thứ cỏ để tìm thuốc trị bệnh cho người.
Hơn bốn ngàn năm sau, Phục Hy và Thần Nông ở ngay trong lòng của mỗi người, trong các khối dân. Pha được thuốc pháo tín đồ của Thần Nông chế các loại, pháo bông, pháo thăng thiên để giúp cho người lạ tai vui mắt. Tín đồ của Phục Hy lại chế ra súng đại bác để giết được nhiều người và công hiệu hơn là đấm đá hay dùng dao mác.
Vào cuối thế kỷ XX, khi tinh năng nguyên tử xuất hiện, thì tín đồ Phục Hy tìm cách chế ra bom nguyên tử để giết một lượt mấy trăm ngàn người. Còn cũng với tinh năng nguyên tử tín đồ Thần Nông lại tìm cách trị bệnh, canh cải nghề nông, khoáng trương tinh lực và nâng cao mức sống của người.
Các sử gia Tàu không hiểu ý nghĩa của huyền thoại, chép rằng vua Phục Hy có trước vua Thần Nông. Lầm to! Lầm to! Không có ông nào tên là Phục Hy, cũng không có ông nào tên là Thần Nông. Mỗi ông thảy sống dài đằng đẳng. Đó là hai tượng trưng cho cái văn minh liên tục và vươn lên hoài, thành cái Văn hóa, cái càng ngày biến cho con người càng đẹp đẽ hơn, cho người trở nên NGƯỜI.
Dân tộc Việt chỉ nhận mình là con cháu của Thần Nông. Trong bản năng, dòng sử của người Việt là dòng văn hóa. Lạc Long Quân không ý thức được điều đó. Vợ là Âu Cơ là cái tinh thần văn hóa. Rồng bởi còn thú tánh tiếp cận với tín đồ của Phục Hy mà sa đọa của chồng lôi cuốn theo. Đó là cái ly vị vĩ đại trong dòng sử của người Việt. Âu Cơ dắt năm mươi con lên núi, hình tượng trưng cho sự vươn lên. Lạc Long Quân dẫn năm mươi con xuống biển, hình ảnh tượng trưng cho sự trầm luân cho sa đọa. Và mấy ngàn năm sử của dân Việt là mấy ngàn năm của năm mươi đứa con theo Lạc Long Quân, lặn hụp trong trầm luân, khổ ải trong sa đọa.
Đau đớn đã biến thành cái bản thể của người Việt. Người Việt không có anh hùng cả, không có loại thơ hùng và vui tươi. Thơ người Việt là thơ của rên siết, của khóc than, của tuổi phận, của đoạn trường. Nhạc của người Việt là nhạc của sầu thảm, của thổn thức, của não nề. Không vậy sao được? Vì Rồng và Tiên từ mấy ngàn năm đã ly dị nhau? Phân tích ý nghĩa của huyền thoại Rồng Tiên, tổ tiên người Việt, Ngọ Thu đã dẫm chơn theo Nieztche là kẻ đã tìm ý nghĩa của thần thoại Hy Lạp.
10Bà Tiên Âu Cơ sau bốn ngàn năm ly dị với chồng là Rồng, xa cách năm mươi con, khắc khoải tình của vợ, tình của người mẹ. Cái bi của Thích Ca vì nhân loại, thế nhân chưa sống được cái bi ấy nó não nuột thế nào. Chớ cái tình yêu chồng, thương con của bà Âu Cơ, tất cả đàn bà đều có sống, đều biết nó deo dắt đến mức nào! Văn nhân, thi sĩ đã tìm được những giọng bi ai để mượn miệng người chinh phụ tựa cửa trông chồng mà buột than, mà chẳng có đứa con cháu nào của bà Âu Cơ, tách rời bà suốt bốn ngàn năm, lại cất tiếng mà khóc bà, mà nhớ bà. Bị chồng là Rồng bỏ rơi, bị con cháu lãng quên, có đau khổ nào bằng đau khổ của bà Tiên Âu Cơ? Mà nào phải bà kéo năm mươi con kia lên núi vì bà đã phạm tội đâu? Bà ra đi, vì chẳng muốn cho tất cả con bà không thảy ngụp lặn trong trầm luân, vương vấn trong sa đọa!
Trầm luân và sa đọa ấy là thời hạ ngươn, thời của ai ai cũng tưởng mình thành công bằng tranh đấu, tưởng mình đè lên đầu người thì chắc chắn mình sẽ ngoi đầu cao hơn người. Nào có dè mỗi ai thảy đấu tranh, mà kỹ thuật giết chóc đưa đến tuyệt đỉnh, thì không còn kẻ thắng người bại, mà cả thảy phải tận diệt. Rồng là bản năng, là hành động, rồng không thấy điều đó. Tiên là lý trí, là suy nghĩ, tiên ý thức điều đó từ ngàn xưa. Một cuộc ly dị kéo dài cả mấy ngàn năm, mà Rồng chưa tỉnh ngộ. Tiên có thể nhẫn nại mà chờ một vài ngàn năm nữa, cho chồng và cho con phản tỉnh. Nhưng khoa học và kỹ thuật không cho phép triển hạn sự phản tỉnh. Phải phản tỉnh ngay, bằng không thì khoa học và kỹ thuật sẽ dùng bàn tay của những cá nhân nuôi mộng làm Siêu Nhân, của những dân tộc nuôi mộng làm Siêu Dân Tộc mà đốt cháy tan địa cầu.
Trước thềm của thời đại nguyên tử, loài người đã được một lần cảnh cáo. Hitler nuôi mộng làm Siêu Nhân, đem mộng mê hồn thổi vào lòng dân tộc Đức: mộng ấy là mộng làm Siêu Dân Tộc. Cá nhân muốn làm Siêu Nhân, dân tộc muốn làm Siêu Dân Tộc, điều ấy không đáng trách, lại nên khuyến khích. Đáng trách là nắm lấy khoa học và kỹ thuật mà làm võ khí để đấu tranh, toan dùng bạo lực mà đè đầu tất cả để cho một mình mình lên. Đáng trách là vâng lệnh bản năng mà chẳng tuân lời của Trí Tuệ. Hitler đã đốt ngòi cho thế chiến thứ hai, đem tàn phá và tang tóc gieo rắc khắp hoàn cầu trong suốt mấy năm. Rối nước Đức thua, rồi Hitler chết trong nguyền rủa của loài người.
Mà chỉ không đầy hai mươi năm lời cảnh cáo ấy chẳng còn được nhớ. Mao Trạch Đông mê say với giấc mộng Siêu Nhân, đem cái mộng làm Siêu Dân Tộc mà thổi vào lòng tám trăm triệu dân Tàu để cho họ làm tấm ván nhún mà nhảy phóng theo đường lối của Hitler đã nhắm. Bà Âu đứng trên cái thế của bốn ngàn năm suy tư, mà cả tiếng kêu gọi con cháu bà: "Làm Siêu Nhân, làm Siêu Dân Tộc, chỉ có con đường sáng suốt của bà vạch từ bốn ngàn năm mới dẫn đến đích. Phải vươn lên. Phải về núi, núi tượng trưng cho cao cả, cho cái nhìn thấy rộng và xa. Phải thành Tiên. Chớ nên mê mãi xuống biển, tượng trưng cho trầm luân sa đọa.
Dân Việt mà theo bà, thì trăm đứa con trở lại thành anh em, chấm dứt cái cảnh năm mươi lên núi, năm mươi xuống biển. Dân Việt mà theo bà, thì đem Tình Thương và Tha Thứ lấp hố Chia Rẽ và Hận Thù. Dân Việt mà theo bà, ấy là Dân Việt làm Siêu Dân Tộc, hướng dẫn loài người rời ngươn của tranh đấu, của tự diệt bằng căm hờn và hận thù, tức là cái hạ ngươn, để bước sang ngươn của Tình Thương, là ngươn Hạnh Phúc, là Thượng Ngươn Dân Việt mà theo bà, ấy là Siêu Nhân xuất hiện, vị Siêu Nhân ấy là thủ lãnh của Siêu Dân Tộc. Tín đồ của Phật mừng rỡ, hoan nghinh, cho Siêu Nhân ấy là Maitreya giáng phàm để chỉnh lại cái pháp. Tín đồ của Ki Tô, ca ngợi cho Siêu Nhân ấy là Đấng Christ tái lâm. Ai cũng cho đất Việt là đất lành bởi vì bấy lâu nay, Rồng theo cái văn minh của Phục Hy, dầu thiên biến vạn hóa, rồng vẫn là thú. Còn bây giờ, bước qua thượng ngươn, Rồng sẽ theo cái văn minh của Thần Nông. Tượng trưng cho sự chuyển thân ấy, rồng biến thành cây. Và cây Rồng lại trổ hoa. Và người Việt mong chờ cái hội mà Rồng trổ hoa trên đất Việt, mà tóm tắt họ gọi là hội Long Hoa.
Người Việt làm Siêu Nhân, Dân Việt là Siêu Dân Tộc, ấy không phải là dẫm theo vết chân của Hitler hay của Mao Trạch Đông. Bà Âu Cơ đã từ bốn ngàn năm cất tiếng gọi theo bà. Và Ngọ Thu nghe được tiếng gọi của bà, chép tiếng gọi ấy làm bộ Thái Hòa Kinh, là bộ kinh nhật tụng của loài người trong mấy ngàn năm của kỷ nguyên nguyên tử...
Đó, tiếng gọi đàn để thay lời tựa của Thái Hòa Kinh, Ngọ Thu đại lượt đã viết như vậy. Nàng đã duyệt đi, gọt lại mấy lần và hôm qua, nàng đưa cho Ulrich đọc qua. Suốt cả đêm, Ulrich đã đọc đi đọc lại tiếng gọi đàn này và nghiền ngẫm. Nên khi lên xe ông đã nêu cảm nghĩ:
- Thiên phóng sự mà tôi có trách nhiệm thu thập các chi tiết để làm cho độc giả Đức cảm thấy rằng chiến tranh chấm dứt năm 1945 đến nay hai mươi năm qua, lửa nội chiến vẫn ngún ở đất này và đe đốt ngòi cho cuộc chiến tranh nguyên tử. Người Việt là người đau khổ nhất về vấn đề Tồn Sinh của loài người. Ở đâu, nhạc và vũ của thanh bình làm cho người lãng quên cái Bi đát ấy. Ở Việt Nam, tiếng súng nổ bên tai, nhắc cho lòng luôn luôn thấy cái Bi đát hiện ra trước mắt. Tôi thấy triết gia Tây phương như Heidegger, Jaspers, Sartre, Camus băn khoăn về Hiện Sinh. Còn ở Việt Nam tất cả đều khoắc khoải bởi việc Tồn Sinh. Và tiếng gọi đàn của Ngọ Thu quả là tiếng bi ca của nàng, lột trần ý nghĩa của một huyền thoại dân tộc, mượn giọng nói của lịch sử mà nói được thiên chức của nhà văn hóa, của kẻ mong muốn cho người càng ngày càng cao quý đẹp đẽ hơn, cho trở nên NGƯỜI, của kẻ từ chối cái thân phận vô nhân là sau cuộc chiến tranh nguyên tử, loài người phải lần mò lại con đường là mấy chục ngàn năm trước, họ đã từ hang đá mà đi ra.
Ngọ Thu không đáp ngay, một chặp sau, nàng nói:
- Thưa ông Ulrich, từ hai ngàn năm trăm năm nay, đức Thích Ca đưa ra Tứ Diệu Đế để mà trị tâm bịnh. Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Đệ tử của Ngài dùng bốn cái ấy, biến hóa thành bốn ngàn pháp môn đệ trị liệu tâm bệnh cá nhân. Trong hàng đệ tử của ngài, chưa có vị bồ tát nào, đến những vị hiển trứ như Long Thọ, Vô Trước, Thế Thân, Huệ Năng mà đem trí tuệ mà tìm những Diệu Đế để trị liệu "nhân bịnh". Nay là lúc Maitreya phải giáng trần để tiếp nối con đường mà Thích Ca Mâu Ni mới đặt những viên đá đầu. Tất cả người Việt đều tin rằng Maitreya sẽ đến thuyết pháp trên đất Việt này...
-... trên đất mà Rồng sắp trổ hoa, cởi lớp thú, vượt lốt thú, vươn lên thành cây, mà trổ hoa sanh quả. À này cô Ngọ Thu, mấy hôm trước chúng ta có đến viếng một nhà giàu xưa, tôi thấy nơi một chậu kiểng, chủ nhân có lấy một góc mai mà gọt thành một đầu Rồng, và uốn thân cây làm thân của Rồng. Cô thấy cách chơi kiểng như vậy ra làm sao?
- Thưa ông Ulrich, câu hỏi của ông đặt ra làm sáng tỏ rất nhiều vấn đề trọng đại của triết học, mà tây phương và đ