← Quay lại trang sách

Chương 7

Mưa liên tiếp mấy ngày liền khiến Đài Bắc bị ngập cục bộ, nhưng tình hình rất nhẹ nhàng.

Vì chuyện này có liên quan đến công việc của tôi, nên quản lý muốn tôi đi với một anh đồng nghiệp tới xem xét hiện trường.

Anh ấy cùng một tổ công tác với tôi, tên là Tô Hoành Đạo. Cái tên này cũng đồng âm với một hạng mục công trình thủy lợi – Tràn xả lũ (Sơ Hồng Đạo).

Tràn xả lũ(1), còn gọi là cống thoát lũ, có thể khiến một bộ phận nước lũ đi qua tràn rồi chảy xuống hạ du, hoặc đẩy lũ tới các lưu vực khác, nhờ thế có tác dụng phân tán lũ lụt. Ví như tràn xả lũ Nhị Trùng của Đài Bắc, có thể phân tán lũ của nước sông Đạm Thủy.

Còn nhớ lần đầu tiên khi tôi giới thiệu tên mình với anh ấy, anh ấy hứng chí nói: “Cậu là hồ chứa nước, anh là tràn xả lũ. Chúng ta song kiếm hợp bích, nhất định là thiên hạ vô địch!”

Nói năng rất vớ vẩn.

Tuy vậy, anh ấy vẫn quen gọi tôi là Tiểu Kha.

Con người anh ấy rất được, chỉ có điều cứ thích kể mấy câu chuyện cười vô duyên, cái thể loại cực kỳ vô duyên ấy.

Truyện cười không buồn cười thì cũng thôi đi, đôi khi lại còn gây rắc rối. Ví như mấy hôm mưa, anh ấy sẽ nói thời tiết bên ngoài giống hệt tình hình của công ty.

“Giống thế nào?” Tôi hỏi.

“Đều đang chòng chành trong mưa bão.” Nói xong anh ấy cười ha hả, ra điều rất đắc ý.

Câu này lại lọt ngay vào tai ông chủ vừa đi ngang qua, ông chủ gọi anh ta lại xạc cho một trận.

“Anh đã biết điều chưa?” Lúc anh ấy bị chửi xong đi ra ngoài, tôi lại hỏi.

“Cậu có biết tại sao tôi lại bị ăn chửi không?” Anh ấy hỏi ngược lại.

“Bởi vì anh đem công ty ra làm trò đùa, đương nhiên là bị ông chủ chửi rồi.”

“Không phải thế.” Anh ấy ghé sát miệng lại tai tôi, thì thào đầy bí hiểm: “Ông chủ mắng tôi không nên tiết lộ bí mật của công ty. Ha ha ha…”

Nếu mới quen, có lẽ tôi đã bị anh ấy lừa. Nhưng tôi đã quen anh ấy được một thời gian rồi, nên biết được mồm miệng anh ấy rất gở.

Tính tình Tràn Xả Lũ không quá cẩu thả, nhưng lại rất lơ mơ. Bàn làm việc của anh ấy ở bên tay phải tôi, trên bàn lúc nào cũng bừa bãi lộn xộn, như thể bị trộm ghé thăm vậy. Lúc quản lý bảo tôi đi cùng anh ấy tới hiện trường xem xét, anh ấy chỉ tìm chìa khóa trên bàn mà cũng mất mười mấy phút.

“Đúng là Gia Cát Lượng bảy lần bắt Mạnh Hoạch(2) mà.” Cuối cùng cũng mò ra được chùm chìa khóa, anh ấy quay sang bảo tôi: “Chùm chìa khóa này tôi làm rơi bảy lần, tìm lại được bảy lần, rất giống Gia Cát Lượng bảy lần bắt rồi lại tha cho Mạnh Hoạch.”

“Đi mau thôi.” Tôi đã quen giả điếc trước những lời anh ấy nói.

Lúc rời khỏi văn phòng, chúng tôi gặp một nữ kỹ sư cùng công ty ở cửa ra vào.

“Cô Lý, cô bị trúng độc đấy à?” Tràn Xả Lũ cất tiếng hỏi.

“Gì cơ? Thật không?” Chị ấy cuống cả lên.

“Tôi thấy môi cô bị đen.”

“Đó là màu son!” Nói xong, chị ấy hầm hầm đi vào văn phòng.

Tràn Xả Lũ cười hềnh hệch hai tiếng, rồi kéo tôi vào thang máy đi xuống lầu.

Chúng tôi đội nắng phóng xe máy chạy tới chạy lui ở ngoài đường nguyên một ngày, gần như chạy hết một nửa Đài Bắc. Tôi không quen thuộc nơi này, còn Tràn Xả Lũ lại là người Đài Bắc chính cống, vì thế thường là anh ấy dẫn đường. Tôi phát hiện ra Tràn Xả Lũ rất nghiêm túc, hoàn toàn khác xa với lúc đi làm.

Những hiểu biết của anh ấy về các công trình thủy lợi vượt xa tôi, vì thế mà tôi được hưởng lợi không ít, cũng bắt đầu nể phục anh ấy.

Khi quay về công ty đã là bảy rưỡi tối.

Tôi dọn dẹp bàn làm việc, chuẩn bị đi về. Còn Tràn Xả Lũ móc tiền lẻ trong túi áo ra, tiện tay vứt vào đống giấy tờ trên bàn.

“Anh làm gì thế?” Tôi tò mò.

“Tôi đang cất kho báu.”

“Anh còn chê bàn anh chưa đủ lộn xộn à?”

“Cậu không hiểu đâu.” Hai tay anh ấy bới cho chiếc bàn càng rối tung lên, tiền lẻ hoàn toàn mất hút giữa đống giấy tờ.

“Chẳng phải tôi thường xuyên tìm đồ trên bàn sao? Lúc tìm đồ tâm trạng chẳng phải là rất hoảng loạn sao? Lúc tâm trạng hoảng loạn chẳng phải sẽ rất đau khổ sao? Nhưng giờ tôi nhét tiền lẻ vào đó, như vậy lần sau lúc tìm đồ có thể chẳng may tìm được tiền, tìm được tiền thì sẽ cho đó là thu hoạch ngoài dự kiến, vì thế tâm trạng sẽ vui vẻ.”

Sau đó anh ấy lại lục tung bàn lên, lôi ra được một đồng tiền xu, bèn hào hứng nói: “Oa! Mười đồng này! Tôi đúng là may mắn, chắc chắn Thượng đế đặc biệt chiếu cố tới tôi.”

Anh ấy lại cười ha hả đầy đắc ý, tặc lưỡi luôn miệng.

“Em về đây ạ, mai gặp nhé!” Tôi vỗ vai anh ấy, vẫn giả điếc trước những lời anh ấy nói.

Dù hôm nay chạy đôn chạy đáo bên ngoài cả một ngày, nhưng thời gian về đến nhà vẫn không khác lắm so với trước đây.

“Ủa? Sao mặt anh lại đỏ gay thế?” Diệp Mai Quế vẫn đang ngồi trong phòng khách xem ti vi.

“Thế à?” Tôi sờ lên mặt.

“Có phải…” Cô ấy đứng dậy, vén tóc lên: “Có phải tôi hôm nay đẹp một cách đặc biệt, khiến anh mặt đỏ tim run?”

“Cô tưởng bở rồi.” Tôi đặt cặp xuống, ngồi lên sofa: “Là do phơi nắng.”

“Ủa? Anh ngồi trong văn phòng tắm nắng à?”

“Không. Hôm nay tôi đi ra ngoài thị sát với đồng nghiệp.”

“À, ra vậy.”

Khi tôi chuẩn bị dời mắt sang ti vi, cô ấy bỗng đứng phắt dậy, đi vòng quanh bàn trà một vòng.

“Cô đang làm gì thế?” Tôi nhìn cô ấy đầy nghi ngờ.

“Tôi đang thử xem sau khi cơ thể nhẹ đi thì đi lại có nhanh hơn không.”

“Cô gầy đi?”

“Ừ.”

“Thế à? Tôi lại chẳng nhận ra.” Tôi ngắm nghía khắp người cô ấy “Cô gầy đi ở chỗ nào?”

“Đầu.”

“Đầu nhẹ đi?” Tôi ngẫm nghĩ: “Thế hóa ra là cô ngu đi à?”

“Ê!” Giọng cô ấy vút lên, “Anh vẫn chưa nhìn ra à?”

“A!” Tôi lại nhìn cô ấy thêm một cái, cuối cùng cũng tỉnh ngộ: “Cô cắt ngắn tóc đi rồi!”

“Anh lại còn dám vỗ ngực nhận mình là diều hâu.” Diệp Mai Quế hừ mũi: “Tôi mới là diều hâu, anh vừa về tôi đã phát hiện ra mặt anh đỏ lên rồi.”

“Ngại quá, vừa rồi tôi không để ý. Sao cô bỗng dưng lại muốn cắt tóc vậy?”

“Nói thừa. Tóc dài rồi thì đương nhiên phải cắt đi.”

Cô ấy ngồi lại vào sofa, giọng rất bình thản. Tôi thấy như bị giẫm phải đinh, vì thế bèn ngậm miệng, từ từ chuyển tầm mắt sang ti vi.

“Này!”

Sau vài phút cùng im lặng, Diệp Mai Quế bỗng hét lên, tôi giật nảy cả mình.

“Sao thế?” Tôi quay sang nhìn cô ấy.

“Về chuyện tôi cắt tóc ngắn, anh còn có lời gì muốn nói không?”

“Ừ. Cắt tóc ngắn là một chuyện tốt, sẽ mát mẻ hơn.”

“Rồi sao?”

“Rồi sẽ đỡ ra mồ hôi hơn.”

“Còn nữa không?”

“Hết… hết rồi.”

Không hiểu sao, tôi cảm thấy trong câu hỏi của cô ấy có ẩn chứa sát khí, vì thế tôi trả lời mà lòng đầy căng thẳng.

Quả nhiên sau khi lườm tôi một cái, cô ấy không nói thêm gì nữa, tôi vắt óc nghĩ ngợi, thực sự không nghĩ ra phải nói gì, vì thế bèn hỏi thẳng cô ấy:

“Cô có thể gợi ý một chút được không?”

Hình như cô ấy cố nén cơn giận, phì một hơi thật dài từ mũi, tôi thấy lồng ngực cô ấy phập phồng.

“Tôi cắt tóc thế này có xinh không?”

“Đương nhiên là xinh rồi, điều này cũng giống như sự thật là Mặt Trời luôn phát sáng ấy!”

“Thế sao anh không nói?”

“Liệu cô có bảo với tôi là bầu trời màu xanh dương còn cây lá màu lục không? Đây là sự thật hiển nhiên, đương nhiên không cần phải cố ý nói ra. Nói ra thì lại thành thừa.”

“Hừm.”

Tuy cô ấy lại hừ một tiếng, nhưng tôi biết cô ấy đã không còn giận nữa rồi. Diệp Mai Quế có lẽ không biết, giọng cô ấy có sắc thái. Tôi quen phán đoán tâm trạng cô ấy qua ánh mắt, và “nhìn” ra những vui buồn giận hờn của cô ấy từ trong giọng nói. Sắc thái trong giọng nói của cô ấy rất phong phú, phong phú hơn nhiều so với những biểu hiện trên gương mặt. Bởi vì ngoài những nụ cười thảng hoặc ra, mặt cô ấy gần như rất ít khi có biểu cảm gì.

Nói cho chính xác thì, sắc thái trong giọng nói của cô ấy là thượng du; còn sắc thái của khuôn mặt là hạ du, phương hướng tâm trạng của cô ấy cũng giống như dòng nước, đều từ thượng du chảy tới hạ du.

“Vậy tôi hỏi anh, tóc tôi dài có đẹp không?” Diệp Mai Quế lại hỏi tiếp, “Hay là tóc ngắn đẹp hơn?”

“Chuyện này chẳng có logic gì cả?”

“Sao lại nói thế?”

“Bởi vì vẻ đẹp của cô, căn bản không thể nào dùng độ ngắn dài của tóc để đo được.”

Cô ấy không nén được cười, rồi lại xị mặt xuống ngay: “Anh trở nên lẻo mép từ bao giờ thế?”

“Từ…” Giọng tôi dài thượt ra, nhưng mãi mà không nói tiếp.

“Hử? Sao không nói nữa?”

“Không có gì.” Tôi cười cười.

Tôi không muốn nói với Diệp Mai Quế rằng từ sau khi chị rời đi, tôi mới bắt đầu biết cách ăn nói.

Đây đã là lần thứ hai khi nói chuyện với Diệp Mai Quế, tôi chợt nhớ tới chị. Tôi không thích ứng lắm với sự đột ngột này, bởi vì không biết từ bao giờ, tôi đã gần như không còn nghĩ tới chị nữa.

Tuy tất cả những chuyện xưa có liên quan tới khi ở bên chị, tôi vẫn nhớ rõ như in, nhưng những ký ức đó không còn vô duyên vô cớ xuất hiện trong đầu, cũng không cố tình bị tôi lật giở lại. Cho dù những ký ức ấy giống như băng hình đột nhiên phát sóng trong đầu tôi, nhưng tôi cứ luôn cảm thấy như thiếu đi vài điều gì đó, như âm nhạc, hay ánh sáng.

Tôi rất thân thuộc với chị trong băng hình, nhưng lại cảm thấy xa lạ với cái thằng tôi trong đó.

Có lẽ nếu để tôi nghe lại ca khúc Hoa hồng đêm, hoặc được nhìn thấy điệu nhảy Hoa hồng đêm, cuốn băng này sẽ trở về với nguyên trạng ban đầu. Chỉ tiếc là, sau khi tốt nghiệp đại học, tôi chưa từng nghe thấy hoặc nhìn thấy “hoa hồng đêm”.

Do lần trước đã có kinh nghiệm từ Diệp Mai Quế liên tưởng tới chị, nên lần này tôi ung dung hơn nhiều.

“Phải rồi, Tiểu Bì đâu?” Tôi thử đổi đề tài.

“Nó cũng đang cắt tóc.”

“Cắt tóc?”

“Lông Tiểu Bì dài quá rồi, tôi đưa nó đi cắt bớt. Lát nữa lại đi đón nó về.”

“Tiểu Bì vốn là chó lông dài, không cần phải tỉa lông.”

“Nhưng lông nó đã che hết mắt rồi, tôi sợ nó đi đường sẽ đụng lung tung.”

“Cô nghĩ ngợi nhiều quá rồi. Khứu giác của chó nhạy cảm hơn thị giác nhiều.”

“Vậy sao?”

Diệp Mai Quế đứng dậy, tháo cặp tóc ra, sau đó lấy tay chải cho tóc mái rủ xuống, tóc cô rủ như thác nước, che khuất trán và mắt.

“Anh cho rằng bây giờ nếu cho tôi một cái mũi thật thính, thì tôi sẽ không đụng vào cái gì à?”

Hai tay cô ấy duỗi thẳng ra phía trước, từ từ mò mẫm trong phòng khách.

“Phải phải phải, cô nói đúng, Tiểu Bì nên tỉa bớt lông.”

“Biết thế là tốt.” Cô ấy vẫn đi tiếp.

“Có cần tiện thể thay một bộ quần áo trắng không?”

“Làm gì?”

“Như thế cô có thể đi xuống tầng sáu, giả ma dọa cho cái thằng nhóc Ngô Trì Nhân vớ vẩn kia một trận!”

“Ê!”

Cuối cùng cô ấy cũng dừng lại, chải đầu buộc tóc, lườm cho tôi một cái.

Diệp Mai Quế ngồi xuống sofa, bật ti vi lên. Tuy tầm mắt tôi hướng về ti vi, nhưng tôi vẫn lén ngắm cô ấy qua khóe mắt. Thực ra tóc cô ấy không cắt quá ngắn, có lẽ chỉ hơi tỉa đi một chút thôi.

Vốn khi tóc dài, đuôi tóc cô ấy hơi xoăn, giờ đuôi tóc chỉ còn khẽ gợn sóng.

Tôi cảm thấy, đóa hồng đêm đã tỉa bớt cành lá, chỉ càng thêm kiều diễm. Nhưng với một bông hồng đêm mà nói, thứ Diệp Mai Quế cần cắt tỉa, không chỉ là cành lá, mà còn cả những cái gai trên người.

“Tôi đi đón Tiểu Bì đây.” Diệp Mai Quế cầm túi xách lên, bước ra ngoài hành lang.

“Tôi đi với cô.” Tôi tắt ti vi rồi cũng bước ra ngoài hành lang.

Cô ấy thoáng lưỡng lự rồi nói: “Được thôi.”

“Không tiện à?”

“Không phải.” Cô ấy mở cửa rồi ngoảnh lại bảo tôi, “Chỉ là không quen.”

Trong thời gian đi thang máy xuống lầu, tôi cứ nghĩ mãi ý tứ trong câu “không quen” của Diệp Mai Quế. Tôi chưa từng thấy bạn bè tới tìm cô ấy, cũng rất ít khi nghe thấy điện thoại của cô ấy reo. Ngoài việc đi làm và đưa Tiểu Bì đi dạo ra, cô ấy rất ít khi ra ngoài. Đương nhiên có thể cô ấy sẽ ra ngoài khi tôi đã ngủ, nhưng lúc đó đã rất muộn rồi, có lẽ không đến nỗi như thế.

Nói vậy, con người của cô ấy cũng giống cuộc sống của cô ấy, đều rất lặng lẽ. Nghĩ tới đây, tôi quay sang nhìn, thử thăm dò ánh mắt của cô ấy.

“Anh đang nhìn gì thế?”

Vừa mới bước ra khỏi cửa lớn của tòa nhà, như phát hiện ra cái nhìn của tôi, cô ấy bèn cất tiếng hỏi.

“Không có gì. Chỉ là sực nghĩ ra, cô rất ít khi rời khỏi nhà.”

“Không có chuyện thì ra khỏi nhà làm gì?” Diệp Mai Quế trả lời gọn lỏn.

“Có thể đi dạo phố, xem phim, hát hò với bạn bè mà.”

“Tôi thích ở một mình, cũng quen ở một mình.”

“Nhưng mà…”

“Đừng quên,” Cô ấy ngắt lời tôi: “Anh cũng rất ít khi ra khỏi nhà.”

Tim tôi thót lại, bất giác dừng bước.

Diệp Mai Quế nói không sai, tôi cũng giống như cô ấy, đều rất ít khi ra khỏi nhà. Thậm chí tôi cũng giống như cô ấy, thích, và quen ở một mình.

Có lẽ tôi có thể viện cớ để nói, đó là vì tôi vẫn còn chưa quen với con người, sự vật, sự việc ở Đài Bắc, cho nên ít khi ra khỏi nhà. Nhưng nhìn từ một góc độ khác, rất nhiều người lại chính vì sự không quen này, mới thường xuyên ra khỏi nhà.

Bởi vì tất cả con người, sự vật, sự việc đều mới mẻ, đáng để thường xuyên ra khỏi nhà khám phá và tận hưởng. Tôi bỗng nhớ ra, cho dù ở Đài Nam mà tôi thân thuộc, tôi vẫn rất ít khi ra ngoài.

“Sao thế?”

Diệp Mai Quế cũng dừng lại, đứng cách hai mét, xoay người đối diện với tôi.

“Cô có cô đơn không?” Tôi hỏi.

Dưới ánh đèn hắt sáng, tôi nhìn thấy mắt cô ấy bắt đầu lấp lánh nước. Giống như sau một cơn mưa xuân, hoa hồng bắt đầu bừng nở rộ.

“Cô đơn vẫn luôn là người bạn thân thiết nhất của tôi. Tôi không đi tìm nó, nhưng nó cứ tới tìm tôi.”

“Vậy sao?”

“Ừ. Tôi nghĩ ra rất nhiều cách để quên nó đi, nhưng nó vẫn mãi chẳng chịu quên tôi.”

Tôi nhìn khóe miệng Diệp Mai Quế đang nở nụ cười, bỗng có một cảm giác thân thiết khó tả.

“Nếu nó biến mất, chỉ là vì nó đang lẩn trốn, chứ không phải vì nó đã ra đi.” Tôi hỏi cô ấy: “Cô cũng có cảm giác này phải không?”

“Không sai.” Cô ấy cười.

“Người ở trên núi, thường không biết hình dạng của quả núi.”

Diệp Mai Quế ngẩng đầu lên nhìn bầu trời đêm, như đang xúc động: “Chỉ có người ở ngoài núi, mới có thể nhìn rõ hình dạng của nó.”

“Nghĩa là sao?”

“Rất đơn giản.” Cô ấy quay sang nhìn tôi, lùi lại phía sau ba bước, cười nói: “Anh đứng trên một ngọn núi, tôi đứng trên một ngọn núi khác. Chúng ta đều biết rõ ngọn núi của đối phương trông như thế nào, nhưng lại không nắm được hình dáng của ngọn núi mà mình đang đứng.”

Diệp Mai Quế nói không sai, từ mắt mình, tôi có thể nhìn thấy, nghe thấy rất rõ sự cô đơn của cô ấy.

Tuy tôi biết có lẽ mình cũng là một người cô đơn, nhưng tôi không hề rõ dáng vẻ cô đơn của mình.

Cũng không biết hành động và từ ngữ nào của mình, sẽ khiến người ta liên tưởng tới cô đơn. Nói cách khác, tôi không thấy được vẻ ngoài của ngọn núi mà tôi đang đứng, chỉ biết rằng mình đang đứng trên núi mà thôi. Nhưng hình dáng và màu sắc của ngọn núi mà Diệp Mai Quế đang đứng, lại thu trọn vào đáy mắt tôi. Còn trong mắt Diệp Mai Quế, chắc gì đã không như thế?

“Có khi Tiểu Bì đợi đã lâu rồi, chúng ta mau đi thôi.”

Nói xong, Diệp Mai Quế bèn xoay người, bước tiếp về phía trước.

“Ừ.”

Tôi rảo bước nhanh hơn, sóng vai cùng cô ấy.

“Ngọn núi của tôi chắc chắn cao hơn của cô.”

“Nhưng núi của tôi lại đẹp hơn của anh.”

Chúng tôi không dừng chân lại, chỉ trao cho nhau một nụ cười.

Lông trên người Tiểu Bì bị cắt đi cũng kha khá, dáng vẻ hoàn toàn thay đổi.

Nếu không phải là ánh mắt, cái ngoáy đuôi tít mù cùng tiếng sủa oăng oẳng của nó, chắc chắn là tôi không nhận ra.

Trên đường về nhà, dường như cu cậu trở nên thẹn thùng và bẽn lẽn, cứ né tránh ánh mắt của bọn tôi, lúc muốn ghếch chân lên đi tè, chân cũng không nhấc cao như trước, thậm chí còn hơi run run.

“Tiểu Bì thấy lông mình bị cạo sạch, chắc chắn là rất tự ti.” Tôi nói với Diệp Mai Quế.

“Không đâu. Chỉ là nó không quen thôi.”

“Thế lúc cô vừa cắt tóc xong, có không quen đi vệ sinh không?”

“Anh vớ vẩn vừa thôi.” Cô ấy lườm tôi.

Đang lúc tôi định nói thêm, thì điện thoại của cô ấy reo lên. Cô ấy dừng chân lại, đưa Tiểu Bì cho tôi.

“A lô.” Cô ấy nói.

“Cô Diệp phải không? Tôi là…”

Tuy đi cách bên trái cô ấy chừng năm mét, hơn thế lại quay lưng về phía cô ấy, nhưng trong con hẻm im ắng giữa đêm khuya, tôi vẫn loáng thoáng nghe thấy tiếng đàn ông vọng ra từ điện thoại.

“Tôi đợi điện thoại của anh lâu lắm rồi.” Diệp Mai Quế bình thản đáp.

Bị cuốn hút bởi câu nói này, tôi bất giác quay người lại, muốn nghe xem họ đang nói gì.

“Thật không?” Giọng người đàn ông rất vui vẻ, còn cười mấy tiếng.

“Nếu anh không gọi tới, làm sao tôi có thể bảo anh tuyệt đối đừng bao giờ gọi tôi nữa?”

“…” Người đàn ông dường như bị đứng hình bởi câu nói này, không thấy trả lời.

“Đừng bao giờ gọi tới nữa. Bye bye.” Cô ấy cúp máy.

“Vừa nãy chúng ta nói tới đâu rồi?” Diệp Mai Quế hỏi tôi.

“Không có gì. Chúng ta chỉ đồng thời thừa nhận Tiểu Bì không quen với việc lông bị cạo sạch mà thôi.”

Tôi không dám nói với cô ấy rằng cô ấy vừa mắng tôi vớ vẩn, bởi vì động tác ngắt điện thoại của Diệp Mai Quế khiến tôi liên tưởng tới tư thế thu kiếm vào bao sau khi hạ sát kẻ địch của mấy nhân vật trong phim kiếm hiệp.

“Anh đừng căng thẳng.” Diệp Mai Quế cười khúc khích, “Thằng nhóc đó tôi không quen. Có lẽ hắn là bạn của đồng nghiệp tôi, hai hôm trước tới công ty, nhìn thấy tôi nên lén xin số điện thoại của tôi từ chỗ đồng nghiệp, nói là muốn mời tôi đi ăn.”

“Thế sao cô lại bảo anh ta: Tôi đợi điện thoại của anh lâu lắm rồi?”

“Nói thế đâu có sai, nếu đã biết thằng nhóc đó sẽ gọi điện tới, đương nhiên càng cắt nhanh càng tốt rồi.”

Nghe cô ấy cứ một điều nhóc hai điều nhóc, tôi không khỏi nhớ tới lần đầu tiên khi gặp Diệp Mai Quế, cô ấy cũng gọi tôi là nhóc.

“Đàn ông thực sự rất kỳ cục, có người còn chưa quen với con gái người ta đã mời người ta đi ăn cơm, có người quen bao lâu rồi, lại chẳng thèm mời người ta đi ăn cơm một buổi.” Diệp Mai Quế vừa đi vừa nói.

“Đúng thế.” Tôi cũng đi về phía trước.

“Càng kỳ cục hơn là, cho dù người con gái đã mời anh ta ăn cơm rồi, nhưng anh ta vẫn chẳng thèm mời người ta ăn.”

“Ừ. Đúng là rất kỳ.”

“Đàn ông kiểu đó chắc chắn là rất nhỏ mọn, đúng không?”

“Đúng. Hơn nữa đâu chỉ nhỏ mọn, mà còn không biết tốt xấu là gì.”

Diệp Mai Quế bỗng bật cười, tuy tôi không hiểu tại sao, nhưng cũng cười theo.

“Chắc chắn anh không phải là loại đàn ông đó rồi, đúng không? Thưa ngài Diều Hâu?”

Tim tôi thót lại, bước chân hơi loạng choạng, người bắt đầu toát mồ hôi lạnh.

“Ờ… cái này… tôi sẽ lựa thời gian để mời cô đi ăn cơm.” Tôi dè dặt nói.

“Tuyệt đối đừng nói như vậy, như thế giống như là tôi đang nhắc khéo anh vậy. Chưa biết chừng anh lại thấy tôi rất nhỏ nhen.”

“Không không không,” Tôi cuống quýt xua tay: “Là tôi cam tâm tình nguyện, hoàn toàn tự giác.”

“Thật không?” Diệp Mai Quế nhìn tôi: “Đừng có miễn cưỡng đấy nhé!”

“Sao lại miễn cưỡng được? Mời cô ăn cơm là vinh hạnh to lớn của tôi, tôi cảm thấy hoàng ân mênh mông mà.”

“Sao tôi cảm thấy giọng anh giống như ngọn gió đêm thổi qua thân hình mới bị cạo sạch lông của Tiểu Bì thế nhỉ?”

“Nghĩ là sao?”

“Đều đang run rẩy chứ sao.”

“Ồ, đó là vì hưng phấn.”

“Thế à?” Cô ấy liếc xéo tôi, mắt chớp chớp.

“Được rồi, thật sự là được rồi. Tôi sẽ mời cô đi ăn cơm.”

Diệp Mai Quế mỉm cười, đón lấy sợi dây thừng của Tiểu Bì trong tay tôi, rảo bước về phía trước.

Vào đến tòa nhà, đi tới cửa thang máy, tờ giấy lại xuất hiện: “Thang máy có hoàn mỹ tới đâu, cũng thỉnh thoảng xảy ra sự cố. Tôi chưa từng xảy ra sự cố, vì thế không phải là thang máy.”

Tôi đọc một lúc rồi quay sang hỏi Diệp Mai Quế: “Ngô Trì Nhân điên rồi hả?”

“Không. Nó tiến bộ rồi.”

“Gì cơ?”

“Đây là một câu chế lại từ vở kịch ‘Richard III’(3) của Shakespeare.” Cô ấy chỉ vào tờ giấy nói: “Mãnh thú có hung dữ tới đâu, cũng có một chút lòng trắc ẩn. Ta không hề có lòng trắc ẩn, vì vậy không phải là mãnh thú.”

“Ồ. Thế tại sao cô lại bảo nó tiến bộ? Shakespeare thì ghê gớm hơn à?”

“Không phải ý đó. Trước đây nó chỉ nói thang máy bị hỏng, giờ lại nói đây còn chẳng phải là thang máy. Như thế đã từ cảnh giới thấy núi là núi, tiến tới cảnh giới thấy núi không phải là núi rồi.”

“Thế à? Tôi lại thấy nó càng ngày càng nhảm nhí hơn.”

Diệp Mai Quế mở túi xách, lấy ra một cây bút, đưa cho tôi: “Anh muốn viết gì thì viết đi.”

“Không cần đâu.”

“Chẳng phải nếu không viết gì đó để chửi Ngô Trì Nhân thì anh sẽ không thoải mái à?”

“Tôi nghĩ tôi đã trở thành một phần của tòa nhà này rồi, có lẽ nên chấp nhận sự hài hước ấy.”

“Ừ, anh quen rồi thì tốt.”

Cùng với nụ cười của Diệp Mai Quế, cửa thang máy cũng mở ra.

Tiểu Bì quả nhiên không quen với dáng vẻ của mình, nhìn vào gương còn trốn ra xa. Suốt ba ngày liền khi tôi đi làm về, nó đều trốn dưới gầm sofa.

Diệp Mai Quế nói rất nhiều điều với cu cậu, ví dụ như Tiểu Bì tỉa lông xong đẹp trai quá vân vân. Nhưng hình như cậu chàng chẳng tin lắm.

“Làm sao bây giờ? Cả đêm Tiểu Bì cứ trốn dưới gầm sofa suốt.” Diệp Mai Quế hỏi tôi.

“Có lẽ đợi lông nó dài ra thì sẽ không thế nữa.”

“Bao lâu thì lông nó mới dài ra?”

“Ừm…” Tôi trầm ngâm suy nghĩ, rồi nói: “Để tôi cũng viết gì đó đi.”

Tôi bế Tiểu Bì từ gầm ghế sofa ra, túm lấy chân phải phía trước của nó, viết lên trên ghế.

Viết xong, Tiểu Bì trở nên rất vui, vừa nhảy nhót vừa sủa tưng bừng trên ghế.

“Anh viết gì vậy?”

Thấy Tiểu Bì lại hoạt bát như xưa, Diệp Mai Quế mừng rỡ bế cu cậu lên, sau đó quay sang hỏi tôi.

“Hồng trần luân hồi trăm nghìn bận. Kiếp này làm chó lại tiêu dao. Hiếm khi lục căn đều thanh tịnh. Cớ chi bắt mỗ mọc thêm lông.” Tôi nói.

“Anh vẫn vớ vẩn y như vậy.”

Tuy cô ấy lại mắng tôi, nhưng sắc thái trong giọng nói có mang theo tiếng cười.

Trong ti vi bỗng vang lên tin tức về cơn bão, tôi nghe vài câu liền cau mày lại.

“Bão? Biển phía Đông Bắc?” Tôi lẩm bẩm.

“Sao thế? Có bão là chuyện thường mà.”

“Không, chuyện này không bình thường.” Tôi quay sang nhìn Diệp Mai Quế: “Những cơn bão đổ bộ vào Đài Loan thường hình thành từ phía Đông Nam và Tây Nam của Đài Loan. Cơn bão lần này lại hình thành từ bờ biển phía Đông Bắc, là điều cực kỳ hiếm.”

Tôi nghĩ một lát rồi hỏi: “Trong nhà có đèn pin hay nến gì không?”

“Không có.” Cô ấy cười: “Tôi không sợ mất điện đâu.”

“Để tôi xuống nhà mua.” Tôi đứng dậy, cũng mỉm cười: “Nếu mất điện thì tối cô đọc sách sẽ bất tiện.”

“Mất điện rồi còn đọc sách gì?”

“Cô quen thức khuya, nếu mất điện thì trong đêm dài đằng đẵng, cô sẽ rất buồn chán.”

Diệp Mai Quế không trả lời, chỉ mỉm cười, khẽ gật đầu.

Tôi ra hành lang, mở cửa.

“Kha Chí Hoành.” Tôi nghe thấy cô ấy gọi mình trong phòng khách.

“Gì thế?” Tôi lùi lại hai bước, nghiêng người thò đầu vào.

“Cảm ơn anh.” Giọng cô ấy rất dịu dàng “Còn nữa…”

“Hử?”

“Đã muộn lắm rồi, cẩn thận nhé!”

Tuy Diệp Mai Quế chỉ nói có hai câu, nhưng lại khiến tôi cảm thấy trên người bông hồng đêm đã bớt đi hai chiếc gai.

***

“Israel khai quốc ở vùng đầm lầy và sa mạc, vì thế tìm nguồn nước là việc trọng đại đầu tiên trong đời sống của họ. Họ thường đi tìm nguồn nước trong hoang mạc, mỗi khi phát hiện ra, họ sẽ sung sướng hò reo rồi xúm lại thành vòng tròn, ca hát nhảy múa. Đây là lai lịch của điệu Thủy vũ.”

Sau khi nhảy xong điệu Thủy vũ, chị ngồi trên bức tường bao thấp của quảng trường, giọng nói vẫn hơi hổn hển.

“Mayim là nghĩa của từ ‘nước’ trong tiếng Do Thái, vì thế khi nhảy điệu Thủy vũ sẽ liên tục hô Mayim. Mấy đàn anh khoa em hay nhảy điệu này để cầu mưa, vui lắm.”

“Hình như chị biết rất nhiều.”

“Tại em lơ mơ quá thì có.” Chị bật cười, hơi thở đã trở lại bình thường: “Thủy vũ là điệu dân vũ đầu tiên lan truyền tới Đài Loan, thế mà em lại không biết.”

“Chuyện này…” Tôi thoáng thấp thỏm, “Em thật hổ thẹn.”

“Nói đùa thôi mà.” Chị vẫy vẫy tay, ý bảo tôi cũng ngồi lên trên tường.

“Bởi vì chị rất thích các điệu nhảy của Israel, nên bỏ công một chút.”

“Sao chị lại thích các điệu nhảy của Israel?” Tôi đi tới bức tường bao, ngồi xuống bên tay trái chị.

“Người Israel rất đoàn kết, vì vậy vũ điệu của họ đa phần là tay nắm tay kết thành vòng tròn. Nói lại một câu em từng nói: Tất cả mọi người quây lại thành một vòng tròn, mọi người nhảy chung một bước nhảy.”

Chị quay sang nhìn tôi, khóe miệng như cười như không: “Thực ra chị cũng giống em, cũng khát khao một cảm giác hòa nhập.”

Nói xong, chị đứng trên bức tường thấp, ngước nhìn bầu trời đêm, hai tay dang rộng, hít thật sâu. Còn tôi nghe xong, cảm thấy rất ngạc nhiên, nhưng không dám hỏi tại sao.

Giữa bầu trời đêm, chị nhất định là vì sao đang tỏa sáng lấp lánh;

Còn tôi lại cảm thấy, mình đang chìm khuất trong màn đêm tăm tối.

Những vì sao đương nhiên thuộc về bầu trời đêm, cho dù chúng là tiêu điểm của tầm mắt;

Chỉ có bóng tối, mới khát khao được nhìn nhận là một phần của bầu trời này.

Vì thế, tôi vẫn mãi không thể nào hiểu được những lời chị nói, và tâm trạng cũng khát khao cảm giác hòa nhập của chị.

Sau này tôi mới nghe nói, chị là một đứa trẻ mồ côi.

“Em này, em có biết chị thích điệu nhảy nào nhất không?”

Tôi ngẩng lên nhìn chị, lắc đầu.

Chị nhảy phắt từ bức tường thấp xuống dưới.

“Hoa hồng đêm.” Chị nói.

Đó là lần đầu tiên tôi nghe thấy từ “Hoa hồng đêm”.