← Quay lại trang sách

Chương 5 BỌ NGỰA BẮT VE SẦU-CHIM SẺ ĐỨNG PHÍA SAU

Càn Long gả con gái yêu nhất của mình cho con trai Hòa Thân, ban cho con trai Hòa Thân tước Phong Thân Ân Đức.

- Chu Khuê dạy hoàng tử Vĩnh Diễm, đào mồ chôn Hòa Thân...

Hòa Thân từ Vân Nam trở về, mang theo mấy thứ đồ chơi, một đôi vẹt, một đôi công, một con chó xù rất khôn, đem tặng lại những thứ ấy cho công chúa thứ mười. Mỗi khi đi đâu về, ông không quên mang quà biếu công chúa.

Công chúa thứ mười sinh vào tháng giêng năm Càn Long thứ bốn mươi. Năm ấy, Càn Long đã sáu mươi lăm tuổi. Lúc đó, các công chúa khác người thì lấy chồng, người thì bệnh mất, không còn công chúa nào bên cạnh. Năm Càn Long thứ ba mươi lăm, hoàng tử thứ mười bảy Vĩnh Lân, hoàng tử cuối cùng ra đời. Sau đó mười năm không có thêm con cái, nay lại có cô con gái hoạt bát dễ thương, nên từ Hoàng Thái hậu đã hơn tám mươi tuổi đến các cung nữ, thái giám đều vô cùng sung sướng, không kém gì có thêm một hoàng tử. Càn Long dồn tất cả tình thương cho cô con gái. Chỉ cần có cô con gái vui chơi nô đùa bên cạnh, Càn Long quên mọi nỗi mệt nhọc vất vả, không có cảm giác cô đơn hiu quạnh của tuổi già. Chỉ cần bế công chúa là cảm thấy hơi ấm của cuộc đời.

Hòa Thân càng thích cô công chúa bé bỏng này hơn, trêu công chúa cười, tập công chúa đi, bò dưới đất làm ngựa cho công chúa cưỡi. Hòa Thân còn cho công chúa nào sư tử ngọc, chim hạc mã não, nào gà con lông nhung, chó con lông xù. Công chúa bé bỏng thấy Hòa Thân là nhảy sà vào lòng Hòa Thân.

Càn Long cũng hết sức yên tâm để Hòa Thân dẫn công chúa đi chơi. Dần dà, ba người như hòa thành một. Càn Long không rời cô con gái, và cũng không rời được Hòa Thân. Mỗi lần đi đâu đều đem con gái theo và tất nhiên để cả Hòa Thận cùng đi. Qua mấy năm sống gần gũi như vậy, nhờ tài ăn nói, ton hót, nịnh bợ, dựa thế, Hòa Thân đã dần dần thu phục được tình cảm của Càn Long, mặt khác rất yêu quý chiều chuộng công chúa. Càn Long ở tuổi xế chiều càng cần có sự an ủi về tình cảm và cuộc sống. Về mặt này, Hòa Thân hơn hẳn các hoàng tử, hoàng tôn của Càn Long.

Hòa Thân bước vào vườn Thượng Uyển, thấy Càn Long đang đùa với công chúa. Công chúa nhìn thấy một thái giám cùng đi với Hòa Thân, tay xách theo nhiều đồ chơi, bèn vội chạy tới.

Con chó xù liếm má công chúa, con công xòe đuôi, con vẹt cất tiếng chuyện trò với công chúa. Càn Long cũng rất thích chú vẹt ngộ nghĩnh này, cùng với cô con gái trêu chọc chú vẹt. Càn Long thấy con gái thích thú như vậy, trong lòng thật sự cảm ơn Hòa Thân. Hòa Thân đem ghế đến mời Càn Long ngồi, vừa chải tóc cho Càn Long vừa hỏi:

- Mấy ngày sắp tới sẽ đi săn ở Mộc Lan, có đem theo công chúa theo không?

- Trẫm cũng định mang nó theo nhưng không yên tâm vì săn bắn ở vùng Mộc Lan không giống những nơi khác.

- Nô tài có chọn một con ngựa non đã được huấn luyện ở trại ngựa Thượng Mã Tứ, và tự tay luyện tập ngựa. Hơn nữa, khi đến bãi săn Mộc Lan, ai cũng quan tâm đến công chúa, tuyệt đối không có vấn đề gì xảy ra.

- Khanh kèm nó ta yên tâm.

Nghe sắp được đi săn ở Mộc Lan, công chúa thích thú nhảy nhót.

Hòa Thân hàng ngày vừa đôn đốc sửa chữa miếu Phúc Thọ, vừa dạy công chúa thứ mười cưỡi ngựa bắn cung.

Tháng bảy, Càn Long đến bãi săn Mộc Lan. Lần này đi theo con đường phía đông vào. Đến Nha Khẩu, Càn Long làm bài thơ “Vào Nha Khẩu”. Bài thơ được khắc bằng bốn thứ tiếng Mãn - Hán - Mông - Tạng lên một phiến đá to tại chỗ. Toàn văn bài thơ như sau:

Hoàng gia trọng tập võ,

Thượng Uyển là đất trời.

Chẳng phải nay mới tập,

Tổ đặt nhiều năm rồi.

Núi đá cao chất ngất,

Nha Khẩu ôi cửa trời.

Vách đá cắt lưng núi,

Núi theo sông về xuôi.

Săn mùa thu đã hết,

Ngồi an nhàn ngâm chơi.

Hai đỉnh núi mù toả,

Một dòng nước lẹ trôi,

Hoa vàng cùng lá biếc,

Cao thấp vẻ non tươi,

Năm qua tuần sông Lạc,

Vách núi đây cao vời,

Bảy hang, đường ba ngả,

So đâu hơn nơi đây.

Một bài thơ làm đặng,

Gian nan nay chưa thôi.

Ta than cho vách núi,

Biểu chương còn chờ ai.

Tự đọc bài thơ của mình, nhìn thấy nét chữ chất phát, vững chắc, không phải chữ của mình, biết ngay là chữ của Hòa Thân, khen Hòa Thân mấy câu, quay đầu nhìn thấy cô con gái của mình bận võ phục, cưỡi trên lưng con ngựa non, hông đeo một túi con, giống một võ sĩ thiếu niên anh tuấn. Càn Long cười to, rồi cùng với công chúa và Hòa Thân thúc ngựa tiến lên, nhìn thấy con mồi săn, công chúa giương cung bắn trúng một con thỏ nằm lăn quay trên bãi cỏ. Càn Long kinh ngạc hỏi:

- Học lúc nào mà giỏi vậy?

- Cụ dạy con đấy?

Càn Long ngạc nhiên hỏi tiếp:

- Cụ nào?

- Không phải cụ Hòa thì còn ai?

- Vì sao con gọi ông ấy là cụ?

- Con gọi là cụ, thật ra con cũng chẳng biết vì sao.

Nói xong, công chúa thúc ngựa tiến tới trước. Hòa Thân kèm sát theo sau.

Nhìn thấy con gái như vậy, nghe con gái gọi Hòa Thân là “cụ”, Càn Long ngẫm nghĩ: thật sự yêu thương con gái, chi bằng sớm sắp đặt tương lai cuộc đời cho con gái. Đối với công chúa, giàu sang phú quí, địa vị tôn sùng không quan trọng, vì đã có sẵn chẳng phải lo, vấn đề quan trọng là chọn một đức lang quân như ý có thể gửi gắm cả cuộc đời. Hòa Thân văn võ toàn tài, tâm đầu ý hợp với ta, từ việc chính trị, quân sự, ngoại giao đến việc lặt vặt như ăn, ở, đi, lại của ta đều có mặt của Hòa Thân. Con trai của Hòa Thân năm nay mười sáu tuổi, công chúa mười lăm. Hòa Thân họ Nữu Hộ Lộc, một trong tám họ lớn ở Mãn Châu, cùng họ với mẹ ta, hơn nữa ông cha của Hòa Thân đã cùng theo tổ tiên ta tiến vào Trung nguyên, lập nhiều chiến công, có thể nói gia đình Hòa Thân thuộc dòng dõi danh giá. Công chúa và Hòa Thân lại rất hợp tính nhau, con trai Hòa Thân rất giống Hòa Thân, khôi ngô tuấn tú, thông minh trí tuệ. Gả công chúa cho con trai Hòa Thân là rất thỏa đáng. Càn Long cảm thấy phấn khởi, quất ngựa tiến lên.

Sau lần đi săn ở Mộc Lan, Hoàng thượng rất vội, vì sắp tới là lễ thọ bảy mươi. Sứ thần các nước liên tục kéo đến. Với Hòa Thân, nỗi vui mừng như từ trên trời rơi xuống. Càn Long hứa gả công chúa cho con trai ông và phong cho tước Phong Thân Ân Đức, chờ đến tuổi trưởng thành sẽ tổ chức lễ cưới.

“Phong Thân” tiếng Mãn bao hàm ý “phước lộc” “thần trạch” “phước chỉ”, Càn Long hi vọng phước lộc như biển cả.

Hòa Thân kết thân với Càn Long, địa vị của ông ta trong triều càng được củng cố vững chắc. Hòa Thân chia xẻ lo âu vất vả với Càn Long, lo lắng việc nước, càng tỏ ra cần mẫn. Hòa Thân tự mình bố trí xem xét mọi việc từ nhỏ đến lớn chuẩn bị cho buổi lễ mừng thọ tại Thừa Đức. Tiếp kiến sứ thần các nước phải tỏ rõ uy nghiêm của nước Trung Hoa to lớn hùng mạnh, nhưng phải bình dị thân mật. Hòa Thân đã sắp xếp thỏa đáng việc ăn ở đi lại cho các sứ thần, khiến họ rất thỏa mãn khen ngợi.

Đối với Ban Thiền Ngạch Nhĩ Đức Nê, Càn Long và Hòa Thân đón tiếp càng chu đáo hơn. Trên đường đi Ban Thiền được triều đình quan tâm đặc biệt, các địa phương tiếp đón ân cần.

Đến Thừa Đức, Hòa Thân đưa Ban Thiền đi xem miếu Phước Thọ. Ban Thiền thấy kiến trúc hùng vĩ, lòng thầm khen ngợi, nhưng khi nhìn thấy trang thiết bị nội thất càng vui sướng khâm phục triều đình.

Ban Thiền vừa bước xuống sạp, Hòa Thân nói: “Đại Hoàng đế lệnh hạ quan chuyển biếu Đức Phật sống một bình điếu, xin dâng lên Đức Phật sống”. Ban Thiền tiếp nhận. Hòa Thân nói: “Đại Hoàng đế hàng ngày cùng hạ quan học ngôn ngữ Đường cổ, hạ quan cho rằng Hoàng thượng có thể nói chuyện với Đức Phật sống”.

- Đội ân Thánh thượng ban tặng vật báu, lại cử đại thần chuyển biếu bình điếu, và muốn gặp bần tăng, bần tăng vô cùng cảm kích. Ban Thiền đáp.

- Khi Đức Phật sống còn trên đường đi, ngày nào Hoàng thượng cũng hỏi: “Ban Thiền Ngạch Nhĩ Đức Nê có khỏe không? Lệnh cho các quan địa phương quan tâm chăm sóc Đức Phật sống. Lúc Đức Phật sống đến Thừa Đức, nghi lễ đón tiếp đều do hạ quan chuẩn bị.

Ban Thiền nhớ lại buổi đón tiếp long trọng: các quan văn võ triều Thanh, vương công quý tộc các bộ lạc Mông Cổ, các Lạt ma và hơn ngàn tăng lữ đứng hai bên, chiêng trống vang trời, tiếng vỗ tay dậy đất, tiếng hoan hô bay tận trời xanh, Hòa Thân cùng các quan đại thần trao khăn ha-ta...

Nhớ đến cảnh tượng hôm đó, Ban Thiền nói:

- Bần tăng muốn gặp Hoàng thượng vào ngày mai, xin chuyển tấm lòng ngưỡng mộ của bần tăng đến Hoàng thượng.

- Đại Hoàng đế vì thấy Đức Phật sống đi xa vạn dặm, trải nhiều gian khổ, nên muốn Đức Phật sống nghỉ ngơi mấy ngày, sau đó sẽ tổ chức nghi thức gặp mặt long trọng, tấm lòng ngưỡng mộ của Đức Phật sống, hạ quan xin tâu lại Hoàng thượng. Hạ quan thấy Hoàng thượng đối với Đức Phật sống tình sâu nghĩa nặng, thật như trời cao biển rộng.

Ngày Càn Long tiếp kiến Đức Phật sống gần đến. Mấy ngày đó, Hòa Thân ngày đêm không ngủ. Càn Long thấy Hòa Thân như vậy, nói với công chúa: “Mấy hôm nay cụ Hòa của con bận rộn không đến thăm chơi với con được”.

Hôm đó, tiếp kiến Đức Phật sống Tây Tạng, Càn Long dậy thật sớm, tuy ở tuổi “cổ lai hi”, nhưng vẫn hăng hái, nhiệt tình chờ đợi Ban Thiền vào cung gặp mặt.

Trước cửa Ly Cung, các nhân sĩ của mười tám bộ lạc các vùng Kim Xuyên, Xương Đô, Trát Nhã, Ba Dung, Lý Dung... và hàng trăm người các nước láng giềng như Mông Cổ, Vệ La Đặt... sắp hàng đón chào, phía tây đại lộ, hơn bốn vạn người Hán, Mông, Tạng rập đầu vái chào. Đội nghi trượng của hoàng đế cũng hàng ngũ chỉnh tề ngoài cửa Ly Cung. Cờ xí rợp trời phất phới bay theo chiều gió, gươm giáo, cung tên lấp lánh dưới ánh nắng.

Kiệu của Ban Thiền vừa xuất hiện, chiêng, trống, đàn, sáo nổi lên. Khi đến cửa cung, những người đi theo đều xuống ngựa đi bộ, riêng Ban Thiền vẫn được ngồi kiệu đi thẳng vào trước cửa phòng khách Hoàng đế.

Lần đầu gặp Hoàng đế, Ban Thiền dâng lễ vật, gồm có:

Một cái giường bằng vàng nạm ngọc, tượng hòa thượng Tông Ca Ba, tượng phật Bồ Đề Đại Lạt bằng ngọc, tám tượng phật Thích Ca Mâu Ni bằng đồng đỏ, một ngàn lạng vàng, chuỗi san hô, trầm hương Tây Tạng, dạ Tây Tạng, thảm lông cừu, đồ thủy tinh, một ngàn con ngựa cùng yên cương đầy đủ, khăn ha-ta cầu phúc...

Hoàng đế Càn Long ban tặng Ban Thiền: ba bức ảnh phật thêu bằng sợi vàng và bạc, ghế tựa bằng vàng, bát vàng, bình vàng, khay vàng, lư hương vàng, cốc vàng khảm ngọc, hai hộp bằng ngọc, cốc thủy tinh, lọ hoa thủy tinh, lọ hoa bằng sứ, độc bình bằng sứ, độc bình bằng đồng đỏ, năm trăm lạng vàng, sáu tấm lụa vàng, hai mươi tấm lụa đỏ, da rái cá, da báo, da chồn đen...

Tăng lữ theo Ban Thiền cũng được ban thưởng nhiều vật phẩm.

Hôm đó thết tiệc chiêu đãi Ban Thiền tại miếu Phước Thọ. Tiệc toàn là những món ăn cao lương mỹ vị.

Ban Thiền lưu lại Thừa Đức hơn một tháng, tiếp xúc nhiều lần với Càn Long. Càn Long tổ chức bốn lần tiệc lớn ngoài trời tại vườn Vạn Thọ ở vùng nghỉ mát Sơn Trang, trong đó có hai lần vào buổi tối có bắn pháo hoa. Giúp vui các buổi tiệc này có những trò vui đặc sắc của các dân tộc Mông, Mãn như kịch, xiếc, đua ngựa, múa hát...

Tháng tám, lễ chúc thọ Càn Long bảy mươi tuổi được tiến hành, hiện trường được trang hoàng lộng lẫy sang trọng. Nhưng Càn Long chống chế “tuổi xưa nay hiếm” không thể không làm. “Xưa nay hiếm” có nghĩa là:

“Năm nay lên bảy mươi tuổi, dùng câu thơ của Đỗ Phủ, để nhấn mạnh cái quý giá của “Thiên tử ở tuổi xưa nay hiếm”. Từ thời Tam Đại trở về trước không có, từ thời Tam Đại về sau, thiên tử ở tuổi xưa nay hiếm mới có sáu người. Hơn nữa, đất nước ổn định, lãnh thổ được mở rộng, khắp nơi thần phục, dân chúng yên vui, tuy không giàu có nhưng đủ ấm no. Trước kia là kẻ mất nước, bị gọi là quân giặc, là quyền thần, là gian thần, là tặc tử, ngày này không còn như vậy. Sáu vị vua ở tuổi cổ lai hi, trong đó có hai vị vua tổ sáng lập ra triều Nguyên và triều Minh, lễ, nhạc, chính, hình chưa hoàn hảo. Còn bốn vị vua kia, ta đâu dám bàn, có các vị mới có ngày nay, quả là trước nay chưa hề có”.

Hòa Thân đoán được ý Càn Long, trong đó có nhiều ý do ông trước nay đã tâu với Càn Long, nhập vào tâm khảm Càn Long. Hòa Thân thấy rõ Càn Long về già càng thích tâng bốc công đức, không muốn nghe những lời trái tai, và phát hiện Càn Long đắc chí mãn nguyện, thích an nhàn hưởng thụ.

Hòa Thân bận rộn nhưng luôn luôn không quên chăm sóc chu đáo cô công chúa thứ mười, thấm thoát đã đến tháng giêng năm mới, vườn Viên Minh lại đúng kỳ mở chợ mua bán. Đó là lúc công chúa thích nhất. Càn Long dẫn công chúa đi dạo chợ. Hòa Thân thì rối rít chạy tới, chạy lui.

Dưới thời Càn Long, trước và sau rằm tháng giêng, tại Thanh Cung thường tổ chức chợ cung, tục gọi là phố mua bán, bên cạnh Đồng Lạc Viên bờ đông Phước Hải trong vườn Viên Minh. Lúc Càn Long đi tuần thú phương Nam, rất thích cảnh phồn hoa đô hội của chợ búa dân gian Giang Nam, sau khi về kinh lệnh chọn vùng có núi sông trong vườn Viên Minh, xây thành phố chợ giống như phố chợ Thiệu Hưng ở Giang Nam, có tiệm rượu, quán nước, hàng ăn, cửa hiệu mua bán hàng hóa.

Chủ các cửa hàng trong phố chợ này là do các thái giám trong cung đảm nhận, người giúp việc thì trưng dụng những hầu phòng ăn nói lanh lợi, có giọng nói hay của các nhà hàng ở ngoài thành. Hàng hóa ở đây có đồ cổ, thuốc chữa bệnh, đồng hồ phương Tây, quà ăn vặt, kẹo bánh…

Vương công đại thần cùng vui với Hoàng thượng, tập trung tại đây, tranh nhau mua hàng. Thái giám, cung nữ là những người ở trong cung ít được ra ngoài, cũng đua nhau đi chợ. Càn Long đến đâu thì người giúp việc cửa hàng lên tiếng chào mời khách, tiếp đón tận tình, hầu bàn gọi thức ăn, kế toán báo chi thu, chủ tiệm luôn tay gảy bàn toán lách tách, cảnh tượng thật huyên náo như nơi chợ búa thật sự.

Càn Long và công chúa tận hưởng cảnh vui chợ búa. Công chúa thích thú hoa chân múa tay, thấy cái gì cũng lạ, cũng hay, Càn Long đều thỏa mãn yêu cầu của cô con gái. Bỗng nhiên, công chúa bước đến một sạp hàng, nhìn thấy một chiếc áo khoác màu đỏ tươi rất đẹp, khen:

- Đẹp quá!

- Công chúa thích ư? Hòa Thân vội lên tiếng hỏi.

- Thích!

Hòa Thân liền bỏ ra hai mươi tám lạng bạc mua chiếc áo. Công chúa thích thú chạy đến trước Càn Long khoe:

- Phụ hoàng! Cụ nhà lại mua cho con chiếc áo khoác đỏ.

- Cụ nhà con nhiều tiền nhỉ, nhiều hơn cả phụ hoàng.

- Tiền của nô tài đều là của công chúa, đều dùng cho công chúa!

- Khanh nói cũng phải.

Đúng, Hòa Thân chỉ có một con trai. Tiền đó là của Phong Thân Ân Đức, tức là của công chúa.

Hòa Thân ba mươi mốt tuổi, từ chức Thị lang bộ Hộ được thăng lên làm Thượng thư bộ Hộ, đồng thời là Đại thần nghị chính, Đại thần ngự tiền, Đại thần thị vệ Chánh tổng tài Tứ khố toàn thư, kiêm Thượng thư Viện lý phiên, lại là thông gia với Càn Long, con trai là chồng của cô gái rượu của Càn Long, có thể nói Hòa Thân quyền thế rất lớn!

Thế nhưng, trong lúc Hòa Thân khí thế ngất trời, lại có một người đang đào mồ chôn Hòa Thân. Người đó là Chu Khuê.

Chu Khuê, tự là Thạch Quân, người Đại Hưng, Thuận Thiên, đậu khoa thi hương cùng một lượt với người anh là Chu Quân, đậu tiến sĩ vào năm Càn Long thứ mười ba, lúc đó mới mười tám tuổi. Lúc đầu được chọn làm Thử cát sĩ, sau đó Càn Long thích tài học và đức hạnh nên cho làm Thị độc học sĩ, rồi làm Lương dịch đạo ở Phúc Kiến, sau đó được thăng lên chức Án sát sứ, Bố chánh sứ, cũng vào lúc Hòa Thân ba mươi mốt tuổi. Năm Càn Long thứ bốn mươi lăm, tức là lúc bảy mươi tuổi, Chu Khuê làm quyền Tuần phủ Sơn Tây. Chu Khuê làm quan ở nơi xa, chăm lo việc nước yêu dân, ngoài công việc ra chỉ thích học hỏi, đọc sách, suốt ngày vùi đầu trong thư phòng.

Bố chánh sứ Sơn Tây là Tất Nguyên cảm thấy con người này làm vướng chân, vướng tay mình. Trước khi Chu Khuê đến, ông ta có thể tiêu tiền tuỳ thích, không tiền ư, ông ta “vay tạm” trong kho bạc nhà nước, hoặc “vay tạm” của thuộc hạ. Các thuộc hạ này cũng có máu mặt, nên thường biếu xén quà cáp cho Tất Nguyên. Đương nhiên Tất Nguyên không để cho họ bị thiệt, ông đều có tính toán. Ông nhớ số lượng quà, tiền biếu xén của họ và thế nào cũng tìm cơ hội cho họ vơ vét bù lại.

Khi huyện Phần Châu bị lũ lụt, vị Tuần phủ cũ cáo già về nghỉ, Càn Long cử Chu Khuê đến Sơn Tây làm quyền Tuần phủ. Vừa đến Sơn Tây, Chu Khuê đến ngay Phần Châu, chân trần đi đất đến nhà dân chúng thăm hỏi, thấy nhà cửa dột nát, thiếu ăn thiếu mặc, liền đến huyện Phần Châu, lệnh cho Tri huyện Phần Châu mở kho lương thực cứu tế dân chúng. Viên Tri huyện cứ úp úp mở mở. Chu Khuê đâu có chịu, nhất định buộc viên Tri huyện mở kho thóc ra. Viên Tri huyện đành phải mở kho thóc, và chỉ có kho trống rỗng. Chu Khuê cả giận, nhưng không cách chức ngay viên Tri huyện, lệnh cho ông ta tìm cách bù vào số thiếu hụt. Viên Tri huyện như kiến bò miệng chảo, chạy khắp nơi vay mượn, bán sạch nhà cửa, mới tạm bù vào chỗ thiếu và tưởng như vậy là xong chuyện. Lúc đó, Chu Khuê mới ra lệnh cách chức, cho y về vườn.

Sau đó, Chu Khuê lệnh kiểm tra kho thóc ở các phủ, huyện khác. Các phủ huyện hoảng loạn rối rít, Bố chính sứ Tất Nguyên cũng đau đầu ù tai, chạy vay mượn khắp nơi, khốn khổ một tháng trời, vẫn chưa bù đầy vào kho. Lúc này, Tất Nguyên ra tay trước, tâu về triều đình là các châu phủ che dấu triều đình, ăn chặn lấy cắp tiền, thóc của công. Chiêu này quả nhiên tránh được sự tố cáo của Chu Khuê, chỉ khổ cho các viên Tri phủ, Tri huyện thật thà bị cách chức, xét xử.

Tất Nguyên nghĩ, nếu Chu Khuê cứ ở Sơn Tây không đi, từ chỗ quyền Tuần phủ trở thành Tuần phủ chính thức, thì mình sau này sẽ là kẻ cùng đinh. Trước đây cố gắng thi đậu trạng nguyên, chẳng phải là vì ăn ngon hơn, mặc đẹp hơn, sống sung sướng hơn? Vì sao lúc ấy phải tốn bao nhiêu tiền của để nhận cái chức Bố chính sứ này? Bởi vì Bố chính sứ nắm trong tay tiền bạc của cải ở địa phương, kiếm tiền rất dễ. Tên Chu Khuê ở đây, bao nhiêu công sức của ta trước nay đều thành mây khói. Hơn nữa cả người ta đều nhơ nhớp bẩn thỉu, nếu để cho Chu Khuê ngửi thấy, nhìn thấy, với đức tính của Chu Khuê, mình sẽ bị đá nhào. Tất Nguyên nghĩ: Cái trạng nguyên của ta phải tìm cho ra phương pháp “trạng nguyên”, phải tống cổ hắn đi mới được.

Một hôm, Chu Khuê mời Tất Nguyên đến. Tất Nguyên lo lắng, bồn chồn đến gặp Chu Khuê, nói: “Ngài gặp tôi có việc gì vậy?” Trán đẫm mồ hôi, chờ Chu Khuê hỏi. Không ngờ Chu Khuê đứng dậy, đến trước Tất Nguyên nói: “Ta nhận được thư nhà báo tin, mẹ ta bệnh nặng, bảo ta về ngay, nhưng túi ta trống rỗng, không có tiền đi đường, càng không có tiền thuốc thang chạy chữa cho mẹ ta, ta định tạm vay ngài hai trăm lạng bạc, ta viết giấy tạm vay, được không?”.

Bạn đọc có thể hỏi: “Một vị Tuần phủ, đứng đầu tỉnh, không có đến hai trăm lạng bạc, phải đi vay người khác?” Tác giả xin nói rõ, tiền lương của quan chức triều Thanh để các bạn đọc tham khảo. Chu Khuê làm quan thanh liêm, đâu dễ tìm ra hai trăm lạng bạc.

Chánh tùng nhất phẩm: Một năm, một trăm chín mươi lạng bạc, chín mươi thạch gạo.

Chánh tùng nhị phẩm: Một năm, một trăm tám mươi lạng bạc, bảy mươi bảy thạch gạo.

Chánh tùng tam phẩm: Một năm, một trăm ba mươi lạng bạc, sáu mươi lăm thạch gạo.

Chánh tùng tứ phẩm: Một năm, một trăm linh năm lạng bạc, năm mươi hai thạch năm đấu gạo.

Chánh tùng ngũ phẩm: Một năm, tám mươi lạng bạc, bốn mươi thạch gạo.

Chánh tùng lục phẩm: Một năm,. sáu mươi lạng bạc, ba mươi thạch gạo.

Chánh tùng thất phẩm: Một năm, bốn mươi lăm lạng bạc, ba mươi thạch gạo.

Chánh tùng bát phẩm: Một năm, bốn mươi lạng bạc, hai mươi thạch gạo

Chánh tùng cửu phẩm: Một năm, ba mươi ba lạng, một tiền, một phân, bốn li, mười sáu thạch, năm đấu, năm thăng, bảy hộp gạo.

Tùng cửu phẩm: Một năm, ba mươi mốt lạng, năm tiền, mười lăm thạch, bảy đấu, năm thăng.

Chu Khuê làm quan thanh liêm, tuy là Tuần phủ mà cũng không có tiền để chữa bệnh cho mẹ. Còn Tất Nguyên khi nghe Chu Khuê nói vậy, cảm thấy nhẹ nhõm, thầm nghĩ: Ta cho rằng chẳng có mèo nào không thèm mỡ, chẳng qua Chu Khuê nhà ngươi quá kém, đến giờ vẫn còn làm điệu làm bộ bỏ lỡ bao nhiêu cơ hội làm tiền của chúng ta. Chu Khuê đúng là giả vờ!

Tất Nguyên nghĩ vậy, rồi ngước đầu lên, cười hì hì, lau mồ hôi, nói:

- Thuộc hạ sẽ nghĩ cách!

- Càng nhanh càng tốt, không nên chậm trễ. Chu Khuê nói.

- Đại nhân ở đây chờ thuộc hạ. Thuộc hạ đi rồi quay lại ngay.

Tất Nguyên vừa nói vừa nghĩ: Lão này còn chạy theo danh lợi hơn ta.

Một lát sau, Tất Nguyên cầm đến một ngàn lạng bạc, đặt trước mặt Chu Khuê nói:

- Cụ bà bệnh nặng, thuộc hạ chẳng có gì để bày tỏ lòng hiếu thảo, xin ngài nhận cho.

Chu Khuê đưa tờ giấy vay tiền cho Tất Nguyên, quay mặt nhìn số bạc cả kinh nói:

- Sao nhiều thế này? Nói xong, quay người lại nhìn thấy Tất Nguyên đang nhai nát tờ giấy vay. Chu Khuê hiểu rõ sự tình đập bàn thét:

- Thế này là ngươi coi thường ta ư? Ngươi hối lộ ta ư?

Tất Nguyên thấy thế, biết Chu Khuê không phải giả vờ, lo sợ, nhưng trấn tĩnh ngay.

- Ngài và thuộc hạ đều là quan chức, hàng ngày gặp nhau, coi như anh em, nghe tin cụ bà ốm nặng, lại thấy ngài lo lắng, nghĩ rằng gia đình ngài gặp khó khăn, cho ngài vay thêm một ít để giải quyết việc cần thiết, đó chỉ là tấm lòng thành của tôi, sao ngài lại lấy oán báo ân?

Mấy lời trách móc đó khiến Chu Khuê khó bắt bẻ:

- Vậy là ta mắng nhầm, ta xin nhận tấm thịnh tình này, nhưng ta chỉ tạm vay hai trăm lạng, và ngài nhất định phải cầm lấy tờ biên nhận của ta.

- Vâng, tôi xin nhận tờ biên nhận.

Tất Nguyên thấy Chu Khuê quả là chú mèo không thèm mỡ, thầm nghĩ: ông ta muốn làm tên cùng đinh khố rách, lẽ nào không kéo ta uống nước suông? Vậy phải tìm án sát sứ và mấy viên Tri phủ, Tri huyện cùng nhau viết sớ tâu, tố cáo “Chu Khuê suốt ngày đọc sách, chẳng hề để ý đến công việc”. Tất Nguyên cử người đến gặp và biếu Hòa Thân một vạn lạng bạc và một số châu báu.

Chu Khuê về nhà chăm sóc mẹ ốm, thấy mẹ đã khỏe dần, định trở lại làm việc, không ngờ bị Càn Long triệu về kinh, chức Tuần phủ Sơn Tây giao lại cho Tất Nguyên.

Chu Khuê giật mình, suy nghĩ, sự việc xảy ra thật ngoài sức tưởng tượng, nhưng trong tình lý, trong ngẫu nhiên đã chứa ẩn tất nhiên. Biết chắc, Tất Nguyên và một số người khác đã đút lót tiền bạc cho Hòa Thân và một số kẻ khác, nên chuyện “suốt ngày đọc sách” của ông trở thành tội lỗi.

Sau vụ việc này, Chu Khuê càng suy nghĩ, nghĩ đến việc lớn trong triều. Quay đầu nhìn đoạn đường đã đi ngước mặt nhìn con đường sắp tới. Chu Khuê nghĩ, Hoàng thượng nay không còn cái chí lớn của trước đây chỉ biết thiên hạ yên ổn, cho là sự nghiệp vĩ đại của ông ta xưa kia cũng như sau này chẳng ai làm được như vậy, dần dần thích an nhàn hưởng lạc, suốt ngày khoe giàu, khoe mạnh. Hòa Thân nịnh bợ Càn Long, được Càn Long tin yêu, quyền thần lộng hành, quan lại thối nát, quan phủ nha môn cấu kết nhau, làm bừa làm bậy vơ vét cho đầy túi riêng. Nghĩ đến một số đồng nghiệp, đồng môn cũng chạy theo đuôi họ, làm điều tệ hại. Nếu ai phê phán những tệ nạn đó sẽ bị Càn Long tức giận, Hòa Thân hãm hại. Những đại thần trong triều cũng không đám khuyên can, không dám nói ra sự thật. Chẳng lẽ không còn hi vọng? Nếu còn hi vọng, hi vọng ở đâu?

Người đời thường nói, kẻ biết thời thế là người tuấn kiệt. Thế nào là biết thời thế? Như Gia Cát Khổng Minh nói ở Long Trung, thiên hạ chia ba, theo Lưu Bị lập công xây nghiệp là biết thời thế, nếu để năm sau xuất quân thì việc không thành, ngược lại còn làm suy yếu nước Thục. Như Nhạc Phi thét. “Đánh thẳng vào Hoàng Long Phủ, cho họ nghe thấy!”, nhưng lại không biết lòng dạ của Triệu Cấu, như vậy không phải là biết thời thế. Ngô Tam Quế biết thời thế ư? À! Tên bán nước cầu vinh đó không biết xấu hổ, đã bị giết còn bị người đời cười chê, càng không thể nói là biết thời thế.

Chu Khuê muốn làm người biết thời thế, nhìn thấy hy vọng. Hy vọng ở đâu? Hy vọng chỉ có thể từ bản thân hoàng đế tương lai mà thôi.

Hoàng đế tương lai là vị hoàng tử nào đây?

Tháng chín năm thứ bốn mươi ba, khi nghe có người nói Càn Long “tham quyền cố vị, không chịu nhường ngôi”. Càn Long đã tuyên bố, mùa đông năm thứ ba mươi tám, ông đã chọn người kế vị và nói: “Việc đó có trời làm chứng”. Tên của người kế vị được dấu kín niêm phong trong chiếc hộp để ở phía sau bức hoành phi “Chánh Đại Quang Minh” trong Thanh Cung, vị vua nối ngôi là ai?

Chu Khuê bắt đầu phân tích từng hoàng tử, dần dần tập trung chú ý vào Vĩnh Diễm, hoàng tử thứ mười lăm.

Chu Khuê nhớ lại việc lập hoàng tử nối ngôi, đông chí năm Càn Long thứ ba mươi tám, lễ tế ở Nam Giao, Càn Long lệnh cho Vĩnh Diễm thay mặt tế ở Đông Lăng.

Đông Lăng nhà Thanh ở tại Xương Đoan Sơn, Mã Lan Dụ, huyện Tuân Hóa, Trực Lệ. Vua Thuận Trị, một lần đi săn ở vùng núi này, nhìn thấy phong cảnh đẹp vương khí thịnh, rất thích nơi đây, nên quyết định vùng đất này là nơi chôn cất ông sau khi ông mất. Vua Thuận Trị chết chôn tại đây, sau đó vua Khang Hy chết cũng an táng tại đây.

Trước đây, người thay mặt vua tế lễ Đông Lăng là người nối ngôi. Càn Long để Vĩnh Diễm đến tế lễ Đông Lăng chẳng phải là ẩn ý phó thác cơ nghiệp tổ tiên cho Vĩnh Diễm ư? Hơn nữa, từ sau khi tế lễ Đông Lăng, trong thời gian hai năm, không ai biết Vĩnh Diễm đi đâu. Có người nói hoàng tử bị cấm cố trong cung, nếu vậy, lúc bị giam giữ tại sao Hoàng thượng lại thản nhiên khi Vĩnh Diễm xuất hiện trở lại, Hoàng thượng vẫn thản nhiên như không có việc gì xảy ra? Có người nói, để trừng phạt Vĩnh Diễm, Hoàng thượng bắt Vĩnh Diễm đi lao động khổ sai, nói như vậy còn có thể tin được.

Nói về tư cách phẩm hạnh của người nối ngôi thì chỉ có hi vọng vào Vĩnh Diễm.

Như vậy, Vĩnh Diễm là niềm hi vọng của nhiều người, cần phải tìm cách tiếp cận. Thế nhưng quy định của triều Thanh: đại thần tuyệt đối không được tiếp cận hoàng tử, tiếp cận sẽ bị chém đầu.

Cách duy nhất để tiếp cận Vĩnh Diễm là làm thầy dạy học cho Vĩnh Diễm. Vậy phải như thế nào mới có thể có được địa vị đó?

Chu Khuê xác định được mục tiêu, bắt đầu hành động. Trước tiên, làm vừa lòng Càn Long, cùng Càn Long xướng họa thi ca. Hàng ngày, Càn Long đều làm thơ, có hôm đến cả chục bài, Chu Khuê thu thập tất cả những bài thơ đó, họa lại và dâng lên Càn Long. Càn Long rất vui, dần dần tiếp xúc với Chu Khuê, lúc đầu thưa thớt, sau thì thường xuyên.

Sau đó, Chu Khuê thu thập tất cả thơ ca, bài văn của Càn Long, phân loại, biên tập lại thành từng bó, ghi thêm chú giải, bình luận; có thể sánh với “Tam Tào” “Lý Đỗ”. Càn Long rất thích làm thơ, thường nói “mình có thói quen làm thơ, ngâm thơ”. Làm thơ trở thành “tật” rồi, tự cho thơ mình cao siêu, Chu Khuê lợi dụng điều này. Càn Long càng cho rằng thơ của mình về phong cách, ý tứ, hay ngôn từ, đều có thể sánh với người xưa, và coi thường hiện tại.

Dẫu vậy, Chu Khuê vẫn thấy chưa đủ, nên đem tập “Ngự chế thuyết kinh cổ văn” của Càn Long, giải thích tỉ mỉ rõ ràng hơn, từ tư tưởng ẩn kín đến câu chữ văn chương, không chỗ nào không đề cập đến. Sau khi giải thích bình luận, lại viết thêm một số “lời kết”. “Lời kết” tổng kết tác phẩm của Hoàng thượng có bốn đặc điểm: cải chính những cái hiểu sai của thiên hạ trước nay đối với tác phẩm kinh điển viết bằng lối văn xưa; giải thích và ca ngợi những ẩn ý và sự tinh túy trong các tác phẩm kinh điển cổ đại mà trước nay chưa được giải thích; phán đoán sáng suốt những nghi án hàng trăm năm qua chưa được làm rõ; giải đáp được những nghi ngờ mà các học giả trước nay đã cố công giải thích vẫn giải thích không thông.

Càn Long xem xong những lời chú giải của Chu Khuê, có phần thẹn thùng, nhưng lại nói: “Những lời ghi chép của Chu Khuê là đúng đắn, không phải nhằm a dua nịnh hót, Chu Khuê đã nghiên cứu kỹ tác phẩm của Trẫm, trình bày toàn diện, phát hiện được đạo lý sâu xa bao la ẩn dấu trong tác phẩm của Trẫm. Lời kết của Chu Khuê càng thỏa đáng, đáng được khen thưởng”.

Càn Long lệnh cho sao chép thành nhiều bản, phân phát cho các hoàng tử, hoàng tôn, mỗi người một tập để đọc.

Thế là, tác phẩm của Càn Long, lời chú thích của Chu Khuê, trở thành sách giáo khoa của các hoàng tử hoàng tôn. Lúc này, Chu Khuê được bổ nhiệm làm sư bác thư phòng, chuyên dạy hoàng tử thứ mười lăm Vĩnh Diễm.

Càn Long cho rằng: Vĩnh Diễm là người kế vị mà ta đã có ý định, ngoài Chu Khuê có học vấn uyên bác như vậy, thì không có ai có thể dạy Vĩnh Diễm được.

Chu Khuê làm thầy dạy học cho Vĩnh Diễm, thề sẽ bồi dưỡng Vĩnh Diễm thành một vị vua biết phân biệt trung nịnh, hiểu rõ đúng sai, vì nước vì dân, chăm việc nước yêu dân chúng, cần kiệm. Chu Khuê vừa dạy Vĩnh Diễm thơ ca Lý Bạch, Đỗ Phủ, văn chương Hàn Liễu, câu từ Tô Tân, vừa giải thích đạo lý nhân chính yêu dân yêu nước, lấy dân làm gốc trong “Tứ Thư” “Ngũ Kinh”. Đặc biệt giảng giải rõ ràng, phân tích tỉ mỉ phương sách trị quốc, thành bại mất được, kinh nghiệm giáo huấn của các vị vua trước đây. Khi giảng đến đoạn “gần hiền thần, xa lánh tiểu nhân, do đó nhà Tiền Hán hưng thịnh; gần tiểu nhân, xa lánh hiền thần, do đó nhà Hậu Hán suy sụp” trong tập “Xuất Sư Biểu”, thì phân tích rõ tỉ mỉ tường tận, ai là hiền thần, ai là tiểu nhân. Và vua phải tự mình chính đại quang minh, trong sạch thì mới có thể hiểu biết, mới có thể phân biệt được người hiền kẻ gian.

Chu Khuê chú ý dạy học, càng chú ý dạy người, tạo dựng linh hồn cho một vị vua anh minh. Chu Khuê quả là một công trình sư vĩ đại. Ông truyền tất cả tâm huyết của mình cho Vĩnh Diễm. Ông lặng lẽ đào mồ chôn Hòa Thân. Một sợi dây thòng lọng đang được chuẩn bị.

Chu Khuê đã làm việc tại thư phòng được năm năm. Trong năm năm đó, phẩm chất, cá tính của Vĩnh Diễm đã được hình thành.

Sợi dây thòng lọng treo cổ Hòa Thân đã chuẩn bị xong.

Chu Khuê được Hoàng thượng bổ nhiệm làm Học chánh Phúc Kiến. Ông sắp rời xa Vĩnh Diễm, năm năm sớm tối gần gũi nhau, tình cảm của hai người rất sâu đậm, khó mà chia cắt. Trước lúc ra đi, Chu Khuê để lại cho Vĩnh Diễm năm lời khuyên như sau: “Dưỡng tâm, kính thân, cần nghiệp, hư kỷ, chí thành” (rèn luyện tâm tính, tôn trọng bản thân, chăm lo công việc khiêm tốn, chân thực - ND).

Năm lời khuyên đã trở thành phương châm của Vĩnh Diễm.

Càng về sau, Hòa Thân càng kiêu ngạo, ngang ngược, Càn Long thì tham quyền, Vĩnh Diễm càng thấy rõ, giữ mình khiêm tốn, chờ đợi thời cơ, làm đúng lời dạy bảo của Chu Khuê.