Chương 4
Ngày thứ ba sau khi dọn tới nơi ở mới cũng là ngày đầu tiên tôi bắt đầu công việc mới.
Chỗ làm của tôi rất gần nhà, chỉ cách bốn trạm tàu điện.
Buổi sáng người đi làm trên tàu điện rất đông, mãi mà tôi vẫn không quen được với cảm giác chen chúc này.
May mà nếu không xảy ra động đất hay lụt lội thì quãng đường chỉ mất bảy phút, tôi có thể nhanh chóng thoát khỏi tình cảnh khốn quẫn không biết phải để mắt đi đâu này.
Chức vụ của tôi là “kỹ sư phó”, nghe ra có vẻ khá hoành tráng, nhưng thông thường nhân viên mới vào làm của các công ty tư vấn công trình đều là kỹ sư phó hết.
Ngày đầu tiên vào công ty, theo lệ thường phải tới gặp quản lý để báo cáo. Quản lý của tôi rất cao to, khoảng hơn năm mươi tuổi, tóc vẫn còn rậm, bụng bia rõ mồn một. Ông nhanh chóng đưa tôi tham gia một tổ công tác về lụt lội và thoát nước đô thị, bởi vì ở phương diện này, tôi có một số kinh nghiệm làm việc.
Ngày đầu tiên đi làm thông thường cũng không có quá nhiều việc, tôi chỉ cần nắm rõ nhà vệ sinh nam và bàn làm việc của quản lý ở chỗ nào là ổn. Thảm một nỗi, bàn làm việc của quản lý ở ngay sau lưng tôi, trong giờ làm rất khó trốn việc.
Trong công ty còn có mấy cô kỹ sư nữ, họ ăn mặc cũng không khác gì các cô gái công sở khác, đều là đồ công sở, váy bó, và có trang điểm. Hồi trước mấy đồng nghiệp nữ ở Đài Nam đều mặc quần bò, để mặt mộc. Nếu họ mặc váy thì đại khái là do phải đi dự tiệc cưới. Tôi nghĩ, nếu sau này khi đi taxi cùng với đồng nghiệp nữ ở Đài Bắc, có thể phải giúp họ mở cửa xe, không giống mấy đồng nghiệp nữ ở Đài Nam, khi họ cùng bạn đi tới công trình, còn có thể chung vai gánh đá với bạn. Cô nào to khỏe một tí, có khi còn gánh được nhiều hơn cả bạn ấy chứ.
Tôi dùng nguyên ngày để đọc một lượt bản vẽ mặt bằng và các tư liệu điều tra cơ bản. Liếc đồng hồ đeo tay, đã tới giờ tan ca trên lý thuyết – sáu giờ chiều, nhưng cả văn phòng không một ai có dấu hiệu muốn ra về.
Tôi thở dài, xem ra tất cả các công ty tư vấn công trình đều thế cả, mọi người đều đọ xem ai về muộn hơn. Tôi đành bật máy tính, mở một file có lẽ là bản vẽ công trình ra, bấm lần lượt hai phím “Page Up” và “Page Down” để khỏi bị phát hiện là đang giở trò lười nhác.
Khi tới trạm tàu điện chuẩn bị về nhà, đã gần tám giờ tối. Do bệnh nghề nghiệp, trước khi vào trạm tàu điện, tôi còn cẩn thận quan sát cách bài trí phòng lụt lội. Trạm tàu điện thường nằm dưới đất, nếu không thể ngăn nước tràn vào, hậu quả thật khó lường. Biện pháp phòng chống lũ của hệ thống tàu điện thông thường bao gồm hai loại, là các phương pháp ngăn không cho nước xâm nhập, và cách thoát nước nếu chẳng may không chặn được.
Độ cao của cầu thang ở lối ra vào ga tàu điện chính là phương thức cản lũ lụt tràn vào. Ngoài ra còn cần phối hợp với các cửa xếp hoặc cửa sắt ngăn nước để bảo vệ ga, lúc cần thiết cần phải đóng cửa khẩn cấp. Ngày Tám tháng 5 năm 1992, khi Hồng Kông gặp bão, đã sử dụng biện pháp này để phát huy hiệu quả ngăn nước. Tôi ngồi trên bậc thềm ở lối vào trạm tàu điện, khom người, dùng ngón tay đo độ cao của bậc thang. Có lẽ vì động tác của tôi hơi kỳ cục, nên những người đi ngang qua đều ném cho tôi những ánh mắt lạ lùng. Tôi đành đứng dậy, phủi đít, đi vào trong bến.
Lúc đợi tàu, tôi vẫn không kìm chế được mà vượt qua vạch vàng, định xem các biện pháp chống lụt phía trong đường hầm. Xét theo quan điểm thiết kế, trong đường hầm tuyệt đối không được phép để nước tràn vào. Dù lụt lội có lớn đến đâu, các biện pháp phòng chống ở cửa ra vào ga tàu điện đều có khả năng ngăn chặn. Trừ khi nước dâng quá nhanh, hoặc con người sơ suất không kịp thời đóng cửa ngăn nước, mới có thể dẫn tới việc đường hầm bị nước vào. Một khi nước đã vào được trong đường hầm, sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự an toàn của các chuyến tàu. Lúc này, biện pháp phòng chống chủ yếu nên là thoát nước, ngoài việc bố trí các rãnh thoát nước trong đường hầm ra, ở các vùng trũng cục bộ còn cần bố trí các hố giữ nước và máy bơm để thoát nước khẩn cấp.
Ngó nghiêng một hồi, cảm thấy không khí có gì đó không ổn, tôi ngoảnh đầu nhìn lại, rất nhiều người đang nhìn tôi dò xét. Ga tàu đông đúc, mà trong vòng năm mươi centimet kể từ chỗ tôi đứng, không có lấy một bóng người.
Hết sức sượng sùng, tôi lùi lại sau vạch vàng, cúi đầu ngắm giày mình, né tránh mọi ánh mắt lạ thường. Nhưng tôi sực nghĩ ra, đối với thành phố này, tôi là người xa lạ, chẳng ai quen tôi hết. Vì thế tôi cũng chẳng cần phải bối rối quá mức.
Tàu tới, tôi lên tàu. Tàu chuyển bánh, tôi nhắm mắt lại. Sau đó cảm thấy hơi rã rời, và cả nỗi cô độc và cô đơn không biết tên.
Tôi không biết, tại sao tôi lại tới nơi này?
Ban đầu khi quyết định rời Đài Nam đi Đài Bắc, tôi không nghĩ ngợi nhiều, cũng gần như có phần xốc nổi.
Bởi vì khi đó, tôi chỉ muốn “ra đi”.
Cuộc đời của mỗi con người đều chỉ có một lần và một kiểu, rất khó để thỏa mãn chúng ta. Tôi thường có suy nghĩ này, chính là rời xa “bây giờ” và “nơi này”; còn việc chạy tới “bao giờ” và “nơi nào”, tôi không bận tâm.
Tôi chỉ muốn rời đi.
Nếu công việc ở Đài Nam của tôi rất ổn định, tôi vẫn cứ muốn bỏ đi.
Chỉ là cần dũng khí.
Nhưng bây giờ công việc ở Đài Nam chẳng còn, vừa vặn cho tôi có lý do ra đi.
Tàu vào bến, tôi mở mắt ra. Thành phố này cái gì cũng nhanh, nhất là sự chảy trôi của thời gian. Có điều khoảng thời gian từ sáu giờ đến tám giờ khi tôi không biết phải làm gì cho qua, lại ì ạch khủng khiếp.
Xuống tàu, đi bộ chín phút, rẽ ba ngã rẽ là về tới cổng lớn tòa nhà nơi tôi ở. Trên đường đi, tôi ngẩng đầu nhìn bầu trời đêm, nhìn đèn xanh đèn đỏ, nhìn những tấm biển hiệu nhấp nháy của các cửa hàng, nhìn những người đi lướt qua tôi.
Khi đi bộ giữa một thành phố lạ, đôi lúc thậm chí còn cảm thấy xa lạ với chính cả bản thân mình.
Định đi thang máy lên lầu, cửa thang máy lại dán một tờ giấy: “Biết làm sao được thang máy hỏng, đành xin bạn rộng lượng thứ tha. Tuổi trẻ chăm chỉ đi thang bộ, khỏe mạnh lạc quan lúc về già.”
Lần đầu tiên gặp thang máy hỏng, tờ giấy chỉ viết có mười sáu chữ, lần thứ hai thành thơ ngũ ngôn tuyệt cú. Không ngờ lần này lại thành thất ngôn tứ tuyệt. Tôi lắc đầu thở dài, nắm lấy tay vịn thang bộ, chậm rãi nhấc từng bước trèo lên tầng 7.
“Ồ, anh về rồi à?” Tôi vừa vào tới cửa, Diệp Mai Quế ngồi trong phòng khách đã lên tiếng.
“Ừ, cô ở nhà đấy à?” Tôi đứng ngoài hành lang trả lời.
Tiểu Bì nhảy phốc từ chiếc sofa bên cạnh cô ấy xuống, chạy ra hành lang, ngoáy đuôi rối rít với tôi. Tôi bỗng cảm thấy ấm áp, vì thế bèn ngồi xuống giỡn với cu cậu. Lúc thử mỉm cười, tôi mới phát hiện ra cơ mặt của mình cứng nhắc biết chừng nào.
Nếu Diệp Mai Quế ở trong phòng khách, cô ấy nhất định sẽ ngồi trên chiếc ghế chính giữa trong ba chiếc sofa ở trung tâm. Còn nếu tôi cũng muốn ngồi, thì sẽ ngồi bên trái phía trước cô ấy, cái ghế sát về phía hành lang.
“Ăn cơm chưa?” Tôi vừa ngồi xuống, cô ấy liền hỏi.
“Chưa.” Vừa rồi tôi quên không mua cơm hộp về.
Nghe tôi nói vậy, cô ấy chẳng có phản ứng gì, hình như cũng không định nói chuyện thêm.
“Tôi nói, tôi vẫn chưa ăn cơm.” Tôi đành nhắc lại.
“Tôi nghe thấy rồi.”
“Vậy…”
“Vậy cái gì? Chưa ăn thì mau ăn đi.”
“Thế cô hỏi tôi đã ăn cơm chưa, chẳng hóa ra là đang giễu tôi à?” Tôi lầm bầm.
“Chẳng lẽ anh không biết thế nào gọi là hàn huyên à?” Không ngờ tai cô ấy lại thính thế, vẫn nghe được.
Tôi sờ mũi, leo cầu thang xuống nhà, ra tiệm đầu ngõ ăn một bát mì thịt heo dưa chua. Bát mì ấy rất khó ăn, không hiểu sao tôi cảm thấy mùi vị nó rất kỳ cục, rất khó nuốt. Hồi trước ở Đài Nam, sau khi tăng ca, đồng nghiệp toàn tụ tập đi ăn mì rồi mới về nhà. Khi đó luôn cảm thấy, bát mì của tiệm mì đêm ngon một cách đặc biệt. Bây giờ chỉ còn mình tôi thui thủi ngồi đây ăn mì, mà ông chủ cũng chẳng biết đường cắt thêm một quả trứng bắc thảo mời tôi.
Tôi ăn qua quýt vài miếng, trả tiền rồi đi. Trên đường về, tôi cứ lo sau này làm thế nào để thích nghi với khẩu vị của người Đài Bắc? Lúc trèo thang bộ lên nhà 7C, tôi lại nghĩ bao giờ mới có người ăn mì cùng mình?
“Hôm nay đi làm thuận lợi chứ?” Diệp Mai Quế vẫn đang ngồi trong phòng khách.
“Cũng coi như là thuận lợi.” Tôi cũng ngồi vào chiếc ghế gần như đã thuộc về riêng mình.
“Ngành của anh là?”
“Tôi làm việc ở công ty tư vấn công trình, là kỹ sư phó.”
“À, ra vậy.” Cô ấy quay sang nhìn tôi: “Không nhìn ra anh lại là kỹ sư. Anh là kỹ sư gì?”
“Kỹ sư thủy lợi.”
“Trùng hợp thế? Anh học Công trình thủy lợi à?”
Hình như cô ấy rất ngạc nhiên.
“Phải. Học Công trình thủy lợi đương nhiên là làm kỹ sư thủy lợi rồi, chẳng lẽ đi làm nhà văn?”
“Tốt quá rồi!”
“Sao cơ?”
“Bồn cầu trong nhà tắm của tôi bị tắc, anh sửa giúp tôi đi.”
“Cô nói nghiêm túc đấy à?”
“Tôi rất nghiêm túc, đi thông bồn cầu giúp tôi đi.”
“Đùa kiểu gì thế? Môn công trình thủy lợi có lịch sử lâu đời, vĩ đại uyên thâm, cô lại bảo tôi đem ra sửa bồn cầu?”
“Lịch sử lâu đời với vĩ đại uyên thâm là để miêu tả văn hóa Trung Quốc chứ không phải để miêu tả môn công trình thủy lợi.”
“Từ thời vua Vũ(1) đã coi trọng công tác trị thủy rồi, chẳng lẽ không lâu đời?”
Để bảo vệ sự tôn nghiêm cho chuyên ngành của mình, tôi không thể không đứng bật dậy, kích động tới mức hai tay co thành nắm đấm: “Mà phòng lụt, cấp nước, tưới tiêu, phát điện, xây đập nước, dựng đê điều, vân vân, đều là công trình thủy lợi, như thế chẳng lẽ không vĩ đại uyên thâm?”
“Anh sửa bồn cầu hộ tôi đi, tôi sẽ thừa nhận công tác thủy lợi là vĩ đại uyên thâm.”
“Chuyện này…”
“Thân là kỹ sư thủy lợi, thấy bồn cầu của bạn cùng nhà bị tắc, anh không cảm thấy sục sôi căm phẫn, cùng chung mối thù à?”
“Tôi chẳng thấy sục sôi căm phẫn cùng chung mối thù, tôi chỉ cảm thấy, chắc chắn sẽ rất thối.”
“Này, sửa giúp tôi đi mà.”
“Thôi được. Nhưng sửa xong rồi thì cô phải thừa nhận công tác thủy lợi là vĩ đại uyên thâm nhé?”
“Không thành vấn đề. Cả cái ống nước dưới sàn nhà tắm của tôi cũng thoát nước kém lắm, tiện thể anh xem hộ luôn.”
“Này!”
“Nếu anh cũng sửa được cả đường ống nước, tôi sẽ thừa nhận công tác thủy lợi có lịch sử lâu đời luôn.”
“Quân tử nhất ngôn.” Tôi đứng phắt dậy.
Diệp Mai Quế cũng đứng dậy, đi vào trong phòng. Tôi đi theo cô ấy. Phòng cô ấy là phòng khép kín, rộng hơn phòng tôi một chút, dù không tính cả nhà tắm thì vẫn cứ rộng hơn.
Căn phòng rất sạch sẽ, đồ đạc không nhiều, cũng không có mấy thứ gấu bông hoa hoét như tôi tưởng. Tấm rèm cửa màu xanh da trời nhạt che khuất cửa sổ, nhìn ngay ra ban công nhỏ phía sau nhà. Bàn học cạnh cửa sổ rất to, hình như là ghép lại từ hai cái bàn, trên bàn có một bộ máy tính.
Diệp Mai Quế bật đèn nhà tắm rồi ngồi lên giường, hai chân đung đưa. Phòng tắm này nhỏ hơn căn phòng tắm tôi vẫn dùng một chút, nhưng lại có một cái bồn tắm. Tôi thử giật bồn cầu, vẫn ổn, tình trạng tắc nghẽn không nghiêm trọng như tôi tưởng.
“Cô có ống thụt không?”
“Ống thụt là cái gì?”
“Thì là… thôi, để tôi xuống lầu mua.”
“Cố lên nhé, chàng kỹ sư thủy lợi vĩ đại.”
Tôi nhìn cô ấy, tuy điệu bộ tỉnh bơ, nhưng ánh mắt vẫn giống một miệng giếng sâu khô cằn. Tôi sờ lên mũi, chạy ra cửa hàng tiện lợi đầu ngõ mua một cái ống thụt, rồi lại trèo lên lầu.
Về đến nhà 7C, tôi thở hồng hộc như trâu.
Có cái ống thụt này, cộng thêm đôi tay khéo léo của tôi, bồn cầu nhanh chóng được thông. Sau đó tôi về phòng mình, lấy một cái tuốc-nơ-vít, vặn nắp ống thoát nước dưới sàn nhà tắm. Sau khi vơ sạch mấy búi tóc rối, ống thoát nước nhà tắm lại chảy ào ào.
Tôi đoán đó là tóc của Diệp Mai Quế và lông của Tiểu Bì.
“Sau này lúc gội đầu cô nhớ dọn sạch tóc vướng trên nắp cống đi nhé.”
Bước ra khỏi phòng tắm, tôi dặn dò Diệp Mai Quế.
“Tôi có mà.”
“Chắc chắn chỉ thỉnh thoảng cô mới làm thế thôi. Hơn nữa cô cũng lại tiện tay vứt tóc vào bồn cầu rồi giật nước.”
“Sao anh biết?”
“Bởi vì đây cũng là nguyên nhân gây tắc bồn cầu.”
“Oa, anh tài thật đấy. Đây là cũng coi là công tác thủy lợi à?” Cô ấy hỏi một câu, rồi thu đôi chân đang đung đưa lại, đứng dậy.
“Có thể coi như vậy. Rất nhiều đô thị bị lụt lội là do tắc ống thoát nước, ngoài ra trong đường ống thoát nước cũng thường xuyên có tạp chất lắng đọng, cần phải làm sạch định kỳ. Nếu không cho dù có lắp thêm vài đường ống thoát nước hoặc gia cố thêm thì cũng chẳng được tích sự gì.”
“Ừ.”
“Cho nên chúng ta nhất định phải xây dựng tốt hệ thống thoát nước, cố gắng ngăn chặn Đài Bắc khỏi ngập lụt, đảm bảo sự an toàn cho tính mạng và tài sản của mọi người dân!”
“Ủa? Đây là tín điều của dân công trình thủy lợi à?”
“Không. Đây là khẩu hiệu để ứng cử thị trưởng Đài Bắc.”
Diệp Mai Quế cười, rồi mở tủ quần áo ra. Cô ấy nhoài người vào trong, cánh cửa tủ mở ra che khuất tầm mắt tôi.
“Ê, tôi sửa xong rồi, cô nên nói gì nhỉ?”
“Cảm ơn anh.”
Diệp Mai Quế thò đầu ra, mỉm cười với tôi, ánh mắt rốt cuộc lại giống với một đóa hồng đêm.
Tôi rất muốn nói với cô ấy, không cần phải cảm ơn, bởi vì tôi đã nhìn thấy ánh mắt của hoa hồng đêm rồi.
“Không phải câu đó. Là liên quan đến công tác thủy lợi…” Tôi hơi ấp úng.
“À…” Như thể sực tỉnh, cô ấy bật ngón tay cái lên: “Công tác thủy lợi quả thực có lịch sử lâu đời, vĩ đại uyên thâm!”
“Nói hay lắm!” Tay trái cầm tuốc-nơ-vít, tay phải cầm ống thụt, tôi chắp hai tay vào nhau: “Xin cáo từ.”
Tôi ra khỏi phòng cô ấy, tiện tay đóng cửa lại, quay về phòng khách, ngồi vào ghế của mình, bật ti vi lên.
“Kha Chí Hoành!” Giọng Diệp Mai Quế vang lên từ trong phòng.
“Gì thế?”
“Bây giờ tôi phải đi tắm, cho nên nhờ anh giúp tôi một việc.”
“Giúp người khác tắm không thuộc công tác thủy lợi.”
“Nói nhăng cuội gì thế? Đưa Tiểu Bì đi dạo hộ tôi với.”
“Nhưng mà…”
Tôi còn chưa kịp dứt lời, như hiểu được ý cô ấy, Tiểu Bì đã tung tăng chạy tới bên tôi.
Tôi đành dắt cu cậu xuống lầu, khi ra khỏi cửa, lại thành ra là Tiểu Bì dắt tôi. Cu cậu dường như có một hành trình cố định, tôi cũng mặc cho nó kéo mình chạy khắp nơi.
Tiểu Bì rất hứng chí với mấy cái lốp xe, cứ thích khịt mũi ngửi rồi ghếch chân lên tè. Mà xe càng đắt thì số lần nó ghếch chân lên càng nhiều. Xem ra có thể coi Tiểu Bì như tiêu chí phán đoán một loại giá trị quan nào đấy.
Vì thế tôi nhủ thầm trong bụng: “Tiểu Bì ơi, mày hãy giống như vận may dẫn đường cho tao đi.”
Kết quả đích đến trong hành trình của cu cậu, là trạm tàu điện.
Sau khi tới trạm tàu điện, cậu chàng ngồi trước bậc thang chỗ cửa ra vào, lè lưỡi thở dốc, nhìn tôi.
Trạm tàu điện này buổi sáng khi tôi tới rất đông đúc; tám giờ tối lúc tôi trở về, lại khiến tôi cảm thấy cô độc, và một nỗi cô đơn không thể gọi tên.
Nhưng bây giờ nhìn nó, tâm trạng tôi nhẹ nhõm hơn nhiều.
Có lẽ tôi vẫn cô đơn, nhưng tôi tuyệt đối không cô độc.
Bởi vì tôi có thể có được ánh mắt của hoa hồng đêm, và có cả Tiểu Bì. Tôi biết tôi sắp thuộc về thành phố này, và trạm tàu điện này cũng sẽ trở thành trọng tâm trong cuộc sống của tôi.
Lúc về, con đường Tiểu Bì đi cũng giống con đường ban nãy tôi về nhà, nhưng tôi đã không còn cảm thấy xa lạ với chính mình.
Dắt Tiểu Bì lên cầu thang bộ, nghĩ tới việc còn phải leo lên tận tầng 7, hai chân tôi không khỏi rủn ra. Không ngờ Tiểu Bì kêu oẳng một tiếng rồi xông thẳng lên trên, tôi không thể không chạy theo sau. Lúc mở cửa nhà 7C, tôi đã thở không ra hơi.
“Gì vậy? Có cần cường điệu như thế không?” Diệp Mai Quế vừa tắm xong, đang ngồi trên sofa trong phòng khách, lau tóc bằng một chiếc khăn bông màu hồng.
“Cô cứ thử chạy từ tầng một đến tầng bảy xem, tôi không tin là cô không thở dốc.” Tôi nhích từng bước về sofa của mình, ngồi xuống, thở hắt ra một hơi dài.
“Có thang máy không đi, sao phải leo thang bộ? Kỹ sư thủy lợi thích leo thang bộ để tập thể dục à?”
“Thang máy hỏng rồi còn gì. Cô không biết à?”
Hơi thở của tôi cuối cùng cũng đã trở về bình thường.
“Thang máy hỏng rồi à?” Diệp Mai Quế như thể rất nghi hoặc.
“Lúc tôi tan làm về đã hỏng rồi.”
“Thế à? Hôm nay tôi có đi thang máy mà.”
“Cô không nhìn thấy tờ giấy dán ở cửa thang máy à?”
“Tờ giấy?” Cô ấy ngừng lau tóc, quay sang nhìn tôi:
“Có phải viết ‘Biết làm sao được thang máy hỏng, đành xin bạn rộng lượng thứ tha. Tuổi trẻ chăm chỉ đi thang bộ, khỏe mạnh lạc quan lúc về già’ không?”
“Đúng.”
“Ờ.”
Cô ấy lại cầm khăn lên, tiếp tục lau tóc.
“Ủa? Nói vậy, cô cũng nhìn thấy tờ giấy ấy à?”
“Ừ, đương nhiên là có thấy.”
“Thế sao cô vẫn đi thang máy?”
“Chắc là anh không đọc kỹ rồi. Góc phải phía dưới tờ giấy có ký tên: Ngô Trì Nhân kính báo.”
“Cái này tôi không để ý.”
“Thằng bé nhà dì Ngô ở tầng sáu đang học thư pháp.”
“Thế thì liên quan gì?”
“Con dì Ngô tên là Ngô Trì Nhân.”
“Chuyện này…”
“Cho nên thang máy không hỏng.”
“Ê, trò đùa này quá lố rồi đấy?”
“Không đâu, mọi người sống ở tòa nhà này đều biết cả. Mọi người còn khen nó viết rất đẹp nữa.”
“Nhưng mà…”
“Tên của thằng nhóc ấy rất buồn cười, Ngô Trì Nhân, đọc lên nghe như ‘Vô Thử Nhân’(2) ấy.”
“Nói vậy, lần đầu tiên khi tôi tới đây xem phòng, và hôm tôi dọn nhà, thang máy cũng không hỏng?”
“Thang máy vẫn luôn bình thường, chưa hỏng lần nào.”
Diệp Mai Quế đặt khăn lên bàn, chải lại đầu rồi cười nói: “Đây là khiếu hài hước của tòa nhà chúng ta đấy, anh chỉ cần nhìn thấy ai đang leo thang bộ thì biết ngay người đó không sống ở đây rồi. Vui ơi là vui.”
“Vui cái đầu ấy! Hôm nay tôi đã trèo đi trèo lại hết ba lượt rồi! Tầng bảy đó!”
“Ha ha…” Cô ấy cười khanh khách không ngừng, “Thật không ngờ.”
Tôi vốn cảm thấy hơi ấm ức, nhưng khi nhìn thấy nụ cười của Diệp Mai Quế, thì không còn nghĩ gì hết.
Tuy tôi không hề biết, tại sao cô ấy lại có một ánh mắt cô đơn; nhưng tôi tin rằng, ánh mắt tựa như bông hồng kiều diễm mới là dáng vẻ đích thực của cô ấy.
Diệp Mai Quế, lẽ ra cô nên giống như lời cô nói, là một đóa hồng nở rộ trong đêm, chứ không phải luôn khiến tôi liên tưởng tới hai chữ cô đơn.
“Sao thế? Giận đấy à?” Diệp Mai Quế vẫn toét miệng cười: “Ngành công trình thủy lợi lịch sử lâu đời, vĩ đại uyên thâm không dạy cho anh óc hài hước à?”
“Ngành công trình thủy lợi rất nghiêm túc, bởi vì chúng ta không thể đem mạng sống của người dân ra làm trò đùa được.”
“Ồ, vậy cơ đấy. Thế anh cũng là người nghiêm túc rồi nhỉ?”
“Tôi không nghiêm túc. Bây giờ tôi chỉ là một người đang đói mốc lên thôi.”
“Đói bụng rồi à? Có cần tôi nấu mì cho anh ăn không?”
“Đây cũng là hàn huyên à?”
Cô ấy không đáp, chỉ mỉm cười.
“Cái môn nấu ăn này, thật là lịch sử lâu đời, vĩ đại uyên thâm!”
“Sao lại nói thế?”
“Tôi tưởng cô học nấu ăn. Cho nên tôi nghĩ phải nói câu đó thì cô mới nấu mì.”
“Tôi không học. Hôm nay anh giúp tôi bao nhiêu việc, nấu bát mì cho anh ăn là việc nên làm mà.”
“Thế cô học môn lịch sử lâu đời, vĩ đại uyên thâm gì?”
“Sau này sẽ nói cho anh hay.” Diệp Mai Quế cười cười, đứng dậy đi vào bếp.
Tôi nhìn Diệp Mai Quế trong bếp, người con gái sẽ cùng tôi chung sống dưới một mái nhà. Mái tóc mới gội buông xõa trên lưng, miệng ngân nga hát, dường như rất tự do tự tại, khiến tôi nảy sinh cảm giác sai lầm, rằng tôi và cô ấy là người một nhà.
Một lúc sau, Diệp Mai Quế bê ra một bát mì thịt heo cải chua. Tôi ăn một miếng, cơ thể và trái tim mệt mỏi cuối cùng cũng trở nên nhẹ nhõm, bất giác mỉm cười. Tôi không cần phải lo lắng làm thế nào để thích ứng với khẩu vị của người Đài Bắc, và liệu có còn ai cùng tôi ăn mì nữa hay không.
“Cười cái gì? Có phải rất khó ăn hay không?”
“Không. Bát mì này rất ngon.” Tôi đáp.
Bởi vì tôi lại nhìn thấy một bông hồng nở rộ trong đêm.
***
Chị?(3) Đúng vậy, tôi luôn gọi chị như thế. Có lẽ chị họ Thi, có lần chị từng bảo tôi như thế. Nhưng cũng có thể họ Thạch, cũng có thể họ Sử(4), tôi không rõ lắm.
Đó là vào đêm Trung Thu, khi mọi người trong câu lạc bộ cùng ngắm trăng đốt pháo hoa, chị đã bảo với tôi. Tiếng pháo nổ ồn ã quá, tôi chỉ loáng thoáng nghe thấy có âm “sh”. Sau đó tôi cũng không dám hỏi lại chị, sợ chị cảm thấy tôi không chịu để tâm.
Tên chị rất hay, Ý Khanh.
Lần đầu tiên gặp chị ở văn phòng câu lạc bộ, chị nói với tôi thế này:
“Đã đọc ‘Thư gửi vợ’ của Lâm Giác Dân(5) rồi chứ? Mở đầu chẳng phải là câu ‘Ý Ánh khanh khanh như ngộ’(6) sao?”
“Chị cũng tên là Ý Ánh à?”
“Không, chị tên Ý Khanh. Không phải là Ý Ánh, cũng không phải là Ý Như, càng không phải Ý Ngộ.” Chị bật cười, tôi đã nhớ tên chị như thế.
Và cả nụ cười của chị.
Khi mới quen chị, tôi học đại học năm thứ nhất, mười tám tuổi; chị năm thứ hai, hai mươi tuổi.
Nói cách khác, chị hơn tôi một khóa, nhưng lớn hơn tôi hai tuổi.
Mọi người trong câu lạc bộ thường gọi chị là chị Ý Khanh.
Chỉ có một số ít người đủ tư cách gọi chị là Ý Khanh.
Còn tôi, chỉ gọi là chị.
Cũng như chị, chỉ gọi tôi là em.
Cách xưng hô như vậy, từ trước tới nay không hề thay đổi