- 12 -
HỒI ĐÓ, VIỆT MINH LÀ CỤC NAM CHÂM thu hút thanh niên yêu nước. Thanh niên bỏ làng vào chiến khu gần hết, chỉ còn lại ông già bà cả và trẻ con thơ dại. Lâu lâu nghe tin con cái mình trong vùng kháng chiến gửi về, các ông bố bà mẹ vừa lo âu vừa hãnh diện. Thế lực của Việt Minh khá mạnh trong làng nên quân Pháp ít về càn quét nhưng pháo kích luôn. Làng xóm tiêu điều từ dạo ấy. Nhà cửa đổ nát, vườn tược ruộng nương chẳng còn mấy ai canh tác, đầy hoang lạnh. Chiến tranh thực sự có mặt thường xuyên ở làng Minh. Chẳng đêm nào là không có đại bác câu về làng. Sáng ra đã thấy vài ba người chết. Mọi người trông đợi quân Việt Minh thắng trận, dù rằng chiến dịch đóng thuế cho bộ đội kéo dài và nặng nề hơn sưu thế ngày xưa. Ai cũng có gắng chạy chọt để có đủ tiền nộp gạo nộp thuế cho cán bộ, vào mỗi đêm cuối tháng. Nhưng bộ đội không còn thu hút được dân, kể từ hôm bộ đội về làng buổi tối rồi rút đi vào tờ mờ sáng. Ngay sau đó quân Pháp pháo kích như mưa, vào buổi chiều kéo về càn quét. Một nguồn tin tung ra, nói rằng bộ đội cố tình kéo về làng cho Tây bắn và kéo đến càn để lập mưu dụ địch ra khỏi đồn đánh úp. Tây kéo ra thật nhưng bộ đội đánh úp không nổi, dù đã lập kế như vậy nhiều lần. Rốt cuộc quân Pháp cho rằng làng Minh toàn Việt Minh, kéo về càn quét thẳng tay. Những vụ giết cả xóm ở chân núi Sậu, đốt cháy bao nhiêu nhà cửa, bắt đi bao nhiêu người trong làng làm cho dân chúng kinh hồn táng đởm và quay ra chán ghét bộ đội.
Và Minh, vốn từ trước tới giờ yêu mến các anh Bộ Đội, cũng đã phải sợ hãi, thù ghét họ kể từ hôm anh Từ bị bắt.
Anh Từ là anh họ Minh, nhà ở sau vách nhà Minh. Nhà anh khá rộng và có một cái sân phơi thóc thật lớn. Bọn hàng sáo (buôn lúa) cứ đến vụ gặt là kéo đến đầy sân nhà anh để buôn thóc.
Hôm ấy Tây về càn. Mọi người tập trung ở gần nhà anh Từ. Nhờ nhiều lần tập trung trước, và với số vốn Pháp văn bập bẹ học từ lúc Thầy nuôi anh ăn học, anh Từ đã đấu tiếng Tây bồi với bọn Tây càn. Anh Từ tuy là anh họ, nhưng hơn Minh đến gần bốn chục tuổi, nên anh già như ông cụ. Nhờ anh Từ, lần Tây càn đó không có ai bị bắt, trừ vài cô trong làng bị hiếp.
Khi Tây rút đi, một đêm sau anh Từ bị mất tích. Rồi có tin anh bị Bộ Đội giam ở Liên Khu Tư về tội nói tiếng Pháp… làm tay sai cho giặc.
Bẵng đi hơn một năm, vào đúng dịp Tết anh Từ được tha về. Ngày mồng hai Minh theo chú em họ – lớn hơn Minh hàng chục tuổi – sang chúc Tết anh Từ. Minh còn nhớ như in hình ảnh anh Từ lúc đó. Anh ngồi giữa cái sập gụ, mặc áo the đen. Lúc trước anh mập mạp hồng hào bao nhiêu thì bây giờ người anh gầy quắt lại.
Anh trở thành ít nói, ít nói hơn tất cả những người ít nói. Hai chân anh bị liệt một thời gian, sau này đỡ dần, nhưng anh thường ngồi một chỗ cho chóng khỏi. Đó là hậu quả những trận đòn thừa chết thiếu sống mà Việt Minh “thân mến” tặng anh. Họ treo anh lên lơ lửng chân không chạm đất, rồi dùng đủ thứ đánh đập anh. Chỉ vì một cái tội gàn ghép không đâu.
Anh Từ nói chuyện nhát một với chú em họ. Minh ngồi lặng yên nhìn anh. Trông anh như người xa lạ, thảm não và uất ức.
Từ đó Minh cảm thấy ghét Việt Minh. Không còn thấy mê say hình ảnh người Bộ Đội oai hùng với súng ống, lựu đạn, lưỡi lê như trước, mà còn e ngại, xa lánh họ. Bộ Đội đi tới đâu chiến tranh theo tới đó. Những người trong làng Minh lần lượt ra đi, chết hay mất tích, không bao giờ trở lại. Tuy Bộ Đội đã hùng mạnh, Tây vẫn không e dè, kéo về làng Minh lục soát luôn. Lại có người bị bắt, bị giết. Mọi người sống giữa hai gông cùm đó, và chẳng còn biết sợ. Ai khôn ngoan đến đâu cũng chẳng biết cách nào lo toan cho mạng sống của mình, chỉ còn biết phó mặc cho may rủi.
Minh và Thầy, chị Ánh sống ru rú trong nhà. Các anh các chị đã tìm cách ra Hà Nội từ mấy năm trước, nhưng không ai xoay sở đưa ba bố con Minh trốn khỏi vùng đất chết được.