Chương 2
Tôi, hai mươi tám tuổi, hiện độc thân.
Tốt nghiệp ở Đài Nam, nhập ngũ xong, công tác tại nơi ấy một thời gian. Sau đó công ty làm ăn thua lỗ, hai tháng liền không có lương, cuối cùng ông chủ cũng mất hút.
Đồng nghiệp mua rất nhiều trứng gà, chúng tôi ném vào cổng công ty suốt hai ngày liền. Đến ngày thứ ba thì rắc vàng mã, vừa rắc vừa hú hồn gọi lương tâm của ông chủ mau quay về.
Đến khi các bạn đồng nghiệp bàn cãi xem có nên mua quan tài về vừa khiêng vừa đấu tranh hay không thì tôi quyết định bỏ cuộc, đi tìm công việc mới.
Không ngờ đúng lúc kinh tế Đài Loan suy thoái, hàng loạt công ty đóng cửa, gây nên cuộc khủng hoảng thất nghiệp. Tìm việc làm ở Đài Nam đã trở thành mò kim đáy bể.
Vật vờ suốt một tuần, cuối cùng đành đi thử vận may ở nơi phồn thịnh nhất của Đài Loan là Đài Bắc.
Hết sức may mắn, một tháng sau tôi nhận được giấy báo trúng tuyển của một công ty tư vấn công trình ở đây.
Vậy là tôi thu dọn đồ đạc, tạm biệt thành phố Đài Nam đã sinh sống suốt hai mươi mấy năm để lên Đài Bắc.
Sau khi tới Đài Bắc, thoạt đầu tôi ở nhờ nhà một người bạn học cùng đại học. Đó là bạn thân của tôi, tôi thường giúp cậu ta viết thư tình cho bạn gái. Cậu ta rất nhiệt tình, nhường ngay căn phòng của ông nội cho tôi.
“Vậy thì ngại quá, còn ông cậu ở đâu?” Tôi hỏi.
“Ông mình á? Cậu yên tâm đi, ông mới mất tháng trước rồi.”
Tôi không cách nào từ chối ý tốt của bạn, đành ở tạm vài ngày.
Mỗi tối khi đi ngủ, cứ cảm thấy có người đang vuốt tóc, đắp chăn cho mình. Sau này nghĩ lại, thấy cứ làm phiền người ta mãi cũng không phải là cách hay, nên tôi bắt đầu đi tìm phòng để thuê.
Tìm suốt ba ngày không được căn phòng nào ưng ý.
Thực tình tôi cũng không phải là người kén chọn, nhưng những căn phòng tôi đã xem thậm chí còn không đạt tiêu chuẩn tối thiểu. Nếu môi trường không quá phức tạp, thì lại quá rối loạn, hoặc quá bẩn thỉu.
Hơn nữa có rất nhiều căn phòng thực sự là một trời một vực so với những gì viết trên tờ quảng cáo màu đỏ. Ví dụ như tôi đã từng đọc được một mẩu quảng cáo viết “Không khí trong lành, tầm nhìn khoáng đạt, trông được ra biển.” Nhưng khi đến xem phòng, mới thấy rằng dù có dùng kính viễn vọng cũng chẳng thấy tăm hơi của biển đâu.
“Chẳng phải nói là có thể nhìn thấy biển sao?” Tôi hỏi chủ nhà.
“Cậu xem…” Ông ta không ngừng vươn tay phải ra xa: “Có nhìn thấy một màn xanh biếc ở đó không?”
“Đâu?” Theo hướng tay ông ta chỉ, tôi vẫn chẳng thấy biển đâu.
“Chà chà, cậu vẫn tu hành chưa đủ.” Ông chủ nhà vỗ vai tôi: “Trong lòng có biển thì mắt khắc sẽ nhìn thấy biển.”
“Hả?” Tôi chẳng hiểu mô tê gì.
“Tới đây ở đi. Khách thuê phòng chỗ này đều là thành viên của Hội tu hành, chúng ta có thể cùng nhau tu luyện.”
“Thế có cách nào không cần tu hành mà vẫn nhìn thấy biển không?”
“Cậu đúng là vẫn u mê chưa giác ngộ được.” Ông chủ nhà buông một tiếng thở dài: “Chúng ta ngẩng đầu lên là có thể nhìn thấy trăng, nhưng không có nghĩa là chúng ta rất gần với mặt trăng, phải không nào?”
“Thế thì sao?”
“Cho nên không thể dùng mắt thường để nhìn, mà phải nhìn bằng ‘tâm’!”
Ông ta khoanh chân ngồi xuống, nhắm mắt, chậm rãi nói: “Lại đây, hỡi người trần còn nhiều cố chấp. Hãy làm theo tôi, nhắm mắt lại.”
Rồi hai tay ông ta uốn lượn trong không khí như con rắn, vẽ ra mấy đường cong nhằng nhịt, cuối cùng bắt chéo nhau: “Vứt bỏ mọi tạp niệm, hít thở nhẹ nhàng. Đã nhìn thấy chưa? Ánh tà dương đang lấp lánh trên mặt biển, xa xa những con tàu chở đầy ráng chiều đang chầm chậm tiến vào bờ. Có nghe thấy không? Tiếng sóng biển vỗ về bờ cát, vài đứa trẻ đang nô đùa trên bãi biển, một đứa không cẩn thận ngã mất rồi, nó đang gọi mẹ. Những con dã tràng trên cát cũng chui ra khỏi tổ, đang giơ càng lên chơi tù tì…”
Tôi không dám nghe tiếp nữa, vội vàng chuồn thẳng. Chẳng biết ông ta có nghe thấy tiếng tôi sập cửa hay không?
Số lần bị vuốt tóc khi ngủ càng nhiều, tôi càng nóng ruột muốn tìm một căn phòng mới. Tối hôm qua, trong mơ hình như tôi nghe thấy có ai nhắc mình “Coi chừng lạnh.”
Vậy là hôm nay vừa tỉnh giấc, tôi thấy trên người mình là một chiếc chăn dày màu đỏ, chứ không phải chiếc chăn mỏng màu vàng đắp trước khi đi ngủ. Cho nên tôi đã hạ quyết tâm, dù thế nào thì hôm nay cũng nhất định phải thuê được phòng.
“Phòng đẹp ở chung. Căn hộ chung cư, phòng 7m2. Tiền phòng theo thỏa thuận. Xin liên lạc…”
Đó là những dòng chữ trên tờ giấy đỏ dán cạnh cột điện.
Tôi ghi lại số điện thoại trên tờ giấy. Dù đây đã là số điện thoại thứ tám tôi ghi lại trong ngày, nhưng tôi vẫn quyết định thử số này trước. Mẩu quảng cáo này viết quá ngắn gọn, ngay cả tiền thuê là bao nhiêu cũng không viết, cho thấy người cho thuê chẳng có kinh nghiệm mấy.
Thông thường những người có kinh nghiệm sẽ viết những thứ đại loại như giao thông thuận tiện, môi trường lành mạnh, hàng xóm thân thiện, khung cảnh thoáng đãng…
Tôi còn gặp tờ quảng cáo viết như sau: “Hoan nghênh trở thành bạn cùng nhà của chúng tôi. Hãy trở thành chỗ dựa cho nhau trong tương lai.”
Hơn nữa, quảng cáo này còn dán phía trên một tờ thông báo “Cấm dán bậy” của Cục bảo vệ môi trường, cho thấy người cho thuê không những không có kinh nghiệm, mà còn đang cần cho thuê phòng gấp.
Có lẽ sẽ “thỏa thuận” được mức giá tốt.
Cho nên tôi đã gọi điện, hẹn giờ đến xem phòng, rồi đến đây. Cũng vì thế, tôi quen với Diệp Mai Quế, hay Hoa hồng đêm.
Nhưng khi nghe thấy cô ấy nói ra chữ “Hoa hồng đêm”, người tôi bỗng cứng đờ ra như bị sét đánh. Vì với tôi, Hoa hồng đêm là một cái tên không thể nào thân thuộc hơn.
Giống như khi nói đến tượng Nữ thần Tự Do, người ta sẽ nghĩ ngay đến New York. Trong dòng ký ức của tôi, Hoa hồng đêm chính là cuộc sống đại học. Đó là dấu ấn rõ rệt nhất, cũng là dấu ấn duy nhất.
Sau khi Diệp Mai Quế về phòng, một lúc lâu sau tôi mới định thần lại. Theo hướng tay cô ấy chỉ, tôi bước vào căn phòng mình sắp dọn đến.
Một chiếc giường đơn, một bàn học, một tủ áo, ừ, thế này là đủ rồi. Bàn học kê cạnh cửa sổ, nhìn ra phía ngoài, có thể thấy được màu xanh nơi ban công và một khoảng trời xanh thẳm.
Tôi bước ra khỏi phòng, đi vào bếp. Trong bếp có tủ lạnh, bếp điện, bếp ga, và cả lò vi sóng. Phía sau bếp còn có một ban công nhỏ, đặt một chiếc máy giặt, Diệp Mai Quế cũng phơi quần áo ở đây.
Trong phòng khách ngoài sofa và bàn trà ra, còn có một chiếc ti vi. Nếu không tính đến việc người ở cùng là nữ có vẻ hơi kỳ kỳ ra, mọi thứ khác đều rất tốt.
Trước khi ra về, tôi gõ cửa phòng Diệp Mai Quế. Hình như cô ấy đang nghe nhạc.
“Tôi đi đây. Ngày mai tôi sẽ dọn tới.”
Tiểu Bì sủa oăng oẳng hai tiếng, Diệp Mai Quế từ trong phòng nói vọng ra: “Về nhớ khóa cửa nhé, nhóc.”
Cô ta lại gọi tôi là nhóc, thật chẳng dễ chịu chút nào.
“Cô Diệp à, tôi cũng có tên đấy. Tôi tên là…”
Chưa kịp nói xong, cô ấy đã ngắt lời: “Gọi tôi Diệp Mai Quế, không được gọi là cô Diệp. Đừng có quên đấy, nhóc.”
Thôi được rồi, nhóc thì nhóc chứ sao.
Tôi đang định đi giày vào thì Diệp Mai Quế đột ngột mở cửa phòng. Tiểu Bì lại xông ra. Lần này tôi chỉ ngồi xuống, hai tay không cần phải ôm cổ nữa.
“Tiểu Bì muốn tạm biệt anh.”
“Ừ.” Tôi xoa đầu Tiểu Bì. “Tiểu Bì ngoan, mai chú dọn đến nhé!”
“Ê này nhóc, anh nhạo tôi đấy hả?”
“Đâu có.”
“Tôi chỉ là chị của Tiểu Bì, mà anh lại dám xưng là chú nó?”
Tuy hơi bất lực, nhưng tôi vẫn sửa lại: “Tiểu Bì ngoan, mai anh dọn đến nhé.”
Tôi đứng dậy, Tiểu Bì cũng đứng lên theo, chân trước lại gác lên thắt lưng của tôi.
“Có thể cho tôi biết, tại sao Tiểu Bì lại thích anh đến thế không?”
Diệp Mai Quế hết nhìn Tiểu Bì lại nhìn tôi.
Có lẽ do cô ấy di chuyển ánh nhìn nhanh quá, chưa kịp thay đổi, nên trong ánh mắt nhìn tôi vẫn còn vương lại nét dịu dàng dành cho Tiểu Bì, thậm chí còn phảng phất chút kiều diễm của một đóa hồng vừa hé nở. Từ khi tôi bước vào căn phòng này, ánh mắt của Diệp Mai Quế tuy không thể nói là hung dữ, nhưng vẫn có phần lạnh lùng. Ngay cả khi mỉm cười cũng thế. Mắt cô ấy ráo hoảnh, không long lanh nước và ăm ắp nhiệt tình như một số cô gái khác.
Mắt Diệp Mai Quế giống như một miệng giếng khô sâu thẳm, nhìn vào bên trong, chỉ biết được là rất sâu rất sâu, nhưng không thể biết được có những gì ẩn chứa nơi đáy giếng.
Một người bạn từng nói với tôi, nhìn vào mắt một người có thể biết được người đó có tâm sự hay không. Ai cũng đều có thể giả vờ cười nói, giả vờ phẫn nộ, giả vờ đau khổ, nhưng không thể nào che giấu được sự ấm áp hay sâu thẳm trong ánh mắt.
Dường như chỉ khi nào nhìn Tiểu Bì, Diệp Mai Quế mới giống một bông hồng đêm đang nở. Tôi chưa từng nhìn thấy ánh mắt của bông hồng đêm Diệp Mai Quế, vì thế khi cô hỏi xong, tôi sững người lại mấy giây.
Nhưng chỉ mấy giây ngắn ngủi thôi, đã đủ để sự ấm áp trong ánh mắt ấy trở về với nhiệt độ bình thường.
“Nhóc, đờ đẫn gì thế? Trả lời đi chứ.”
“À, tôi cũng chẳng biết tại sao. Có thể vì tôi đã từng nuôi chó chăng?”
“Thế à? Bây giờ thì sao?”
“Bây giờ không nuôi nữa rồi. Tôi từng nuôi hai con chó, nhưng đều bị xe cán chết.”
Nói xong, tôi lại quỳ xuống xoa đầu Tiểu Bì.
“Anh có đau lòng không?” Sau một hồi cả hai cùng im lặng, Diệp Mai Quế cất tiếng hỏi.
“Đừng hỏi những thứ mà cô đã biết câu trả lời.”
Tôi hơi tức giận, đều là người nuôi chó, lẽ ra phải biết đối với chúng tôi, chó cũng giống như người thân.
Người thân ra đi, sao lại không đau lòng cho được?
“Xin lỗi.” Cô ấy nói.
Diệp Mai Quế xin lỗi, tôi lại thấy ngại ngùng, không biết phải trả lời ra sao, không khí có phần hơi gượng gạo. Không ngờ cô ấy cũng ngồi xuống, tay trái nhẹ nhàng vuốt ve Tiểu Bì, rất đỗi dịu dàng. Cả ánh mắt cũng vậy.
“Anh biết không, trước đây tôi không hề thích chó.”
“Vậy sao cô lại nuôi Tiểu Bì?”
“Tiểu Bì vốn là một con chó hoang. Nó hay quanh quẩn ở gần tiệm tạp hóa đầu ngõ.”
Cô ấy nâng chân trước của Tiểu Bì lên, cho nó liếm má phải của mình, rồi ôm nó vào lòng.
“Khi tôi đi mua đồ, nó cứ đi theo tôi. Sau đó tôi đưa nó về nuôi.”
Rõ ràng là Diệp Mai Quế rất vui, cứ trêu Tiểu Bì mãi.
Tôi đoán khi quyết định đưa Tiểu Bì về nuôi, tâm lý cô có lẽ đã có sự chuyển biến rõ rệt. Nhưng vì đây là lần gặp đầu tiên, tôi không muốn hỏi quá nhiều. Có lẽ cô ấy cũng giống như tôi, chỉ vì cảm thấy cô đơn.
Cô đơn không giống như cô độc. Cô độc có nghĩa là cạnh mình không có ai; còn cô đơn lại là một loại trạng thái tâm lý.
Nói cách khác, khi ở trong vòng tay của những người thân quen, chúng ta không hề cô độc.
Nhưng chưa chắc đã không cô đơn.
“Cô đã nghe câu nói này bao giờ chưa?” Tôi xỏ giày vào, đứng dậy nói.
“Câu gì cơ?” Diệp Mai Quế cũng đứng dậy.
“Tình yêu giống một chú cún, theo không được mà đuổi cũng không đi.”
“Rõ vớ vẩn.”
“Tôi thấy nó thú vị chứ!”
“Thú vị? Nhóc này, óc hài hước của anh cần được bồi bổ đấy.”
“Cô cứ khăng khăng gọi tôi là nhóc mãi thế à?”
“Không thì biết gọi anh là gì?”
“Tôi họ Kha, tên là Kha Chí Hoành.”
“Ủa? Anh không phải họ Thái sao?”
“Sao tôi lại họ Thái?”
“Tôi cứ có cảm giác, anh nên mang họ Thái mới đúng.”
“Thực ra cũng không khác biệt mấy, vì họ Kha và họ Thái cũng là cùng một họ mà ra.”
“Thật á? Sao lại thế?”
“Nếu tôi nói cho cô biết rõ ngọn nguồn, thì đây không còn là tiểu thuyết tình yêu nữa mà biến thành tiểu thuyết lịch sử mất.”
“Anh nói gì cơ?”
“À, không có gì. Tóm lại là Kha, Thái đều cùng một nhà hết.”
“Vậy sau này tôi gọi anh là Kha Chí Hoành nhé.”
“Cám ơn cô. Tôi đi đây, mai gặp.”
Diệp Mai Quế lại khom người xuống, túm lấy chân phải phía trước của Tiểu Bì, đung đưa qua lại.
“Tiểu Bì, tạm biệt anh đi.”
“Ha ha.” Cử chỉ và giọng điệu của cô ấy trông rất ngộ nghĩnh, khiến tôi bật cười.
“Anh cười cái gì?” Cô ấy ngẩng đầu lên lườm tôi.
“Không có gì. Tôi chỉ cảm thấy cử chỉ và giọng điệu của cô rất dễ thương.”
“Tôi không thích bị người khác cười nhạo, anh rõ chưa?”
Giọng nói và ánh mắt cô ấy đều rất nghiêm túc.
“Tôi không nhạo cô đâu, tin tôi đi. Tôi chỉ thấy dễ thương mà thôi.”
“Ừ.”
Khi tôi đang chuẩn bị ra về, Diệp Mai Quế và Tiểu Bì cùng lúc ngẩng đầu lên nhìn tôi, ánh mắt của cả hai rất giống nhau.
“Có phải vì ánh mắt của Tiểu Bì mà cô mới quyết định mang nó về nuôi không?”
“Ừ. Khi thấy nó một mình băng qua đường chạy về phía tôi, đột nhiên tôi thấy nó rất giống mình.” Cô ấy ngập ngừng một lúc rồi nói tiếp: “Anh có thấy điều này rất khoa trương không?”
“Không đâu” Tôi cười: “Đừng quên là tôi đã từng nuôi chó, tôi biết chó sẽ rất giống chủ, đặc biệt là ánh mắt.”
“Cám ơn anh. Ngày mai lúc nào anh dọn đến?”
“Khoảng chiều tối.”
“Vậy mai gặp.”
“Mai gặp.”
Diệp Mai Quế bế Tiểu Bì trên tay, quay người đi vào phòng. Tiểu Bì tựa cằm lên vai trái cô ấy, dõi theo tôi. Trước khi vào phòng, cô ấy lại quay lại vẫy tay với tôi.
Ánh mắt của họ quả thật rất giống nhau.
***
Tôi trốn vào một góc phòng, nơi mọi tia sáng không thể dễ dàng rọi tới, vừa ngồi vừa thở. Cái vẻ vừa thở gấp vừa lau mồ hôi một cách hết sức cường điệu là để kiếm cho mình một cái cớ để không nhảy điệu tiếp theo, cũng tiện thể tránh được cái nhìn nghi hoặc của những người xung quanh.
Bởi vì, đôi khi những ánh mắt ấy ẩn chứa cả vẻ thương hại.
Ngoài những điệu nhảy mọi người quây lại thành vòng tròn ra, cứ hễ gặp những điệu cần phải mời bạn nhảy, tôi lại giống như con quỷ hút máu, rúc vào những nơi tăm tối. Trốn nhiều thành quen, đã không còn cảm thấy mình đang trốn chạy nữa.
“Sao em không mời bạn nhảy? Điệu tiếp theo sắp bắt đầu rồi.”
Sau lưng tôi vang lên một giọng nói không mấy xa lạ, tôi quay đầu lại, thoáng ngỡ ngàng.
Ánh sáng trắng rọi lên khuôn mặt bên phải của chị, khuôn mặt bên trái ngược sáng nên rất tối.
Tuy nhìn mặt chị ấy trông như Hắc bạch lang quân(1), nhưng tôi vẫn nhận ra.
“Chị, em... em không dám mời các bạn nữ.”
“Đừng có ngại.”
Chị ấy chìa tay trái nắm lấy tay phải của tôi, đi về giữa quảng trường.
“Đây là điệu Waltz, rất thoải mái lại dễ nhảy. Chúng ta cùng nhảy nào.”
Tiếng nhạc vang lên.
"I was dancing with my darling
to the Tennessee Waltz..."