← Quay lại trang sách

- 14 -

HẰNG NĂM, ĐẾN MÙA HOA MƠ NỞ, Minh hay thơ thẩn trong vườn. Chiến tranh đến, những phát đạn đại bác làm sạt một góc nhà, phá tan bể nước nhà Minh, làm gẫy hai cây na lớn trong sân và những ngọn cau, ngọn chuối trong vườn nhưng cây Mơ vẫn ngạo nghễ vươn lên, không chút hề hấn. Những buổi sáng sương đêm vẫn còn đọng lóng lánh trên lá, trên những cánh hoa đài các, xinh xinh. Những trái mơ nhu nhú trên cành, dễ thương và hứa hẹn những ngọt ngon cho người đứng ngắm.

Nhưng Minh không còn dịp đứng ngắm khu vườn nhà Minh nữa. Chiến tranh không còn là hình ảnh chập chờn mà xuất hiện thường trực. Khiến Thầy và chú Giáo cùng họ hàng phải quyết định di cư lên Tháp, một vùng núi cách quê nhà vài chục cây số, ở trong rừng và hang núi. Từ đó Minh chỉ thấy núi, thấy nước tù đọng không bao giờ lên xuống. Cuộc sống thật buồn như cảnh những người sống sót sau trận Đại Hồng Thủy trong Thánh Kinh Thiên Chúa Giáo. Và cực khổ. Ăn uống không đủ no. Mới đầu còn đủ gạo ăn, sau phải trộn lẫn gạo với ngô (bắp), khoai, rồi sắn (khoai mì). Cuối cùng là với kê rồi… cám. Việc giết một con gà, con vịt trong số gia súc mang theo cũng trọng đại không kém gì việc họp bàn cúng Thành Hoàng làng những năm yên bình thủa trước. Gia súc rồi cũng hết, chỉ còn lại vài con chó. Rồi chó cũng “ngả” luôn, chỉ còn trơ lại người với người. Lúc đó mọi người đành phải kéo về làng. Lẽ ra gia đình Minh định về sớm hơn, chỉ vì khuôn mặt chiến tranh thảm khốc quá nên cứ nấn ná ở lại.

Lúc về mọi người ngồi trong thuyền chở thuê. Mới đầu nước còn sâu, người ta chống sào cho thuyền lướt. Sau nước cạn dần, bọn lái đò phải buộc thừng vào thuyền rồi chia nhau lội lên hai bên bờ vừa đi vừa kéo.

Thuyền tới gần núi Sậu thì bị Tây chận lại. Mọi người lo sợ xám cả mặt. Bọn lính Tây đóng dưới chân núi lái xe Jeep ra chặn ngã ba sông, bắn súng bắt mọi người lên bờ. Các gia đình líu ríu dắt nhau bước khỏi thuyền. Trong bờ, phía chân núi lửa cháy đỏ rực. Mọi người bị giải về phía đó. Tới gần đám cháy Minh rợn cả người. Các gia đình sống dưới chân núi bị giết hết và ném vào trong đống lửa. Những mái nhà tranh bị gió cháy bùng bùng dữ dội, thiêu đen những cái xác cụt đầu, thiếu tay, thiếu chân. Minh sợ hãi nhắm mắt lại từng lúc, rồi lại tò mò mở hé ra nhìn.

Bọn lính Tây xì xồ tiếng Pháp, Thầy và chú thay phiên nhau trả lời. Thấy hai người nói tiếng Pháp giỏi, bọn chúng ngạc nhiên:

- Các ông làm nghề gì?

- Thầy giáo!

- À, tốt. Nhưng Việt Minh đâu, chỉ ra đi.

- Chúng tôi không biết. Chúng tôi đi tránh bom đạn đánh nhau, bây giờ đói quá mới trở về làng.

Bọn lính Tây quay lại bàn bạc với nhau một lúc, rồi tên sĩ quan chỉ huy ra lệnh bắt Thầy, chú Giáo và một số đàn ông nữa đi theo chúng. Đàn bà và con nít thì tha về làng. Mọi người khóc lóc om xòm. Thầy và chú Giáo quay sang an ủi, dặn dò gia đình rồi theo bọn lính Pháp về phía những chiếc ô tô đậu ở chân núi. Minh và chị Ánh bước theo thím Giáo, lủi thủi trở về.

Thế là hai chị em về ở lại trong căn nhà rộng thênh thang. Minh thắc mắc không biết khi nào Thầy mới trở về.

Bấy giờ đã lại tới mùa Hè. Nắng chói chang trên những luống cà đầy trái trắng, lấp lánh sau rặng tre cao. Trong vườn cỏ dại mọc cao hơn mắt cá chân nhưng cây ăn trái đã nặng trĩu quả. Minh thơ thẩn dưới bóng mát các lùm cây, mân mê từng trái vải, từng chùm chanh, mê man nhìn ngắm những trái mơ, trái mận đã rám hồng dưới nắng.

Minh chạy về kiếm chị Ánh đòi ăn những thứ trái cây đã chín.

Nhưng chị Ánh cản:

- Chờ Thầy về rồi ăn. Em không nhớ Thầy sao?

Nhắc đến Thầy hai chị em lại thấy nhớ nhung lo ngại, chúi vào nhau thút thít khóc. Minh nghe được tiếng khóc lạc lõng của hai chị em như muốn lẫn vào tiếng chim sẻ chiêm chiếp đầu nhà trưa mùa Hạ.

Ít hôm sau thím Giáo quyết định đưa gia đình và hai chị em Minh đi Phát Diệm. Hình như Thím nhận được tin gì đó, nhưng Thím không nói với Minh vì Minh còn nhỏ. Mọi người tụ họp ở nhà ngang của chú Giáo. Thím bảo Minh ra vườn hái đầy một rổ cà pháo, về ăn với mắm cáy, canh cua. Buổi tối đi ngủ thật sớm và tờ mờ sáng hôm sau mọi người lục đục lên đường.

Minh đánh mất khu vườn từ ngày ấy